Hà NộiNguyễn Mạnh Hùng, 37 tuổi, ra giá với người mua từ 350 đến 480 triệu đồng một quả thận song chỉ trả cho người bán 250 đến 300 triệu đồng.
Ngày 19/7, Công an quận Hà Đông cho biết đã khởi tố Hùng cùng Lê Xuân Lĩnh, 38 tuổi, quê Nghệ An và Nguyễn Mạnh Thắng, 33 tuổi, quê Hà Nam để điều tra tội Mua bán bộ phận cơ thể người.
Theo điều tra ban đầu, tháng 6/2019, Hùng xin vào làm tại công trình đang xây dựng ở Bệnh viện Quân y 103. Trong thời gian làm việc ở đây, Hùng biết nhiều người bị suy thận cần ghép và nhiều trường hợp muốn bán thận kiếm tiền nên nảy sinh ý định đi làm môi giới để thu lợi bất chính.
Hùng sau đó thuê một phòng ở nhà nghỉ trên địa bàn phường Phúc La để nuôi người bán thận ăn, ở. Hùng thỏa thuận trả cho người bán từ 250 đến 300 triệu đồng một quả thận và thu của người ghép 350 đến 480 triệu đồng.
Từ tháng 11/2019 đến tháng 4/2020, Hùng đã thực hiện trót lọt hai vụ mua bán thận và hưởng lợi 110 triệu đồng.
Quá trình mở rộng điều tra vụ án, cảnh sát xác định Thắng từng bán một quả thận sau đó đi tìm những người có nhu cầu để môi giới mua bán thận, hưởng chênh lệch. Tháng 6/2020, Thắng thu của một người ghép thận 460 triệu đồng song chỉ trả cho người bán 250 triệu đồng. Trừ đi các chi phí mổ, xét nghiệm, Thắng hưởng lợi 150 triệu đồng.
Cũng giống như Thắng, cảnh sát xác định Lĩnh cùng từ nạn nhân bán thận sau đó đi môi giới kiếm lời. Lĩnh vào mạng xã hội tìm người có nhu cầu bán thận và thỏa thuận giá từ 250 đến 300 triệu đồng một quả. Lĩnh sau đó tìm người có nhu cầu ghép và ra giá từ 430 đến 500 triệu đồng.
Sau khi thống nhất giá, Lĩnh đưa người bán và mua thận vào thủ tục phẫu thuật theo hình thức hiến thận tự nguyện trong bệnh viện. Lĩnh có trách nhiệm thuê người chăm sóc người bán thận cho đến khi mổ ghép thành công và xuất viện. Tháng 3/2020, Lĩnh thực hiện thành công một phi vụ, thu lợi bất chính 100 triệu đồng.
Theo công an quận Hà Đông, trong ba bị can, Hùng là "trùm" mua bán thận trên địa bàn. Cảnh sát đang xác minh mối liên hệ của ba người trên trong các phi vụ.
*****************
Downtown Disney mở cửa lại, kiểm tra sức khỏe và an ninh nghiêm ngặt
ANAHEIM, California (NV) – Khu mua sắm Downtown Disney ở Anaheim chính thức mở cửa hôm Thứ Năm tuần trước, 9 Tháng Bảy, và có hàng trăm người xếp hàng trước giờ mở cửa. Tuy vẫn chưa được vào Disneyland, nhưng vài trăm người đến khu mua sắm này để hít thở không khí của “nơi hạnh phúc nhất của Trái Đất.” Và sau nhiều tháng đóng cửa vì đại dịch COVID-19, khi mở cửa lại, nơi này có nhiều thay đổi về mặt an ninh và sức khỏe.
Đối với Orange County, Disneyland là địa danh rất quan trọng về kinh tế vì thu hút du khách ở nhiều nơi đến. Vì dịch COVID-19 hoành hành, công viên này phải đóng cửa để giảm sự lan truyền của dịch bệnh.
Tập đoàn Walt Disney từng có kế hoạch mở cửa lại Disneyland trong Tháng Bảy, nhưng phải hoãn lại vô thời hạn vì các nhân viên, diễn viên và nghiệp đoàn phản đối vì số người nhiễm COVID-19 ngày càng tăng.
Mặc dù vậy, mở lại khu Downtown Disney là nỗ lực lớn của Walt Disney. Tuy nhiên, Downtown Disney có một số thay đổi đáng chú ý.
Khi mới quẹo vào bãi đậu xe, du khách sẽ thấy nhiều bảng quy định. Theo bảng này, du khách phải đeo khẩu trang mới được vào Downtown Disney, phải được nhân viên đo thân nhiệt ngay lối vào và phải giữ khoảng cách 6 foot khi đi bên trong.
Trên đường vào Downtown Disney, du khách sẽ thấy nhiều bảng hướng dẫn lối vào ở đâu và còn cho biết có trạm do thân nhiệt. Nhân viên đeo khẩu trang, tấm che mặt và găng tay sẽ kiểm tra thân nhiệt cho từng nhóm du khách.
Không chỉ về phần kiểm tra sức khỏe, Disney còn thắt chặt an ninh ngay lối vào bằng cách cho cảnh khuyển đánh hơi từng du khách đi qua để phát hiện những thứ không an toàn. Nếu không bị cảnh khuyển chặn lại, du khách phải đi qua thêm trạm soát người, phải cho nhân viên kiểm tra giỏ xách và cho họ rà máy dò kim loại trên người.
Thấy vậy, cô Cindy Lê, cư dân Garden Grove, chia sẻ: “Gì mà như sân bay vậy? Họ đo thân nhiệt thì tôi hiểu được, nhưng cho chó đánh hơi để coi minh có mang bom hay ma túy, rồi rà người mình thì tôi không hiểu.”
Đối với cô, Disneyland là nơi đầy nhiều kỷ niệm: “Tôi lớn lên với các phim hoạt họa của Walt Disney, nên công viên này rất có ý nghĩa với tôi. Từ thời trung học, tôi hay dành dụm tiền để một năm đi Disneyland được ít nhất một lần. Những lúc dành dụm chưa đủ tiền thì tôi hay cùng bạn bè ra Downtown Disney ngồi xem pháo bông vào buổi tối. Tôi còn hôn bạn trai lần đầu tại đây.”
Khi nghe Disneyland phải đóng cửa vì đại dịch, cô buồn nhưng hoàn toàn thông cảm với quyết định đó. Giờ nghe tin Downtown Disney mở cửa lại, cô nhất định phải hít chút không khí vui tươi lại.
“Mấy tháng nay u ám quá, không ai được đến những chỗ vui chơi nữa. Mấy đứa em của tôi không đến trường được, ở nhà hoài cũng không biết làm gì. Hôm nay tôi ra đây trước để xem mọi thứ ra sao, rồi hôm nào dắt em ra đây chơi,” cô nói.
Cô cho hay đi trước một mình như vậy để biết được có an toàn cho mấy người em không. Khi thấy các nhân viên của Disney đo thân nhiệt và giữ an ninh chặt chẽ như vậy, cô Cindy cảm thấy khá an tâm vì những người không có triệu chứng nhiễm COVID-19 mới được vào trong.
Để giúp du khách giữ vệ sinh, Downtown Disney đã để sẵn nhiều trạm rửa tay có xà bông khắp khu mua sắm.
Hiện nay, các nhà hàng ở California không được cho khách ngồi ăn trong nhà, nhưng vẫn có thể cho họ ăn ngoài trời. May mắn cho các nhà hàng hay các gian hàng thức ăn ở Downtown Disney, họ có nhiều chỗ cho khách ngồi ăn ngoài trời. Các nhà hàng thì cho khách ngồi dưới mái hiên, còn khách mua đồ ăn vặt từ các gian hàng có thể vừa đi vừa ăn, hay có thể ngồi ngay băng ghế để ăn như bình thường.
Bà Lisa Cortez cho hay trong lúc mua bánh churro: “Không vào được Disneyland thì tôi vào Downtown Disney tạm. Tôi biết là churro của công viên này không phải là ngon nhất, nhưng đến đây mà không mua thì cảm thấy thiếu thứ gì đó.”
Tuy một số nhà hàng không có chỗ ngồi ngoài trời vẫn chưa mở cửa lại, nhưng không khí ở Downtown Disney đã phần nào có lại sức sống vì lần đầu có khách đến trong nhiều tháng.
Về phần các cửa hàng bán đồ chơi hay quà lưu niệm, khách phải xếp hàng ở ngoài để chờ vào trong, hoặc có thể đặt chỗ trước qua “app” của Disneyland.
Một số du khách tuy vui, nhưng cũng bày tỏ sự lo ngại, không biết nếu Disneyland mở cửa lại thì tình hình dịch bệnh sẽ ra sao.
Ông Tịnh Nguyễn, cư dân Anaheim, chia sẻ: “Tôi nghĩ mở Downtown Disney, kiểm soát kỹ như vậy thì chắc không sao vì không quá đông người. Disneyland thì mỗi ngày có vài ngàn người ra vào thì kiểm soát bằng cách nào. Đông người ra vào thì trước sau cũng có người nhiễm bệnh thôi. Tôi nghĩ quyết định tiếp tục đóng Disneyland là đúng.”
Không ai biết được mọi thứ sẽ ra sao, nhưng nhiều cư dân Orange County đang tạm vui phần nào vì có thể đến lại Downtown Disney được. Trong khi đó, khu mua sắm này mở các ca khúc bất hủ của Disney, trong đó có “Be Our Guest” của phim “Beauty and The Beast,” như đang chào đón họ trở lại.
Đến Thứ Hai, 13 Tháng Bảy, Thống Đốc Gavin Newsom ra lệnh đóng cửa nhà thờ, phòng tập thể dục, quán rượu và hàng chục nơi đông người tụ tập bên trong ở California. Vì là nơi kinh doanh ngoài trời, Disney cho biết khu Downtown Disney vẫn mở cửa.
Hôm Thứ Bảy, 18 Tháng Bảy, Downtown Disney mở cửa từ 10 giờ sáng đến 8 giờ tối. Thời gian mở cửa này được áp dụng đến ngày 30 Tháng Bảy. Sau ngày này, nếu muốn biết thêm, du khách xem chi tiết tại trang web disneyland.disney.go.com. [qd]
********************
Những đứa trẻ từng được gửi bằng đường bưu điện
Khi bưu điện Mỹ ra mắt dịch vụ chuyển phát bưu kiện năm 1913, nhiều loại hàng hóa đặc biệt được gửi đi, bao gồm quan tài, trứng, chó, thậm chí cả trẻ em.
Trước ngày 1/1/1913, Dịch vụ Bưu chính Mỹ giới hạn các gói hàng ở mức 1,8 kg. Khi khởi động dịch vụ chuyển phát bưu kiện, họ không quy định rõ mặt hàng nào được chấp nhận, dẫn đến việc các bưu tá đã phải "chuyển phát nhanh" cả trẻ em.
Theo nhà sử học của Bảo tàng Bưu chính Quốc gia Mỹ Nancy Pope, bà mẹ đầu tiên gửi con bằng đường bưu điện ở Mỹ là Jesse Beauge ở Glen Este, Ohio. Cô chuyển con trai sơ sinh nặng 4,5 kg đến nhà bà ngoại cách đó khoảng 1,6 km với mức phí 15 cent.
Cô còn trả thêm phí bảo hiểm nhưng không rõ khoản này là bao nhiêu. Nếu con cô gặp bất trắc trên đường vận chuyển, cô sẽ nhận được 50 USD tiền bảo hiểm.
"Các em bé không được đóng hộp", Pope nói. "Các em được bế, địu hay đi bộ cùng người đưa thư".
Em bé được gửi bằng đường bưu điện nổi tiếng nhất, May Pierstorff, 6 tuổi, đã được gửi đi trên tàu chở thư vào năm 1914 trong hành trình hơn 110 km, tem bưu chính được dán trên áo khoác của cô bé. Tuy nhiên, Pierstorff có người chăm sóc: nhân viên bưu điện đi cùng là một người họ hàng của em.
"Bưu phí rẻ hơn vé tàu", nhà sử học Jenny Lynch nói.
Bảo tàng Bưu chính Quốc gia Mỹ có ảnh của Pierstorff nhưng không lưu giữ vật dụng nào từ chuyến đi đó. "Chúng tôi rất muốn có chiếc áo khoác dán tem bưu chính cô bé đã mặc", Pope nói.
Những chuyến gửi hàng đặc biệt này thường diễn ra ở vùng nông thôn. Mặc dù việc gửi con bằng đường bưu điện có thể bị coi là hành động vô trách nhiệm, Lynch coi đó là một ví dụ cho thấy cộng đồng nông thôn rất tin tưởng vào nhân viên bưu chính địa phương. Các phụ huynh thực chất không giao con cho người lạ. Ở vùng nông thôn, nhiều gia đình quen biết người đưa thư khá rõ.
"Những người đưa thư được coi là đáng tin cậy và họ đã chứng minh điều đó. Từng có những câu chuyện về người đưa thư ở vùng nông thôn giúp đỡ đẻ và chăm sóc người bệnh. Ngay cả thời nay, họ đôi khi còn cứu mạng người vì họ là những người duy nhất đến nhà những gia đình sống ở vùng xa xôi".
Năm 1914, Bộ trưởng Bưu điện Mỹ ra quy định mới, chấm dứt hoạt động "chuyển phát người" và được duy trì đến ngày nay.
Nhưng điều đó không ngăn được tên trộm William DeLucia tự nhốt mình để được vận chuyển cùng các bưu kiện bằng đường hàng không. DeLucia chui vào trong một chiếc thùng được dán nhãn "nhạc cụ", mang theo thức ăn và bình oxy. Giữa chuyến bay, anh ta ra khỏi thùng, lấy trộm hàng hóa trị giá hàng nghìn USD từ các bưu kiện xung quanh rồi lại trốn vào thùng. Anh ta bị bắt tại sân bay Atlanta năm 1980 khi nhân viên vận chuyển dỡ hàng.
"Chúng tôi vẫn giữ bình oxy của anh ta tại bảo tàng", Pope nói.
Phương Vũ (Theo Washington Post/Smithsonian)
****************
Trùm của những trùm gangster
Lâu nay Semyon Judkovich Mogilevich, người có tới 4 quốc tịch và hiện đang sống ở Moscows, một tỉ phú do tạp chí Forbes bình chọn và là một trong 10 tội phạm trên thế giới bị Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) truy nã gắt gao được rất nhiều người quan tâm theo dõi.
Thông tin về Mogilevich qua nhiều nguồn tin rất mập mờ và khó có thể tin được đâu là thông tin đúng và chính xác. Điều đúng duy nhất là hắn vẫn tồn tại ngoài vòng pháp luật mà không ai biết đích xác cuộc sống về trùm của những trùm gangster bị FBI truy nã gắt gao như thế nào?
Người mang danh "Smart Don"
"Tôi chỉ rửa rúp trị giá 5 USD một lần mà tôi để lại trong áo", Semyon Judkovich Mogilevich, sinh năm 1946, người Ukraina từng khẳng định với truyền thông như vậy. Tuy nhiên, các nhân viên CIA tin rằng, biệt danh "Smart Don" mà thế giới ngầm đặt cho Mogilevich, người có thành tích bất hảo về các tội danh buôn bán ma túy, nguyên liệu hạt nhân, giết người theo hợp đồng, mại dâm rửa tiền đáng sợ hơn nhiều lần.
Mogilevich sinh ra ở Kiev (Ukraina) và là một người Do Thái từng học kinh tế tại Đại học Lviv (Liên Xô). Từ những năm 1970, do gian lận và phạm tội về quản lý tài chính nên Mogilevich đã bị đi tù 2 lần với tổng cộng là 7 năm. Sau khi ra tù, Mogilevich rời Kiev đến Moscow làm việc trong nhóm tội phạm Solomonsky ở khu vực sân bay Vnukovo và ga xe lửa Kiev.
Liên Xô tan rã đã mang đến cho hắn cơ hội thực sự tuyệt vời đầu tiên. Nhận thấy tình hình người Ba Lan gốc Do Thái di cư sang Israel nhưng không thể chuyển tiền và tài sản khác đi được, Mogilevich đã nhanh chóng tìm các biện pháp thâu tóm, giúp họ toại nguyện. Và tất nhiên, thù lao thu được từ hoạt động ma mãnh đủ giúp Mogilevich giàu có và vươn lên thâu tóm hoạt động của các nhóm xã hội đen.
Theo tay chân cũ của Mogilevich là Moni Elson, hiện đang thụ án ở Mỹ, Mogilevich đã mua các hãng hàng không bị phá sản ở một trong những nước cộng hòa Trung Á để buôn lậu heroin. Tài liệu từ FBI và tình báo Israel cáo buộc ông ta buôn bán vật liệu hạt nhân, vũ khí, đá quý, đồ vật nghệ thuật bị đánh cắp và tổ chức mại dâm.
Ngoài vũ khí bộ binh thì còn có tên lửa và 12 máy bay trực thăng vũ trang. Vào cuối những năm 1980, Mogilevich thành lập công ty xuất nhập khẩu dầu Arbat. Khi chiến tranh băng đảng nổ ra ở Moscow vào đầu những năm 1990, Mogilevich chuyển đến Israel.
Lệnh truy nã của FBI đối với Semyon Judkovich Mogilevich.
"Đế chế" của Mogilevich
Năm 1989, Mogilevich kết hôn lần thứ ba. Người vợ mới Katalina Pappova là người gốc Hungary. Điều này cho phép Mogilevich chuyển đến Budapest theo Đạo luật Thống nhất Hôn nhân. Chính tại đây, hắn bắt đầu xây dựng nền tảng của đế chế tội phạm và phát triển lên 250 thành viên như hiện nay.
Các chuyên gia an ninh quốc tế đã bị sốc khi "Smart Don" mua Magnex 2000, Digep General Machine Works và Army Coop, các công ty tư nhân Hungary và có được giấy phép mua và bán vũ khí ở nước ngoài. Mogilevich có được quyền công dân Israel năm 1991 và phát triển mối liên hệ với các ông chủ chính của các nhóm tội phạm Nga và Ukraina, Mỹ…
Nhờ kinh nghiệm tài chính và được nhiều người giúp đỡ, Mogilevich đã thành lập hơn 100 công ty, qua đó lợi nhuận từ gian lận tài chính và các hoạt động bất hợp pháp khác ở Nga và các quốc gia khác được rửa sạch.
Mogilevich thường giao dịch và hội ngộ chớp nhoáng với các ông trùm có máu mặt ở Budapest, Tel Aviv, Miami, Los Angeles, Prague và những nơi khác. Đồng thời đã xây dựng mối liên hệ với các đại diện quan trọng của đời sống kinh tế và chính trị của một số quốc gia.
Trùm rửa tiền xuyên quốc gia
Các nhà điều tra của Mỹ đã theo dõi hoạt động rửa tiền từ Nga vào Mỹ. Họ chú ý đến Ngân hàng New York (BNY), nhất là việc chuyển tiền mặt và thiết lập tài khoản bảo mật cho các ngân hàng Nga ở Mỹ. Họ quan tâm đến Ngân hàng Inkombank vì đã thực hiện tới 250 lần chuyển tiền tài chính mỗi ngày sang Mỹ cho BNY.
Ngân hàng này đã mở 5 tài khoản với BNY dưới danh nghĩa một công ty không có hoạt động kinh doanh rõ ràng. Chỉ trong vòng 7 tháng kể từ khi thành lập, đã có khoảng 10.000 hoạt động thanh toán bù trừ với tổng trị giá 4,2 tỷ USD đã được thực hiện trên một trong những tài khoản đáng ngờ của BNY. Các nhà điều tra ước tính rằng, 10 tỷ USD có nguồn gốc từ Nga có thể đã "chảy" qua ngân hàng thông qua một số tài khoản.
Mogilevich bị FBI cáo buộc tham gia vào kế hoạch 150 triệu đô la để lừa đảo hàng ngàn nhà đầu tư trong một công ty Canada, YBM Magnex, có trụ sở bên ngoài Philadelphia, nơi được cho là sản xuất nam châm. Theo đó, Mogilevich đã giả mạo các tài liệu cho Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch đã tăng giá cổ phiếu của công ty lên gần 2.000%.
"Điều khiến anh ta trở nên nguy hiểm là anh ta hoạt động không biên giới", đặc vụ Peter Kowenhoven , người đã làm việc trong vụ án của Mogilevich kể từ năm 1997. "Đây là một người quản lý để lừa các nhà đầu tư trong số 150 triệu đô la mà không bao giờ bước chân vào khu vực Philadelphia".
"Malevich là một tên cướp mạnh nhất thế giới", Monya Elison, một trong những đối tác và từng thừa nhận là bạn thân của Mogilevich trong một đường dây mại dâm đã từng tuyên bố với giới truyền thông. Nguồn thạo tin cho rằng, một trong những đặc điểm đáng quan tâm nhất của Malevich là ảnh hưởng của ông trong ngành năng lượng của châu Âu. Chỉ với một khoản tiền thưởng 100.000USD, Malevich kiểm soát các đường ống khí đốt tự nhiên rộng lớn ở Nga và Đông Âu .
Semyon Judkovich Mogilevich.
John Wood, một chuyên gia tư vấn chống rửa tiền cao cấp tại IPSA International đã khẳng định, tên cướp người Nga gốc Ukraine từ lâu đã lên kế hoạch cổ phần của mình trong khí đốt của châu Âu. Theo đó, năm 1991, Mogilevich bắt đầu hợp tác trong lĩnh vực năng lượng với Arbat International.
Trong năm năm tiếp theo, công ty đóng vai trò là công ty dầu khí xuất nhập khẩu chính. Sau đó, vào năm 2002, một luật sư người Israel tên Zeev Gordon, người đại diện cho Mogilevich trong hơn 20 năm, đã lập ra Eural Trans Gas (ETG), trung gian chính giữa Turkmenistan và Ukraine. Một số báo cáo cho thấy Gordon đã đăng ký công ty với tên đầu sỏ Ukraine Dmitry Firtash.
Mặc dù Firtash đã nhiều lần phủ nhận không có bất kỳ mối quan hệ thân thiết nào với Mogilevich, nhưng theo yêu cầu của FBI, Firtash đã bị bắt ở Áo vì nghi ngờ hối lộ và tạo ra một tổ chức tội phạm.
Năm 2007, Mogelivich nói với BBC rằng doanh nghiệp của ông là bán lúa mì và ngũ cốc. Tuy nhiên, vào năm 2008, cảnh sát Nga đã bắt giữ Mogelivich vì liên quan đến trốn thuế cho một công ty mỹ phẩm mang tên Arbat. Mogilevich điều hành công ty đó với đối tác của mình, Vladimir Nekrosov. 3 năm sau, các khoản phí đã được giảm.
Hiện nay, nhiều nguồn tin nói rằng, Mogilevich đang sống và điều hành hệ thống hoạt động tội phạm của mình từ Moscows (Nga). Điều này càng khiến cho FBI đau đầu vì nhiều năm qua họ chưa thể tìm ra cách để bắt được Mogilevich về xử theo pháp luật Mỹ.
Mạnh Thắng
****************
Ye Jung Hwa – Nữ huấn luyện viên sexy gợi cảm nhất xứ sở kim chi
Ye Jung Hwa cô nàng huấn luyện viên thể dục thẩm mỹ đang khiến cộng đồng mạng điên đảo với vòng 3 căng tròn hấp dẫn, thân hình siêu sexy quyến rũ.
Mặc dù những shoot hình trong bộ đồ thể dục nhưng không làm vơi bớt đi nét gợi cảm mà còn tôn lên vòng 3 căng “đét đèn đẹt”.
Trộm nghĩ, cô nàng mà sang Việt Nam làm huấn luyện viên thì ad cũng đăng ký đi học liền vừa tập luyện rèn luyện sức khỏe, vừa được ngắm gái xinh thỏa thích.
Mời anh em 188bet ngắm loạt ảnh gái xinh Ye Jung Hwa dưới đây.
*************
Nữ quái' đóng giả y tá giữa đại dịch cúm Tây Ban Nha - VnExpress
Julia Lyons thể hiện mình như một y tá chăm sóc tại gia bận rộn ở Chicago trong đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, nhưng thực chất cô ta là trùm lừa đảo.
Một thế kỷ trước khủng hoảng Covid-19, đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 là một "cỗ máy giết chóc", cướp đi sinh mạng hơn 675.000 người Mỹ và 50 triệu người trên khắp thế giới. Chicago, giống như các thành phố khác, rất cần y tá chăm sóc cho người bệnh tại nhà.
Julia Lyons, 23 tuổi, nắm bắt cơ hội đó. Cô tính toán rằng không ai có thời gian kiểm tra bằng cấp, chứng chỉ của mình, nên đã đăng ký làm y tá tại gia chuyên điều trị cúm bằng nhiều tên gọi khác nhau, khiến cô được đặt biệt danh "Julia lừa lọc".
Cuối năm 1918, tờ Chicago Tribune mô tả Julia là "người phụ nữ sở hữu những viên kim cương và bộ lông thú, tay đeo đầy đá quý. Với nụ cười tươi trên đôi môi hồng và hàm răng trắng sứ, cô ta dễ dàng lừa phỉnh nhiều người".
"Trong khi bệnh nhân cúm giành giật sự sống, Julia khoác lên mình bộ đồng phục y tá và 'cướp bóc' nhà họ", tờ Chicago Tribune viết. Julia mua cho bệnh nhân một bình oxy trị giá 5 USD nhưng nói khống giá lên 63 USD, tương đương 1.077 USD theo thời giá ngày nay. Sau một thời gian "chữa trị" ngắn, Julia biến mất, cuỗm đi hai chiếc nhẫn, hai chiếc áo và một cái khuy cài áo của bệnh nhân.
Đôi khi cô ta kết hợp với một đồng phạm là kẻ buôn ma túy. Ông ta giả vờ là bác sĩ và kê đơn thuốc. Gia đình bệnh nhân phải trả 25 USD cho thứ chỉ đáng giá 10 cent.
Julia không quan tâm đến sống chết của bệnh nhân. Khi Eddie Rogan, 9 tuổi, nhờ cô cứu anh trai George, Julia nói rằng: "Hãy để cậu ấy mê sảng, cậu ấy quen thế rồi". George cuối cùng không qua khỏi.
Khi một người đàn ông lớn tuổi nghi ngờ chuyên môn của cô ta, Julia khéo léo thuyết phục. "Bác không nhớ cháu sao? Khi còn bé, cháu thường đi nhờ xe của bác", cô nói. Ông không thể nhớ rõ liệu lời của cô có đúng sự thật hay không, nhưng câu nói đó đã xóa tan đi nghi ngờ và ông phải trả tiền với giá cắt cổ.
Khi cảnh sát đến, người đàn ông kinh hoàng khi biết cô y tá xinh đẹp, luôn tươi cười này là kẻ lừa đảo tinh vi. Ông nói cảnh sát rằng ông "đã quen cô 20 năm. Khi còn nhỏ, cô ấy từng đi nhờ xe tôi".
Đêm đó, Julia biến mất, cuỗm đi một chiếc đồng hồ đeo tay, tiền và một số thứ khác. Ngày hôm sau, người đàn ông nói với thám tử: "Trời ơi, tôi đã nhầm rồi".
Cảnh sát lần được dấu vết của Julia thông qua một người bạn có tên Eva Jacobs, cũng là một kẻ lừa đảo. Cảnh sát nghe lén điện thoại và biết được rằng Lyons chuẩn bị kết hôn với Charlie, chủ một nhà hàng trên Đại lộ West Madison. Trước khi họ thề nguyện, Julia bị còng tay.
"Anh quen cô gái này bao lâu rồi?", một thám tử hỏi Charlie.
"10 ngày!" Charlie nói. "Chỉ thế thôi, tôi cứ tưởng là tôi hiểu cô ấy".
Ngày hôm sau, tại đồn cảnh sát, Julia đối mặt với góa phụ của một bệnh nhân cũ. "Cô đã giết chồng tôi! Không có hình phạt nào là quá nặng đối với cô", người phụ nữ nói. Julia bị buộc tội ăn cắp, lừa đảo và kiếm tiền bằng cách gian dối.
Hôm sau, viên cảnh sát John Hickey tình nguyện đưa Julia từ nhà tù quận ra tòa. Một thám tử trong vụ án khuyên Hickey: "Phải thật cảnh giác. Cô ta rất láu cá. Phải quản lý cô ta thật chặt chẽ".
"Ôi dào, cô ta không trốn được đâu", Hickey nói.
Thay vì đưa Julia đến tòa án bằng xe tuần tra, Hickey đưa cô lên một chiếc xe bình thường. Tại tòa, khoảng 50 nạn nhân làm chứng chống lại cô. Số tiền Lyons cần nộp để được tại ngoại là 13.000 USD, tương đương hơn 190.000 USD theo thời giá ngày nay.
Hickey đưa Julia trở lại nhà tù. Một tiếng rưỡi sau, anh này cho gọi về cho đồn cảnh sát, nói với họ rằng Julia đã nhảy ra từ một chiếc xe hơi đang chạy và vào một chiếc ôtô đang chờ sẵn. Dựa trên vị trí được báo cáo, một quan chức suy đoán Hickey và Lyons đã đến quán rượu.
Hickey sau đó thay đổi câu chuyện, nói rằng Julia muốn đến ngân hàng để rút tiền. "Tôi vừa quay đi một giây thì Julia đã biến mất", anh nói. Đêm đó, Hickey bị bỏ tù vì nghi ngờ nhận hối lộ.
Sau khi trốn thoát, Julia nhanh chóng "ngựa quen đường cũ". Tháng 3/1919, cảnh sát lần ra dấu vết của cô qua danh sách đăng ký y tá. Họ tìm đến một ngôi nhà trên đại lộ Fullerton. Khi Julia mở cửa, cảnh sát ngay lập tức tóm cô.
Ngoài các cáo buộc trước đây, Julia còn đối mặt với cáo buộc mới là vi phạm chế độ một vợ một chồng. Cuộc hôn nhân của cô với Charlie vẫn còn trên giấy tờ, nhưng cô đã làm đám cưới với một người lính trẻ.
"Tôi gặp anh ấy khi đang ngồi trong một quán ăn ở miền nam", Julia nói. "Thật là lãng mạn. Chúng tôi chỉ quen nhau 4 ngày trước khi tôi trở thành cô dâu. Chúng tôi đi nghỉ ở trang trại trong tuần trăng mật".
Tháng 4/1919, Julia hầu tòa. Cô nói rằng mình là nạn nhân của một băng trộm đã ép buộc cô thực hiện hành vi trái với ý muốn. Cô thậm chí ngất xỉu trước tòa để thể hiện sự đau khổ của mình.
Bồi thẩm đoàn không tin những lời đó. Trước khi tòa tuyên án, Julia nói rằng mình bị điên, nhưng các bác sĩ làm chứng rằng thần kinh của cô bình thường. Vào tháng 8/1919, Julia cởi xuống bộ đồng phục y tá để mặc lên đồng phục tù nhân, sau khi lĩnh bản án 1-10 năm tù trong trại giam vì phạm tội nghiêm trọng.
**************
Nữ quái' đóng giả y tá giữa đại dịch cúm Tây Ban Nha - VnExpress
Julia Lyons thể hiện mình như một y tá chăm sóc tại gia bận rộn ở Chicago trong đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918, nhưng thực chất cô ta là trùm lừa đảo.
Một thế kỷ trước khủng hoảng Covid-19, đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 là một "cỗ máy giết chóc", cướp đi sinh mạng hơn 675.000 người Mỹ và 50 triệu người trên khắp thế giới. Chicago, giống như các thành phố khác, rất cần y tá chăm sóc cho người bệnh tại nhà.
Julia Lyons, 23 tuổi, nắm bắt cơ hội đó. Cô tính toán rằng không ai có thời gian kiểm tra bằng cấp, chứng chỉ của mình, nên đã đăng ký làm y tá tại gia chuyên điều trị cúm bằng nhiều tên gọi khác nhau, khiến cô được đặt biệt danh "Julia lừa lọc".
Cuối năm 1918, tờ Chicago Tribune mô tả Julia là "người phụ nữ sở hữu những viên kim cương và bộ lông thú, tay đeo đầy đá quý. Với nụ cười tươi trên đôi môi hồng và hàm răng trắng sứ, cô ta dễ dàng lừa phỉnh nhiều người".
"Trong khi bệnh nhân cúm giành giật sự sống, Julia khoác lên mình bộ đồng phục y tá và 'cướp bóc' nhà họ", tờ Chicago Tribune viết. Julia mua cho bệnh nhân một bình oxy trị giá 5 USD nhưng nói khống giá lên 63 USD, tương đương 1.077 USD theo thời giá ngày nay. Sau một thời gian "chữa trị" ngắn, Julia biến mất, cuỗm đi hai chiếc nhẫn, hai chiếc áo và một cái khuy cài áo của bệnh nhân.
Đôi khi cô ta kết hợp với một đồng phạm là kẻ buôn ma túy. Ông ta giả vờ là bác sĩ và kê đơn thuốc. Gia đình bệnh nhân phải trả 25 USD cho thứ chỉ đáng giá 10 cent.
Julia không quan tâm đến sống chết của bệnh nhân. Khi Eddie Rogan, 9 tuổi, nhờ cô cứu anh trai George, Julia nói rằng: "Hãy để cậu ấy mê sảng, cậu ấy quen thế rồi". George cuối cùng không qua khỏi.
Khi một người đàn ông lớn tuổi nghi ngờ chuyên môn của cô ta, Julia khéo léo thuyết phục. "Bác không nhớ cháu sao? Khi còn bé, cháu thường đi nhờ xe của bác", cô nói. Ông không thể nhớ rõ liệu lời của cô có đúng sự thật hay không, nhưng câu nói đó đã xóa tan đi nghi ngờ và ông phải trả tiền với giá cắt cổ.
Khi cảnh sát đến, người đàn ông kinh hoàng khi biết cô y tá xinh đẹp, luôn tươi cười này là kẻ lừa đảo tinh vi. Ông nói cảnh sát rằng ông "đã quen cô 20 năm. Khi còn nhỏ, cô ấy từng đi nhờ xe tôi".
Đêm đó, Julia biến mất, cuỗm đi một chiếc đồng hồ đeo tay, tiền và một số thứ khác. Ngày hôm sau, người đàn ông nói với thám tử: "Trời ơi, tôi đã nhầm rồi".
Cảnh sát lần được dấu vết của Julia thông qua một người bạn có tên Eva Jacobs, cũng là một kẻ lừa đảo. Cảnh sát nghe lén điện thoại và biết được rằng Lyons chuẩn bị kết hôn với Charlie, chủ một nhà hàng trên Đại lộ West Madison. Trước khi họ thề nguyện, Julia bị còng tay.
"Anh quen cô gái này bao lâu rồi?", một thám tử hỏi Charlie.
"10 ngày!" Charlie nói. "Chỉ thế thôi, tôi cứ tưởng là tôi hiểu cô ấy".
Ngày hôm sau, tại đồn cảnh sát, Julia đối mặt với góa phụ của một bệnh nhân cũ. "Cô đã giết chồng tôi! Không có hình phạt nào là quá nặng đối với cô", người phụ nữ nói. Julia bị buộc tội ăn cắp, lừa đảo và kiếm tiền bằng cách gian dối.
Hôm sau, viên cảnh sát John Hickey tình nguyện đưa Julia từ nhà tù quận ra tòa. Một thám tử trong vụ án khuyên Hickey: "Phải thật cảnh giác. Cô ta rất láu cá. Phải quản lý cô ta thật chặt chẽ".
"Ôi dào, cô ta không trốn được đâu", Hickey nói.
Thay vì đưa Julia đến tòa án bằng xe tuần tra, Hickey đưa cô lên một chiếc xe bình thường. Tại tòa, khoảng 50 nạn nhân làm chứng chống lại cô. Số tiền Lyons cần nộp để được tại ngoại là 13.000 USD, tương đương hơn 190.000 USD theo thời giá ngày nay.
Hickey đưa Julia trở lại nhà tù. Một tiếng rưỡi sau, anh này cho gọi về cho đồn cảnh sát, nói với họ rằng Julia đã nhảy ra từ một chiếc xe hơi đang chạy và vào một chiếc ôtô đang chờ sẵn. Dựa trên vị trí được báo cáo, một quan chức suy đoán Hickey và Lyons đã đến quán rượu.
Hickey sau đó thay đổi câu chuyện, nói rằng Julia muốn đến ngân hàng để rút tiền. "Tôi vừa quay đi một giây thì Julia đã biến mất", anh nói. Đêm đó, Hickey bị bỏ tù vì nghi ngờ nhận hối lộ.
Sau khi trốn thoát, Julia nhanh chóng "ngựa quen đường cũ". Tháng 3/1919, cảnh sát lần ra dấu vết của cô qua danh sách đăng ký y tá. Họ tìm đến một ngôi nhà trên đại lộ Fullerton. Khi Julia mở cửa, cảnh sát ngay lập tức tóm cô.
Ngoài các cáo buộc trước đây, Julia còn đối mặt với cáo buộc mới là vi phạm chế độ một vợ một chồng. Cuộc hôn nhân của cô với Charlie vẫn còn trên giấy tờ, nhưng cô đã làm đám cưới với một người lính trẻ.
"Tôi gặp anh ấy khi đang ngồi trong một quán ăn ở miền nam", Julia nói. "Thật là lãng mạn. Chúng tôi chỉ quen nhau 4 ngày trước khi tôi trở thành cô dâu. Chúng tôi đi nghỉ ở trang trại trong tuần trăng mật".
Tháng 4/1919, Julia hầu tòa. Cô nói rằng mình là nạn nhân của một băng trộm đã ép buộc cô thực hiện hành vi trái với ý muốn. Cô thậm chí ngất xỉu trước tòa để thể hiện sự đau khổ của mình.
Bồi thẩm đoàn không tin những lời đó. Trước khi tòa tuyên án, Julia nói rằng mình bị điên, nhưng các bác sĩ làm chứng rằng thần kinh của cô bình thường. Vào tháng 8/1919, Julia cởi xuống bộ đồng phục y tá để mặc lên đồng phục tù nhân, sau khi lĩnh bản án 1-10 năm tù trong trại giam vì phạm tội nghiêm trọng.
***********
Chân dung những ông trùm mafia khét tiếng nhất thế giới
Bố già của các bố già
Đứng hàng thứ ba trong danh sách 10 tên tội phạm bị truy nã nguy hiểm nhất thế giới, Semion Mogilevich là cái tên mà thế giới ngầm châu Âu và Mỹ không hề xa lạ. Sở hữu sự nhạy bén với thương trường nên Semion Mogilevich đã giở rất nhiều chiêu trò để kinh doanh và là nhân vật cộm cán trong giới mafia châu Âu và Mỹ. Với tài năng kinh doanh bẩn, Semion Mogilevich đã thu được khối tài sản khổng lồ lên đến 1 tỷ USD.
Semion Mogilevich sinh ngày 30 tháng 6 năm 1946 tại Ukraina. Semion Mogilevich theo học ngành kinh tế tại Đại học Lviv nhưng sau khi tốt nghiệp, ông ta đã không chọn đất nước Ukraina để lập nghiệp mà chọn thành phố Maxcova, Nga là nơi làm ăn sinh sống. Bắt đầu bước chân đến Matxcova, Semion Mogilevich đã tham gia với tư cách là thành viên của nhóm tội phạm Lyuberetskaya. Thời gian đầu y tham gia vào các phi vụ ăn cắp vặt và gian lận trong kinh doanh, dần dần Semion Mogilevich đã trở thành một tên cộm cán, nhạy bén với các phi vụ làm ăn lừa đảo.
Semion Mogilevich.
Trong những năm 1980, hàng chục ngàn người Ukraina và người Nga Do Thái đã di cư đến Israel nhưng không có khả năng chuyển tài sản của họ nên Mogilevich đã đứng ra thay mặt họ để chào bán bất động sản, nội thất và những tài sản có giá trị kèm theo lời hứa sẽ chuyển tiền vào tài khoản khi những người này đã đến Israel.
Cũng chính vì phi vụ lừa đảo này mà Mogilevich đã có một số vốn kha khá để đầu tư vào thị trường chợ đen. Năm 1990, Mogilevich đã là một triệu phú nổi tiếng và chịu chơi. Sau khi có được những mánh lới làm ăn, Mogilevich cùng một nhóm tay chân thân cận của mình chuyển đến Israel để đầu tư vào hàng loạt các doanh nghiệp hợp pháp trong khi tiếp tục vận hành một mạng lưới tội phạm mại dâm, ma túy trên toàn thế giới.
Các cơ quan thực thi pháp luật liên bang châu Âu và Hoa Kỳ gọi Semion Mogilevich là “ông trùm của các ông trùm” bởi sự tài giỏi, nhạy bén cũng như đầu óc tổ chức siêu phàm của y. Semion Mogilevich là người trực tiếp chỉ đạo một đế chế tội phạm rộng lớn và FBI đã phải gán cho y một biệt danh “tên cướp nguy hiểm nhất thế giới”.
Trong mắt của FBI và cơ quan tình báo Israel, Mogilevich là mối đe dọa đối với sự ổn định của Israel và Đông Âu. Một loạt những hoạt động tội phạm nguy hiểm của Mogilevich được đề cập trong các báo cáo của FBI và tình báo Israel, trong đó phải kể đến hoạt động buôn bán nguyên liệu hạt nhân, ma túy, gái điếm, đá quý và tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp.
Không chỉ nổi tiếng là một tên tội phạm siêu cao thủ, Mogilevich còn được biết đến là người rất nhạy bén trong kinh doanh. Y đang điều hành RosUkrEnergo, một công ty liên quan đến tranh chấp khí đốt giữa Nga và Ukraina. Bên cạnh đó y còn điều hành cả Ngân hàng Raiffeisen và liên quan đến Công ty Năng lượng Gazprom của Nga.
Sinh được 3 người con trai với bà vợ người Hungary, Semion Mogilevich đã huấn luyện và đào tạo chúng trở thành tay chân thân tín của mình. Bên cạnh đó y còn quy nạp một đội quân hùng hậu, khét tiếng tàn bạo và được đào tạo bài bản để trở thành những tên tội phạm nguy hiểm và trung thành.
Trong nhiều năm tổ chức này đã thống trị các hoạt động buôn bán vũ khí, rửa tiền, buôn lậu ma túy và tác phẩm nghệ thuật trên khắp thế giới. Những hoạt động tội ác của băng đảng tội phạm này tàn bạo đến mức các băng nhóm tội phạm khác trong khu vực không dám ra mặt đương đầu.
Mặc dù, băng đảng gia đình tội phạm này có trụ sở ở Budapest (Hungary), nhưng chúng lại đặt các trung tâm hoạt động chính ở các thành phố lớn của Mỹ như New York, Pennsylvania, California, thậm chí tận đất nước New Zealand. Cùng với đó tổ chức do y cầm đầu có cả một mạng lưới đâm thuê chém mướn hoạt động ở khắp châu Âu và Mỹ.
Năm 1974, Mogilevich bị kết án 3 năm tù vì buôn bán ngoại tệ. Năm 1977, y tiếp tục nhận thêm bản án 4 năm về tội lừa đảo tín dụng. Năm 2002, mắc tội lừa đảo cổ phiếu của một công ty Mỹ. Năm 2003, Mogilevich chính thức nằm trong sổ đen của FBI, cùng lệnh truy nã quốc tế đặc biệt về các tội rửa tiền, bảo kê và lừa đảo cổ phiếu. Mogilevich bị bắt tại Matxcova trong năm 2008 vì tội trốn thuế, nhưng do quá ranh mãnh, y thoát án tù vào năm sau và cho đến giờ Mogilevich vẫn nằm trong danh sách 10 tên tội phạm bị truy nã nguy hiểm nhất thế giới của FBI.
Tạp chí Forbes ước tính, tài sản của Mogilevich rơi vào khoảng 10 - 12 tỷ USD. Cơ quan chống tội phạm thuộc Bộ Nội vụ Nga cho biết Mogilevich sử dụng đến 17 tên gọi và nhiều hộ chiếu khác nhau nên việc lẩn trốn của Mogilevich dễ như "trở bàn tay".
Trùm mafia Italy trên đất Mỹ
Al Capone (1899 - 1947) là một trùm mafia gốc Ý trên đất Mỹ. Y đã dẫn đầu một tổ chức tội phạm chuyên hoạt động buôn lậu và buôn lậu rượu cùng các hoạt động bất hợp pháp khác như tổ chức mại dâm ở Chicago.
Xuất thân từ một gia đình khá giả, cha là Gabriele Capone đã vượt đại dương sang Hoa Kỳ định cư cùng bà vợ đang mang bầu và hai cậu con trai khi đó chưa đầy 2 tuổi. Gia đình Capone định cư tại Brooklyn, gần một doanh trại hải quân và Al Capone cũng được sinh ra tại đây.
Al Capone .
Khi lớn lên, mặc dù được gia đình chu cấp tiền bạc cẩn thận nhưng Al Capone vẫn đua đòi theo đám bạn và đã tham gia vào các hoạt động băng đảng tội phạm ngay sau khi bị đuổi khỏi trường học khi mới 14 tuổi.
Bước ngoặt trong cuộc đời Capone là thời điểm gia đình y chuyển tới định cư tại khu vực quảng trường Garfield. Tại đây, Capone gặp và kết thân với vợ chồng tội phạm Jonny Torrio. Chính Torrio là người thầy đầu tiên "dạy" cho hắn những bài học quý giá, làm nền tảng cho kẻ lãnh đạo của đế chế tội phạm ở Chicago sau này.
Trong thời kỳ tuổi đôi mươi, Al Capone chuyển đến Chicago để buôn lậu rượu trong thời kỳ cấm rượu của thành phố này. Bên cạnh đó Al Capone còn tham gia vào các hoạt động tội phạm khác bao gồm cả hối lộ quan chức chính quyền và tổ chức đường dây mại dâm. Mặc dù hành nghề bất hợp pháp nhưng Al Capone đã trở thành một nhân vật được nhiều người biết đến và coi trọng bởi y đã nỗ lực đóng góp cho các tổ chức từ thiện bằng tiền phạm pháp. Đấy cũng là một cách để y đánh lạc hướng mọi sự nhòm ngó từ bên ngoài.
Trong quãng đời phạm tội, Capone không từ một thủ đoạn nào để kiếm lời. Tên này có thể thuê người thanh toán đối thủ kinh doanh hoặc tự ra tay, theo những cách dã man nhất. Capone và băng nhóm tung hoành và nắm giữ các hoạt động ở Chicago gồm cờ bạc, mại dâm, buôn lậu ma túy, cướp, hối lộ và giết người.
Al Capone được mệnh danh là "Bill Gates" của thế giới tội phạm với tổng thu nhập là 1,3 tỷ USD. Theo số liệu của chính quyền thành phố Chicago, trùm xã hội đen đã kiếm 100 triệu USD chỉ trong năm 1929 thông qua các hành vi trái pháp luật.
Thảm sát chấn động nước Mỹ ngày Valentine năm 1929 là vụ tai tiếng nhất ghi dấu ấn của tên trùm. Đây là sự kiện đỉnh điểm trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát thành phố Windy giữa hai kẻ không đội trời chung là Al Capone và Bugs Moran. 7 tay chân thân tín của Moran đã bị thuộc hạ của Al Capone bắn chết trong vụ thảm sát. Dù thoát khỏi hầu hết các vụ truy đuổi của giới chức và cảnh sát, Al Capone lại thất bại trước sở thuế vụ và chịu án 11 năm sau chấn song nhà tù vì tội trốn thuế.
Trùm ma túy "khát máu"
Pablo Escobar (1949 -1993) là một trùm buôn ma túy người Colombia. Được sinh ra ở Rionegro, Colombia trong một gia đình nông dân có đến 9 người con nên Pablo Escobar đã không chấp nhận cuộc sống nghèo khó. Pablo Escobar luôn nghĩ đến sức mạnh của đồng tiền nên y đã nung nấu ý định kiếm tiền bằng mọi giá. Pablo Escobar bắt đầu tham gia vào các nhóm tội phạm đường phố và đã bị cảnh sát bắt ngay khi còn đang ở độ tuổi vị thành niên và bị cáo buộc tội ăn cắp bia mộ.
Sau khi được gia đình bảo lãnh tại ngoại, Pablo Escobar tiếp tục tham gia vào các hoạt động phạm tội như lừa đảo, bán thuốc lá lậu, vé số giả và ăn cắp xe hơi. Trong đầu những năm 1970, Pablo Escobar là một tên trộm và là vệ sỹ chuyên bảo kê cho các ông trùm. Dần dần quen với các mánh khóe làm ăn, Pablo Escobar bắt đầu tham gia vào việc buôn bán ma túy.
Pablo Escobar.
Danh tiếng Pablo nổi như cồn sau khi tham gia tổ chức buôn bán ma túy Medellin Cartel của Colombia. Cuộc đời Escobar xoay quanh mục đích duy nhất là làm ra và bảo vệ một núi tiền bằng mọi giá. Pablo Escobar đã trở thành triệu phú khi mới 22 tuổi.
Băng đảng của tên này hối lộ các quan chức để những lô hàng của chúng tuồn sang Mỹ một cách thông suốt. Dưới trướng Escobar, tập đoàn Medellin Cartel là tổ chức đầu tiên sản xuất và phân phối cocain ở quy mô công nghiệp, đưa Escobar trong vòng vài năm lên vị trí những người giàu nhất thế giới, với tổng tài sản gần 25 tỷ USD, theo Forbes. Pablo Escobar có hàng loạt máy bay riêng dùng để vận chuyển ma túy.
Tháng 5 năm 1976, Pablo Escobar cùng một số đồng bọn đã bị bắt và cảnh sát tìm thấy 18kg ma túy nhưng vì tự tin với tài hối lộ cảnh sát và thẩm phán nên Pablo Escobar cho rằng không bao giờ mình chịu đầu hàng. Pablo Escobar là một ông trùm khét tiếng tàn bạo bởi nếu như bất cứ ai dám chống lại hắn thì hắn sẵn sàng trừ khử kể cả những quan chức không chịu nhận hối lộ của hắn.
Sau khi được tại ngoại, Pablo Escobar vẫn tiếp tục công việc của mình. Thời điểm đó, nhu cầu tiêu thụ cocain tại Hoa Kỳ tăng vọt nên Pablo Escobar đã tổ chức vận chuyển nhiều chuyến hàng, giăng nhiều mạng lưới khắp Hoa Kỳ để buôn bán ma túy một cách quy mô và bài bản.
Pablo Escobar còn phối hợp với một ông trùm khác để phát triển điểm đảo trung chuyển trong Bahamas. Pablo Escobar đã mua hầu hết phần đất trên đảo bao gồm bến cảng, khách sạn, nhà ở, tàu thuyền, máy bay và thậm chí xây dựng một kho lạnh ngay trên đảo để bảo quản và lưu trữ cocain.
Thời điểm này ước tính có đến 70-80 tấn cocain đã được vận chuyển từ Colombia đến Hoa Kỳ mỗi tháng. Thời điểm đỉnh cao nhất là Pablo Escobar vận chuyển được 10 tấn mỗi ngày bằng các máy bay riêng. Ngoài việc sử dụng những chiếc máy bay, Pablo Escobar còn sử dụng hai tàu ngầm điều khiển từ xa để vận chuyển cocain.
Số tiền thu được từ việc buôn bán ma túy là một con số khổng lồ, Pablo Escobar cũng đã được nhiều người biết đến bởi hắn đã đóng góp rất nhiều tiền vào việc xây dựng bệnh viện, trường học và giúp đỡ người nghèo.
Trong những năm 1980 và tới tận trước khi chết vào năm 1993, Pablo Escobar cùng tổ chức Medellin Cartel của gã đã vẽ ra một bức tranh đẫm máu ở Colombia. Riêng trong năm 1991, tỷ lệ giết người ở thành phố Medellin đã lên tới con số gây sốc là 381 vụ/100.000 dân. Trong năm đó, khoảng 7.500 người đã chết tại thành phố. Pablo Escobar đưa vào tầm ngắm các chính trị gia, cảnh sát, lực lượng an ninh, các nhà báo, các quan tòa trong cuộc chiến chống lại nhà nước.
Hải Anh
*************
Là một thằng con trai, nghèo như anh, nào dám vớ được em
Lần đầu tiên từ trước đến nay, Sở Cảnh sát đô thành Tokyo (Nhật Bản) đã tuyển chọn một đội đặc nhiệm toàn nữ để bảo vệ đệ nhất phu nhân Mỹ Melania Trump
Lên chức trưởng phòng tôi khá bận rộn với hàng núi công việc, thành ra chẳng có thời gian lo cho chồng con, nhà cửa nữa. Không thể kham nổi việc công ty lẫn việc nh
Người này cam đoan với chúng tôi là chuyện có thật, xảy ra hầu như mỗi đêm vào lúc 3 giờ sáng, ngay bên cạnh nghĩa trang Westminster Memorial Park, trên đường Hazard về phía bắc của nghĩa địa.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.