Trương Nhân Tuấn - Phản biện bài “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam-Campuchia 1979” ?

Thứ Hai, 08 Tháng Giêng 20248:00 SA(Xem: 489)
Trương Nhân Tuấn - Phản biện bài “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam-Campuchia 1979” ?

04 

Trên RFA có bài phỏng vấn giáo sư (GS) Vũ Tường bên Mỹ về chủ đề “Gọi tên gì cho cuộc chiến Việt Nam-Campuchia 1979 ?”.

Theo nhận xét của tôi thì bài này có (rất) nhiều sự kiện cần được bàn luận lại. Hiện thời trong nước có rất nhiều sử gia, nhiều nhân chứng “có tham dự” cuộc chiến Việt Nam-Campuchia. Dĩ nhiên họ rất thông thạo về cuộc chiến này. Hy vọng họ sẽ lên tiếng để “rộng đường dư luận”.

Cá nhân tôi, “chuyên gia nghiệp dư về biên giới và lãnh thổ”, cũng có một số kiến thức về cuộc chiến. Việt Nam gọi cuộc chiến này là “Chiến tranh biên giới Tây Nam”. Một số học giả quốc tế gọi đây là “chiến tranh ủy nhiệm". Khmer Đỏ đánh Việt Nam là đánh cho Trung Quốc. Việt Nam lấy danh nghĩa “tự vệ chính đáng” nhưng khi đánh qua Campuchia là đánh cho Liên Xô.

Tôi thì cho rằng cả hai cái tên này đều đúng. Nhưng nguyên nhân sâu xa khiến chiến tranh xảy ra là vấn đề lãnh thổ. Trung Quốc luôn lợi dụng mâu thuẫn giữa Việt Nam   và Campuchia về lãnh thổ để ngư ông đắc lợi. Bài viết sau đây trích lại từ một khảo luận của tôi về biên giới Việt Nam-Khmer từ hai thập niên trước. Đăng lại cũng để “rộng đường dư luận”.

Biên giới Việt-Miên từ năm 1862 đến năm 1945

Năm 1856 vua Khmer là Norodom (Nặc Ông Dương) thỉnh cầu được sự bảo hộ của Pháp. Ngày 11 tháng 8 năm 1863 hai bên ký ký hiệp định, vương quốc Khmer, lúc đó có tên mới là Cambodge, được đặt dưới quyền bảo hộ của Pháp. Từ đó Pháp đại diện cho vương quốc Khmer trong các lãnh vực đối ngoại và đối nội.

Nội dung kết ước này vua Norodom không hề nói tới lãnh thổ, biên giới của vương quốc mình có từ đâu tới đâu.

Lãnh đạo Pháp ở địa phương, đô đốc Pierre-Paul de La Grandière, quyết định phân định biên giới (Việt Nam-Cambodge và Cambodge-Thái Lan), mục đích xác định lãnh vực thuộc quyền quản trị của Pháp. Nhưng sự mù mờ của biên giới, cùng với sự thiếu hiểu biết tình hình địa chính trị của khu vực, ông này đã làm cho phía Thái Lan hưởng lợi.

Pháp (đại diện bên Cambodge) ký kết hiệp ước với Xiêm vào ngày 15 tháng 6 năm 1867, theo đó Xiêm cam kết từ bỏ quyền “thượng quốc” của Xiêm đối với Khmer. Đổi lại Pháp phải nhượng cho Thái lãnh thổ Khmer vùng hữu ngạn sông Cửu Long, tức 1/2 lãnh thổ Kampuchia hiện nay, gồm các tỉnh Battambang, Sisophon và Siemreap hiện nay.

Việc phân định biên giới Thái Lan-Khmer phù hợp với thực tế “biên giới hiện trạng”. Trước khi Pháp vào Cambodge, vương quốc Khmer phải chịu thần phục cả hai bên Việt Nam và Thái Lan. Tả ngạn sông Cửu Long thuộc ảnh hưởng triều đình Huế và hữu ngạn thuộc Thái Lan.

Lập trường ở Paris, khi ký hiệp ước 1862 với triều đình nhà Nguyễn, nước Pháp có thẩm quyền thay thế nhà Nguyễn về quyền thượng quốc ở vương quốc Khmer. Kết ước giữa Pháp với Nặc Ông Dương, ký năm 1863, chỉ có ý nghĩa tượng trưng chứ không mang tính bó buộc của pháp lý. Tức là có hay không có kết ước 1863 thì lãnh thổ Khmer vẫn chịu sự bảo hộ của Việt Nam. Việt Nam chịu bảo hộ của Pháp thì Khmer cũng chịu sự bảo hộ này. Điều này hoàn toàn phù hợp với “luật lệ quốc tế” trong thời kỳ.

Về lãnh thổ của Khmer nhượng cho Thái theo hiệp ước 1867, Pháp sửa chữa lại nhân ký hiệp ước Pháp-Xiêm 1893 phân định lãnh thổ. Các tỉnh của Cambodge nhượng cho Thái trước kia được Pháp lấy lại.

Biên giới Việt-Miên được phân định qua hai thời kỳ : năm 1870 và năm 1873. Cuộc phân định năm 1870 có sự hiện diện của quan chức Khmer, cắm được 60 mốc. Vùng đất gọi là “Mỏ vịt” (tỉnh Sveyrieng) thuộc về Việt Nam. Sau đó phía Miên phản đối, đòi lại vùng đất này. Pháp đồng ý vạch lại biên giới, trả lại vùng này cho Cambodge. Cuộc phân định năm 1873 gồm 64 mốc.

Năm 1887 khối Đông Dương được thành lập, Cambodge là một  thành phần, cùng với Cochinchine (Nam Kỳ), An Nam (Trung Kỳ) và Tonkin (Bắc Kỳ). Quốc gia Lào chỉ được thành lập năm 1893, do yêu cầu của ông August Pavie.

Đường biên giới giữa Cochinchine (miền Nam) và Cambodge trở thành đường biên giới hành chánh, nội bộ của Đông Dương, thuộc thẩm quyền của quan Toàn Quyền người Pháp.

Vùng Darlac thì được sáp nhập vào Việt Nam năm 1895. Điều này xảy ra do việc trao đổi đất đai : Việt Nam nhượng đất Trấn Ninh cho Lào, đồng thời Lào nhường vùng đất phía nam nước này cho Cambodge. Năm 1923 vùng Kontum cũng được nhập vào Darlac, đồng thời với vùng đất đỏ phía nam là Ban Mê Thuột.

Về lãnh thổ trên biển thì được xác định năm 1939, do nghị quyết của Toàn quyền Brévié. Đó là một đường thẳng 140° so với bờ biển, theo đó các đảo phía bắc đường này thuộc Cambodge và các đảo phía nam thuộc Việt Nam, trong đó bao gồm đảo Phú Quốc.

Đến năm 1939, biên giới trên đất liền hai bên Việt-Khmer được phân định hoàn tất. Biên giới này là biên giới thuộc địa, thuộc nội bộ của nước Pháp, chứ không phải là đường biên giới quốc tế giữa quốc gia với quốc gia.

Một số học giả Kampuchia hiện nay cho rằng Pháp đã thiên vị Việt Nam lúc phân định biên giới. Vì vậy họ có khuynh hướng không nhìn nhận đường biên giới này. Dĩ nhiên điều này không phù hợp với các luật lệ cũng như tập quán quốc tế.

Theo nguyên tắc « Uti possidetis » của công pháp quốc tế, áp dụng cho lãnh thổ các nước thuộc địa sau khi lấy lại được nền độc lập. Trong thời kỳ thuộc địa, lãnh thổ đó do bên nào quản lý, thì sau khi giành được độc lập, vùng đất đó sẽ tiếp tục do bên đó quản lý.

Vì vậy, lập luận của một vài học giả Kampuchia hiện nay, khi lên tiếng đòi lại đất của Việt Nam, như đảo Phú Quốc, vùng lãnh thổ gọi là Khmer Krom (tức là vùng đất hiện nay thuộc tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu…), đều không thuyết phục, nếu không nói là trái ngược với luật lệ và tập quán quốc tế.

Thử tưởng tượng, ai cũng có thể đòi lại đất như vậy, thì nước Mỹ, nước Úc, Canada v.v… sẽ biến mất, vì đất đó là của người dân bản địa, chứ không phải của dân da trắng hiện nay. Cũng như nhiều nước Nam Mỹ, các nước Châu Phi… sẽ không còn tồn tại.

Nên biết là đường biên giới các nước Phi Châu là do hai đế quốc thực dân Anh và Pháp phân định. Để ý thì thấy là đường biên giới ở đây thường đi theo đường thẳng, đường kinh tuyến, vĩ tuyến… nguyên nhân vì hai bên phân định trong văn phòng, trên bản đồ. Hậu quả của việc phân định như thế làm cho nhiều dân tộc không có quốc gia, hay một dân tộc bị chia cắt ra, mỗi phần ở trên một quốc gia khác nhau. Và ta thấy rằng các đường biên giới đó vẫn còn giá trị pháp lý cho đến hôm nay.

Vì thế đòi hỏi của các học giả Khmer, đi ngược lại tinh thần của quốc tế công pháp. Điều cần nhấn mạnh là các cuộc phân giới, mặc dầu do quan người Pháp điều khiển, nhưng các quan chức người Miên và người Việt đều có hiện diện. Vấn đề là họ không phản đối lúc phân định mà chỉ phản đối khi phân định đã hoàn tất. Sau này ta sẽ thấy, lập luận của Sihanouk về biên giới luôn thay đổi. Ông này lúc thì dựa vào Nhật, lúc thì dựa vào Trung Quốc để yêu sách Việt Nam về lãnh thổ.

Năm 1945 khi Nhật đến thì Sihanouk lập tức nhảy sang Nhật. Khi thấy thế lực Trung Cộng nổi lên, Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch tháng 10 năm 1949, Sihanouk lại có khuynh hướng dựa vào Trung Cộng. Trong thời gian hội nghị Genève 1954, Sihanouk nghĩ rằng sẽ được Trung Quốc giúp đỡ lấy lại đất, do đó đưa ra những yêu sách rất phi lý. Trong thời chiến tranh Việt Nam, Sihanouk lại thiên về phía cộng sản Việt Nam, giúp phe này, hy vọng khi họ chiến thắng sẽ trả lại đất đai. Rồi sau 1975, các phe Kampuchia, kể cả Sihanouk, cũng lại chống Việt Nam vì họ cho rằng lãnh đạo cộng sản Việt Nam không giữ lời hứa trả lại đất.

Từ đó cho đến nay, vấn đề biên giới, lãnh thổ, hải phận… giữa Việt Nam và Kampuchia, lúc nóng, lúc lạnh tùy thuộc vào sự tốt lành quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Biên giới Việt-Miên 1945-1954

Sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 9 tháng Ba năm 1945, Sihanouk đơn phương tuyên bố Cambodge độc lập. Tháng Sáu năm 1945 Sihanouk đưa kiến nghị lên lãnh đạo Nhật, xin Nhật trả lại Nam Kỳ cho Cambodge, thay vì trả cho triều đinh Huế.

Nên biết, lúc đó Nam Kỳ có quy chế là thuộc địa của Pháp, tương tự các lãnh thổ hải ngoại của Pháp hiện nay như Calédonie, Gyuane hay Réunion.

Quan chức Nhật chưa quyết định gì thì thua trận Đại chiến trước Đồng minh.

Pháp vào lại Việt Nam, gặp nhiều sự kháng cự của kháng chiến Việt Nam, trong khi chính phủ của ông Hồ tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) ngày 02-09-1945 ở miền Bắc. Pháp vào lại Việt Nam, tổ chức lại các nước Đông Dương trở thành Khối liên hiệp Pháp.

Về phía Việt Nam, Bảo Đại được Pháp đề nghị trả lại lãnh thổ mà nhà Nguyễn đã ký giao cho Pháp trước kia. Bảo Đại chưa đồng ý nếu Pháp trả Nam Kỳ và Pháp nhìn nhận nước Việt Nam là một nước thống nhất ba miền Bắc, Trung, Nam. Pháp đồng ý nguyên tắc này và điều này được lập lại trong Hiệp định Genève 1954.

Quốc gia Việt Nam được thành lập vào năm 1949, đúng với thể thức quốc tế công pháp. Việt Nam cùng với Lào và Cambodge, trở thành những “quốc gia liên kết” trong khối Liên hiệp Pháp.

Phái đoàn của Cambodge được gởi qua Paris điều trần ngày 2 tháng 4 năm 1949, mục đích thuyết phục quốc hội Pháp trả lại Nam Kỳ cho Cambodge. Lý lẽ của phái đoàn Cambodge là lúc ký hiệp định bảo hộ với Pháp năm 1863, nội dung kết ước không nói đến số phận của Nam Kỳ vì vương quốc này nhường đất này cho Pháp sử dụng. Bây giờ Pháp không cần đến lãnh thổ này nữa, hợp lý là phải trả lại cho Cambodge chớ không thể trả cho triều đình Huế.

Lý lẽ này không thuyết phục được chính giới Pháp vì lẽ, các tỉnh Nam Kỳ là do triều đình Huế nhượng cho Pháp theo các hiệp ước 1862 và 1874. Trong khi hiệp định 1863 giữa Pháp và Miên thì không hề có một điều bảo lưu nào về lãnh thổ.

Quốc hội bác yêu sách này với đa số. Nhưng yêu sách về lãnh thổ của Cambodge thì được một số dân biểu cánh tả của quốc hội Pháp ủng hộ.

Thấy đòi nguyên cả Nam Kỳ không xong, ngày 02-05-1949 Quốc hội Cambodge cho ra một kiến nghị yêu cầu nhà nước Pháp phân định lại biên giới. Những người này cho rằng biên giới giữa Nam Kỳ và Miên chưa bao giờ được phân định. Các cuộc phân định trước hoàn toàn mang tính cách thiên vị, gây thiệt hại cho Cambodge. Kiến nghị này cũng bị quốc hội Pháp bác bỏ.

Căm hận Pháp đã không thỏa mãn các yêu sách của mình, Sihanouk có khuynh hướng nghiêng về Trung Cộng, là một thế lực đang lên, đứng sau chính phủ Hồ Chí Minh, đối đầu với Pháp trong vấn đề Việt Nam. Ông này nghĩ rằng Trung Quốc sẽ dùng chính phủ của ông chống lại Pháp ở mặt trận phía tây.

Hội nghị  Genève 1954, Sihanouk công bố trước các đại cường yêu sách về lãnh thổ của Cambodge gồm 6 giải pháp, nội dung dẫn lại sơ lược như sau :

Hoặc trả lại cho Cambodge toàn vùng đất phía hữu ngạn sông Hậu Giang, bao gồm thêm các tỉnh Trà Vinh, đảo Phú Quốc và vùng đất giới hạn giữa kinh Tân Châu và sông Tiến Giang đồng thời tàu bè Cambodge có quyền quá cảnh ở Sài Gòn.

Hoặc là trả lại các vùng lãnh thổ trải dài cho tới hữu ngạn sông Tiền Giang, gồm các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc và đảo Phú Quốc, quyền được quá cảnh ở Sài Gòn đồng thời dân Khmer sống trên đất Việt Nam phải được bảo vệ.

Hoặc phải “quốc tế hóa Nam Kỳ”, kinh Vĩnh Tế và hải cảng Sài Gòn có quy chế tự do, bãi miễn thuế quan.

Còn không là phải đặt Nam Kỳ và đảo Phú Quốc dưới sự quản trị của Liên Hiệp Quốc.

Các đòi hỏi phi lý này không được nước nào ủng hộ. Tuy vậy, kết cuộc hội nghị nhìn nhận Cambodge được quyền thông lưu trên sông Cửu Long để ra biển cũng như được quyền sử dụng thuơng cảng Sài Gòn. Nhưng các điều này bị Việt Nam Cộng Hòa bảo lưu, lý do cần xem xét lại luật lệ quốc tế để xem rằng Cambodge có chính đáng được hưởng các quyền này hay không ? Cuối cùng thì các quyền này của Cambodge bị Việt Nam bác bỏ dưới thời ông Diệm.

Biên giới VN-Cambodge 1954 đến 1975

Sau thất bại ở hội nghị Genève 1954, Sihanouk nuôi dưỡng ý định trả thù. Ông này dung dưỡng mọi thế lực chống lại chính phủ Bảo Đại, sau này là Ngô Đình Diệm.

Một số thí dụ, các lực lượng tôn giáo chống ông Diệm được Sihanouk cho phép lập sào huyệt trên đất Miên. Vì vậy để tảo thanh, quân Việt Nam Cộng Hòa buộc phải đi vào đất của Cambodge. Các xung đột này bắt đầu từ năm 1955. Dĩ nhiên, Sihanouk lợi dụng các việc này vừa tố cáo Việt Nam, trong khi trên thực địa thì cho người dời cột mốc phân giới sang phía Việt Nam. Để trả đũa, ông Diệm tuyên bố hủy bỏ mọi “quyền lịch sử” của Cambodge trên lãnh thổ Việt Nam.

Đến năm 1960 lực lượng Mặt trận Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) được thành lập. Tổ chức này cũng xây dựng sào huyệt trên lãnh thổ Cambodge, dĩ nhiên dưới sự đồng ý ám thị của Sihanouk. Theo một số tài liệu, phía VNDCCH “nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge”, trong khi MTGPMN, cũng như nhiều cán bộ cấp cao của cộng sản Việt Nam, thì hứa hẹn, nếu thắng được Việt Nam Cộng Hòa thì sẽ thương lượng lại với Cambodge về vấn đề lãnh thổ.

Vì các hứa hẹn này các đường mòn gọi là đường mòn Hồ Chí Minh được Sihanouk đồng ý cho thiết lập. Con đường huyết mạch tiếp tế lương thực và vũ khí cho quân MTGPMN cũng như quân chính quy miền Bắc sau này.

Quan hệ giữa Sihanouk và VNDCCH thân thiết đến mức độ vào tháng Tám năm 1963, Cambodge tuyên bố chấm dứt ngoại giao với Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi ông Diệm bị đảo chánh 1-11-1963, quan hệ hai bên Việt Nam Cộng Hòa và Cambodge vẫn không ấm áp trở lại, mà còn tệ hai hơn. Nguyên nhân, người Mỹ chính thức đổ quân vào Việt Nam. Các cuộc hành quân, càn quét, dội bom trên đất Kampuchia nhằm phá hoại đường mòn Hồ Chí Minh … gây ra những thiệt hại đáng tiếc cho phía thường dân Kampuchia.

Tháng Bảy năm 1965, Sihanouk kiện Việt Nam Cộng Hòa lên Liên Hiệp Quốc về việc xâm phạm lãnh thổ. Liên Hiệp Quốc có điều tra nhưng chỉ kết luận rằng Việt Nam Cộng Hòa có vào lãnh thổ Cambodge sau đó rút về, vì lý do bên Cambodge có dung chứa các lực lượng đối kháng, chứ Việt Nam Cộng Hòa không có xâm chiếm lãnh thổ của Cambodge.

Không hài lòng kết quả điều tra của Liên Hiệp Quốc, Sihanouk lên tiếng kêu gọi quốc tế ủng hộ Cambodge, nhìn nhận “đường biên giới hiện trạng” của nước này. Một số nước ủng hộ, trong đó có Pháp. Năm 1966 Pháp ủng hộ Cambodge “trung lập”. Nhưng việc này không thuyết phục vì trên lãnh thổ Cambodge vẫn còn nguyên các sào huyệt của MTGPMN cũng như các con đường tiếp tế từ bắc vào nam gọi là đường mòn Hồ Chí Minh.

Cuối cùng thì Sihanouk bị tướng Lon Nol lật đổ năm 1970.

Sau khi lên nắm quyền, Lon Nol yêu cầu tất cả các lực lượng của cộng sản Việt Nam rút khỏi Kampuchia. Cũng như bất kỳ một người Cambodge nào khác, Lon Nol cũng rất bài Việt.

Trong khi đảo chánh xảy ra, các cuộc thảm sát thường dân Việt Nam đã diễn ra, thây người thả đầy trên sông Cửu Long. Một số lớn người Việt phải hồi hương. Việc này càng tạo thêm gánh nặng và sự bất ổn trong xã hội miền Nam.

Lực lượng Khmer Đỏ được thành lập dưới sự yểm trợ và huấn luyện của cộng sản Việt Nam. Trên thực tế, vùng phía bắc lãnh thổ Kampuchia hoàn toàn do quân đội cộng sản Việt Nam kiểm soát. Nhưng trong nội bộ của Khmer Đỏ lại có khuynh hướng bài Việt. Những nhóm này cũng giết chóc, khủng bố đồng thời trục xuất người Việt, như những lãnh đạo không cộng sản khác của Kampuchia.

Tóm lại, thời kỳ này đường biên giới, cũng như kiều dân Việt Nam sống trên đất Kampuchia, trở thành con tin bị các phía Kampuchia trao đổi quyền lợi chính trị. Trong thời chiến, vấn đề biên giới không kiểm soát được, nhưng dân chúng Việt là nạn nhân trực tiếp của các tranh chấp này.

Từ 1975 đến hôm nay

Từ năm 1975 cho đến 1990, ta có thể nói rằng khu vực Đông Dương vừa là một chiến trường, vừa là một bàn cờ địa chiến lược của các thế lực quốc tế, gồm có các nước liên hệ trong khu vực và các đại cường Trung Cộng, Liên Xô và dĩ nhiên là Mỹ. Vấn đề biên giới, Cambodge không chỉ có tranh chấp với Việt Nam mà còn có tranh chấp với Thái Lan về chủ quyền ngôi đền Préah Viheart cũng như ranh giới ngoài biển, từ sau khi lấy lại độc lập năm 1953. Trong thời gian này vấn đề biên giới giữa các bên không chính thức đặt ra, nhưng nó luôn là cái cớ để chiến tranh bùng nổ. Nhất là đối với hai nước Việt-Miên.

Sau khi quân Pol Pot tiến vào Nam Vang, cũng như quân miền Bắc chiếm Sài Gòn. Tháng Sáu năm 1975, một phái đoàn của Khmer Đỏ gởi đến Hà Nội để nhắc lại những cam kết của cộng sản Việt Nam : ”Nhìn nhận đường biên giới hiện trạng của Cambodge” trong thập niên 60 về vấn đề lãnh thổ của Kampuchia. Những người này, theo dự kiến là sẽ ký kết ước với Hà Nội để bảo đảm sự “toàn vẹn lãnh thổ” của hai nước.

Nhưng nhóm Khmer Đỏ thân Trung Quốc trong phái đoàn bất đồng ý kiến với nhóm thân Hà Nội.

Phe thân Bắc Kinh lên tiếng đòi Việt Nam trả lại cho họ vùng lãnh thổ gọi là “Khmer Krom”. Điều nên biết, chiến thắng ngày 30-4-1975 của cộng sản miền Bắc đã làm cho lãnh đạo Bắc Kinh tức tối. Chủ trương của Trung Quốc từ xưa nay là chống lại Việt Nam thống nhất, cũng như chống lại việc Việt Nam quá thân thiện hay lệ thuộc vào Liên Xô.

Phía bắc, áp lực của Liên Xô đã trầm trọng, quân Liên Xô đóng dài dài trên biên giới gây áp lực. Biển Hoa Đông thì bị Nhật, Đài Loan án ngữ. Biển Đông thì hạm đội Liên Xô đã có mặt tại Cam Ranh. Nếu Kampuchia hòa hoãn hay thân thiện với Việt Nam thì Trung Quốc sẽ không có cách gì để phá vỡ thế cô lập. Mặt khác, quyền lợi của Mỹ cũng bị đe dọa, các nước chung quanh như Thái Lan, Mã Lai v.v... sẽ sụp đổ, theo như thuyết Domino của Mỹ. Vì vậy Bắc Kinh, cũng như “đồng minh bất đắc dĩ” của Trung Quốc là Mỹ, chắc chắn phải tìm cách đẩy hai bên Việt Nam và Kampuchia vào thế đối đầu.

Vì thế, cả hai đại cường, Mỹ và Trung Quốc, một tư bản, một cộng sản, do cùng mục tiêu ngăn chặn Liên Xô bành trướng, lại hợp tác với nhau, ra mặt ủng hộ Pol Pot chống lại Việt Nam.

Dĩ nhiên, nguyên nhân bên ngoài là tranh chấp đất đai, nhưng bên trong là sự tranh giành ảnh hưởng địa chiến lược trong khu vực của các đại cường. Vì vậy, như đã nói, lãnh thổ trong quảng thời gian này là cái cớ để chiến tranh bùng nổ.

Để kích thích Việt Nam vào vòng chiến, trong lúc phái đoàn Khmer Đỏ còn ở Hà Nội thì quân Khmer Đỏ đã đánh chiếm cù lao Poulo Wai trong vịnh Thái Lan. Dọc biên giới thì quân Khmer Đỏ đã sẵn sàng dàn quân ứng chiến. Như thường lệ, những người dân Việt sinh sống ở Kampuchia lại trở thành nạn nhân. Trên 150.000 người bị ngược đãi, trục xuất về Việt Nam. Con số bị giết không biết là bao nhiêu, nhưng chắc chắn không nhỏ.

Tháng Sáu năm 1976, Việt Nam gởi sứ giả sang Nam Vang hy vọng làm dịu tình hình, nhưng phía Khmer Đỏ đòi phải phân định lại biên giới, thay đổi đường biên giới theo các bản đồ của Sở địa dư Đông Dương ấn hành năm 1954, trong khi phía Việt Nam thì nhìn nhận đường biên giới hiện trạng là đường biên giới thể hiện trên bộ bản đồ này. Mặt khác, hai bên cũng không đồng thuận về biên giới trên biển.

Phía Khmer Đỏ gia tăng khiêu khích, từ năm 1975 đến 1978, bọn này đã tiến sang Việt Nam đánh phá và tàn sát dân chúng ở 25 huyện và 96 xã, gây ra trên 257.000 nạn nhân màn trời chiếu đất. Trong năm 1977, Pol Pot cho quân lính tiến sang Tây Ninh tàn sát dân chúng sinh sống ở đây, nhưng sự phản ứng của quân Việt Nam, do thiện chiến hơn, đã làm cho quân Khmer thiệt hại nặng. Và cũng để trả đũa những vụ tàn sát dân lành vô tội sinh sống các tỉnh dọc biên giới, tháng 12 năm 1977, Việt Nam mở một cuộc hành quân thần tốc vào tỉnh Svay Rieng khiến quân Khmer Đỏ thiệt hại nặng nề. Cuối năm, Pol Pot tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

Chiến tranh Việt-Miên bùng nổ. Dưới sự quan sát của các học giả quốc tế, cuộc chiến này là một cuộc chiến “ủy nhiệm”. Pol Pot đánh Việt Nam là đánh cho Trung quốc. Còn Việt Nam đánh là đánh cho Liên Xô.

Tháng 12 năm 1978, quân Việt Nam tiến vào Nam Vang, đánh đuổi Pol Pot và thành lập chính phủ thân Việt ở đây. Cùng với chính phủ này, Việt Nam đã ký kết các hiệp định “các nguyên tắc giải quyết các vấn đề biên giới”. Trên đất liền ký năm 1982, trên biển ký năm 1983.

Trả lời phỏng vấn báo chí, Nguyễn Cơ Thạch cho rằng Việt Nam tôn trọng đường biên giới hiện trạng theo bộ bản đồ Đông Dương 1/100.000. Nhưng Sihanouk, năm 1984, tố cáo trước dư luận, qua thủ tướng Thái Lan, rằng Việt Nam đã chiếm vùng “mỏ vịt”, tức là tỉnh Svay Rieng.

Về biên giới trên biển, theo nội dung các văn bản tham khảo được thì hai bên cùng đồng ý "lấy đường Brévié được vạch ra năm 1939 làm đường phân chia các đảo trong khu vực này", hai bên đồng thuận về “vùng nước lịch sử” trong khu vực đảo Phú Quốc và "sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp… để hoạch định đường biên giới biển giữa hai nước".

Đảo Wai được Việt Nam trả lại cho Kampuchia.

Tháng 12 năm 1985 hai bên ký lại “Hiệp ước hoạch định biên giới”. Ngày 10-10-2005 ký thêm “Hiệp ước bổ sung” về biên giới. Hai bên bắt đầu cắm mốc từ năm 2006. Ta thấy tỉnh Svay Riêng, tức vùng Mỏ vịt, vẫn thuộc lãnh thổ của Kampuchia. Tức là lời tố cáo của Sihanouk là không đúng.

Điều nên biết, sau khi quân Pol Pot vào Nam Vang thành lập chính quyền thì Sihanouk được mời về làm quốc trưởng. Nhưng liền sau đó thì bị bạc đãi, tính mạng bị đe dọa. Bắc Kinh tìm cách can thiệp và đưa ông này đi Trung Quốc. Ở Bắc Kinh Sihanouk được đối đãi như là một thuợng khách. Bởi vì lãnh đạo Trung Nam Hải biết được giá trị ở con cờ Sihanouk. Ông vua này có thể làm bất cứ điều gì để chống lại Việt Nam.

Cũng vì lý do này mà đất nước Kampuchia điêu linh, thần dân của ông bị nhà nước Khmer Đỏ tiêu diệt gần 1/3, trong đó có họ hàng thân thích của ông. Điều trớ trêu là nhà nước này do Trung Quốc dựng lên, lúc đó ông là một thành phần của nhà nước này.

Tuy vậy, hiện nay Trung Quốc vẫn là một đồng minh được ưa chuộng tại Kampuchia. Người Việt ở đây bị kỳ thị bao nhiêu thì người Hoa được ưu đãi bấy nhiêu. Toàn thể huyết mạch kinh tế Trung Quốc hiện nay là do 10 giòng họ người Hoa nắm giữ. Liên minh Trung Hoa-Khmer hứa hẹn sẽ bền chặt lâu dài mà chất keo hàn gắn hai bên là tinh thần bài Việt. Vấn đề lãnh thổ luôn được các bên sử dụng như là một cái cớ để khích động dân chúng để chống đối Việt Nam.

TRƯƠNG NHÂN TUẤN 06.01.2024

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn