Tâm thư của Đại đức Thích Trúc Thái Minh nhân sự kiện xá lợi tóc Phật 2.500 năm tuổi

Thứ Sáu, 05 Tháng Giêng 20246:00 SA(Xem: 623)
Tâm thư của Đại đức Thích Trúc Thái Minh nhân sự kiện xá lợi tóc Phật 2.500 năm tuổi

rfa.org

Tâm thư của Đại đức Thích Trúc Thái Minh nhân sự kiện xá lợi tóc Phật 2.500 năm tuổi

Châm biếm của blogger Nguyễn Nhơn (không phản ánh quan điểm của Đài Á Châu Tự Do)

Kính bạch với đại chúng

Vừa qua, lại một lần nữa chùa Ba Vàng chiếm hầu hết sự quan tâm của dư luận trong nước và quốc tế, với sự kiện cung nghênh, chiêm ngưỡng xá lợi tóc chuyển động của Đức Phật. Trước khi bàn sâu về xá lợi tóc chuyển động của Đức Phật, bản chùa và bản đại đức vô cùng hoan hỉ cảm ơn quý Phật tử khắp nơi đã không mệt mỏi trong việc truyền bá và quảng cáo miễn phí cho chùa Ba Vàng suốt nhiều năm nay. Điều này đã trực tiếp và gián tiếp mang lại nguồn thu dồi dào trăm tỷ, ngàn tỷ mỗi năm cho chùa Ba Vàng, thật là công đức vô lượng! Kính mong trong năm mới quý Phật tử tiếp tục giữ vững tinh thần vốn có, bản chùa và bản đại đức cúi đầu ghi ơn.

Quay trở lại sự kiện xá lợi tóc Đức Phật chuyển động.

Huyền vi trong một sợi…

Dư luận trong nhiều ngày qua nói bản chùa dùng hạt cỏ Pili nhúng vào nước, lừa phật tử rằng đó là chính là xá lợi tóc Phật.

Vậy bản đại đức nhắc lại những gì báo chí nói về cỏ Pili một chút.

Cỏ Pili còn có tên gọi là dị thảo văn hay cỏ khác râu. Chúng phân bố rộng khắp thế giới, từ Nam Phi cho đến Bắc Úc, quần đảo Hawaii và cả Việt Nam ta. Tên khoa học của cỏ Pili là Heteropogon contortus, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, trong đó heteros nghĩa là “khác biệt”, “pogon” nghĩa là râu. “contortus” nghĩa là “xoắn”, “rối”.

Cái tên này khẳng định hình dáng sợi cỏ khi khô thì có màu nâu đen, cứng, hơi xoăn, giống hệt sợi tóc hay sợi râu.

Khi gặp độ ẩm cao, hạt cỏ sẽ tự vặn vẹo uốn éo để đưa phần đầu nhọn xuống đất, chờ điều kiện thích hợp để nảy mầm.

Đấy là nguyên nhân vì sao sợi cỏ nhúc nhích chuyển động được.

Tiếp đến, đại chúng còn có những câu hỏi khác như:

-Một sợi tóc thật có thể tồn tại suốt 2.500 năm hay không?

- Chùa Schwedagon và Chùa Botahtaung ở Yangon, Myanmar đang bảo quản hai sợi tóc Phật. Lưu ý: sợi tóc chứ không phải xá lợi tóc. Xá lợi là những gì còn lại của nhục thân sau khi đã gia trì qua lửa (tức hỏa táng). Những sợi tóc này được đặt trong một những chiếc hộp vàng và châu báu nhiều tầng kiên cố, thiết kế một hình tháp chùa bên trên. Hộp được giữ trong phòng bảo vệ nghiêm ngặt. Phật tử chỉ có thể chiêm bái sợi tóc qua hộp.

Vào năm 2018, khi phòng bảo vệ hộp chứa xá lợi tóc Phật bị rỉ nước do được xây dựng đã lâu năm nên cần phải tu sửa, dư luận Myanmar đã tranh luận về biện pháp di chuyển hộp xá lợi đến một ngôi chùa khác cách đó 5 km. Họ đều lo sợ việc di chuyển hộp có thể gây rung lắc, dằn xóc sẽ gây ra các nguy cơ khiến sợi tóc bị gãy vụn. Cuối cùng, biện pháp di chuyển an toàn nhất đã được Cơ quan các vấn đề tôn giáo khu vực Yangon lên kế hoạch kỹ lưỡng để bảo vệ. Trong đó, hộp đựng tóc Phật được đưa đến phòng cầu nguyện khác tại chùa để trưng bày cho công chúng trước khi di chuyển. Hộp tuyệt đối không được mở ra.

Do vậy, nếu thật sự cái sợi ngắn ngắn cong queo màu đen được đưa ra cho Phật tử chiêm bái ở chùa Ba Vàng là xá lợi tóc Phật được cung nghênh về từ Myanmar thì những vị cao tăng của họ có thể đồng ý để sư Thích Trúc Thái Minh lấy riêng trân bảo ấy ra khỏi hộp bảo vệ, còn cắm vào một đĩa có chất giữ ẩm, đặt trần trụi bên ngoài không khí, tiếp xúc trực tiếp với khói hương và hơi thở của nghìn vạn Phật tử, hay không?

Bản đại đức phải nói rằng: Hai câu hỏi thật hay. Bản đại đức cũng không nhịn được mà xin đại chúng cho phép bản đại đức tự khen mình một câu. Chỉ đưa ra một sợi cong queo mà khuấy động dư luận, cõi Phật cõi người đều rúng động. Bản đại đức ta thật giỏi.

chubavangbuddhahair.jpeg
Xá lợi tóc của Đức Phật trưng bày tại chùa Ba Vàng, Quảng Ninh. Hình: Chùa Ba Vàng

Tính Phật sắc sắc không không

Kính bạch quý Phật tử

Bất cứ Phật tử nào bắt đầu đến với đạo Phật đều nghe câu tính Phật sắc tức thị không, không tức thị sắc. Bản đại đức đã vận dụng nhuần nhuyễn triết lý cao siêu này trong sự kiện xá lợi tóc Phật. Tóc Phật mà không phải tóc Phật, mà chính là tóc Phật. Sợi cỏ Pili mà không phải cỏ Pili, mà chính là cỏ Pili. Ngoằn ngoèo ấy chính là bản chất sắc sắc không không cao siêu tột độ. Phật tử nào muốn tin thì trong mắt họ sợi cỏ Pili chính là tóc Phật hiện hữu. Niềm tin ấy xuất phát từ trong tâm Phật tử. Phật tử quỳ lạy là do Phật tử muốn chứ bản chùa không cử tăng ni nào ra ấn vào đầu gối Phật tử cho quỵ xuống cả.

Đức Phật dạy “ngón tay chỉ mặt trăng”, nhưng Phật tử thích nhìn ngón tay hay nhìn mặt trăng, hay nhìn người có ngón tay ấy, thì đấy là hoàn toàn phụ thuộc nơi Phật tử. Chỉ có tự trải qua, tự chiêm nghiệm mới thấu suốt!

Chỉ qua sự kiện rất nhỏ bé này mà quý Phật tử được thấy rõ bản chất sắc sắc không không của tính Phật, ấy là bản chùa đã đạt thành chính quả trong gieo duyên Phật pháp, chính là công đức vô lượng.

Cho nên hai câu hỏi ở bên trên thực sự là câu hỏi tu từ, đại chúng hoàn toàn có thể tự trả lời cho mình mà không cần đến bản đại đức giảng giải.

Bản đại đức muốn nói đến một việc sâu xa hơn nữa.  

Gánh nặng giáo hóa

Bấy nay trên dư luận, đại chúng khắp nơi cũng lên án nhiều Phật tử u mê, chắp tay quỳ lạy một sợi cỏ.

Bản chùa hết sức đồng tình với nhận định này.

Việc chắp tay quỳ lạy một sợi cỏ khô và gán tên Phật vào đó, chính là u mê không có gì tả nổi.

Đại chúng chắc hẳn đồng ý với bản chùa rằng, những Phật tử u mê trì độn như thế cần được giáo hóa. Nhưng vì họ trì độn nên không thể giáo hóa bằng lý lẽ và lý thuyết mà phải bằng thực tế trông thấy được, sờ thấy được, nghĩa là có những cách riêng phù hợp với trí tuệ, sự xét đoán và mức độ phản tỉnh của từng người để giáo hóa họ, giác ngộ họ cho hiệu quả nhất.

Nhưng làm cách nào để phân loại? Chẳng lẽ bản đại đức ra ngồi trước bảo điện hỏi: đại chúng ở đây người nào thấy mình u mê trì độn thì giơ tay lên cho mọi người rõ.

Chắc hẳn không người nào giơ tay.

Trong vô số Phật tử đến chùa Ba Vàng, có nhiều người đã tốt nghiệp đại học, có nhiều người là thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ… Với trình độ văn hóa và chuyên môn như vậy, mà bảo họ là u mê, thì bản thân họ có đồng ý hay không? Nếu họ đã không đồng ý mà còn cho là bản thân đã thực sự giác ngộ, hiểu lẽ huyền vi của cuộc sống thì không chiếc chìa khóa nào có thể mở chiếc hộp không có ổ khóa như vậy.

Vậy thì bản chùa phải lao tâm khổ tứ để suy nghĩ ra những phương pháp đặc biệt, hết sức đặc biệt, vô cùng đặc biệt để có thể tưới nhuần cho những tâm trí đặc biệt.

Các Phật tử u mê cần được nghe những câu chuyện hết sức vô lý về các phép nhiệm màu. Cần được trông thấy những hiện tượng hết sức vô lý phản khoa học và thực tế. Để chi? Để khi họ quay trở lại cuộc sống ngoài đời thì trong tâm trí u mê của họ mới có thể bật nảy ra những so sánh. Tại sao một cái mụn bọc trên trán lại có thể nói ra tiếng người? Tại sao một người bị bệnh lại là do trong muôn vàn kiếp trước người ấy đã đánh chết một con chuột hôi thối? Tại sao phật tử chỉ nên cúng tiền và càng nhiều tiền cho chùa Ba Vàng thì mới được giải nghiệp oan trái v.v

Những ví dụ như vậy có rất nhiều. Nếu người nào đó thật sự tin một cái mụn bọc mọc trên trán lại có thể mở miệng nói chuyện về nhiều oan khiên nghiệp chướng kiếp trước của thân chủ, thì họ cũng sẽ tin hiện tại đang có những cái mụn bọc biết nói như vậy ở trên đời. Nó ở đâu?

Cho đến khi họ không tìm ra được một cái mụn bọc nào như vậy, hoặc cho đến khi họ đã cúng hết sạch tiền của, gia sản, thời gian của mình cho chùa Ba Vàng để “giải nghiệp”, thì họ sẽ bắt đầu nghi ngờ và quay lại tìm hiểu sự thật trong những lời giảng pháp của các tăng ni chùa Ba Vàng.

Đó chính là thời điểm hạt giống giác ngộ thật sự thức tỉnh.

Để giác ngộ những người mê muội, nhất thiết phải chờ đến khi họ tự cảm thấy đã đến lúc phải thức tỉnh, giống như con chim non phải tự mổ vỏ trứng để chui ra ngoài, chứ không thể tác động bên ngoài mà đạt kết quả.

Để đạt được mục đích cao cả như vậy, bản chùa phải chịu đựng nhiều sự hiểu lầm, cho rằng bản chùa cao tay lừa gạt tiền bạc của Phật tử và đại chúng. Oan khuất biết bao, nhưng bản chùa và bản sư hiểu rằng tiền bạc chỉ là vật ngoài thân, hơn nữa là nguồn gốc đem lại sự tranh giành, đau khổ, không hạnh phúc cho đại chúng. Bản sư không muốn Phật tử và đại chúng phải chịu đựng điều đó. Phật dạy thân tâm phải nhẹ nhàng. Nếu đại chúng cứ giữ của cải vật chất bên cạnh mình thì làm sao thân có thể nhẹ nhàng được?

Bản sư một lòng một dạ, đến chết không sờn, tìm mọi cách mang vác gánh nặng tiền bạc vật chất ấy giúp cho đại chúng và Phật tử. Vì ý nguyện ấy, dẫu có bị đè chết dưới đống tiền nhơ bẩn, bản sư cũng vinh hạnh mỉm cười.

Đến đây mong rằng đại chúng đã hiểu được nỗi khổ tâm nhiều năm qua của bản sư và tiếp tục hoan hỉ ủng hộ những sự kiện tương tự sắp tới của bản chùa. Kính chúc đại chúng thân tâm nhẹ nhàng, vô cùng nhẹ nhàng, hết sức nhẹ nhàng, càng ngày càng nhẹ.

Đại đức Thích Trúc Thái Minh

(Nguyễn Nhơn thừa bút)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn