LỜI AI ĐIẾU CHO MỘT THỜI “TỨ TRỤ”

Chủ Nhật, 12 Tháng Tám 20187:00 SA(Xem: 7775)
LỜI AI ĐIẾU CHO MỘT THỜI “TỨ TRỤ”

Thưa bạn đọc, Phải công bố vào lúc này, người viết thật lòng áy náy… Nhưng dư luận đang rúng động về kết quả thảm hại của điểm thi môn Sử: “468.628, tức 83% thí sinh có điểm thi môn Sử dưới trung bình. 1.200 bị điểm liệt, trong đó 527 bị điểm 0. Vậy lỗi tại ai?” Phải chăng vì thế bài viết cần xuất hiện để cùng tìm ra lời giải thỏa đáng?!

Giáo sư Phan Huy Lê đã thành người thiên cổ.

Những lời tiếc thương có cánh của người thân, bè bạn và học trò tiễn đưa ông về nơi an nghỉ cuối cùng.

Nhà nước đã dành cho ông sự vinh danh cao nhất mà một công bộc có được.

Bây giờ xin được nói đôi lời.

Năm 1952 học xong chương trình phổ thông chín năm, “chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt” Phan Huy Lê từ biệt quê Hà Tĩnh ra Thanh Hóa học chương trình Dự bị đại học. Tại đây ông gặp Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng. Người phụ trách Đoàn Thanh niên Dân chủ và cũng là cán bộ tổ chức nhà trường nói với bốn tân sinh viên: “Các đồng chí chọn Ban nào?” Nghe trình bày xong, anh cán bộ tổ chức lên tiếng:

  • Các đồng chí đều học giỏi nên chọn các ngành khoa học tự nhiên là phải. Trong khi đó, nhiệm vụ quan trọng nhất của trường lúc này là đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học xã hội cho nước Việt Nam mới nhằm thay thế lớp học giả cũ, là sản phẩm của chế độ thực dân phong kiến. Khoa học tự nhiên không mang tính giai cấp nên ai có khả năng cũng làm được. Còn khoa học xã hội không chỉ cần giỏi mà còn cần điều quan trọng hơn là lập trường giai cấp công nông thật vững vàng. Tổ chức đã nghiên cứu kỹ và chọn các đồng chí để đào tạo thành những hạt giống công nông của nền khoa học xã hội mới… [1]

Vậy là theo yêu cầu của Tổ chức, cả bốn chàng vào học Ban Sử.

Sau hai năm học chủ yếu về ban đêm để tránh những trận oanh kích của máy bay Pháp, Phan Huy Lê về Đại học Sư phạm. Năm 1956 khi Đại học Tổng hợp thành lập, ông được chuyển sang làm trợ giảng cho thầy Đào Duy Anh. Năm 1958, trong cơn bão Nhân văn Giai phẩm, theo chân Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh bị bứng hỏi môi trường đại học. Cánh đồng đại học hoàn toàn trống vắng. Không có trâu bắt bò đi đẵm. Chàng trai trẻ 24 tuổi Phan Huy Lê bỗng nhiên trở thành sếp của khoa Sử, ngồi vào cái nghế còn ấm hơi Giáo sư Trần Đức Thảo bị một sinh viên bắt trói dẫn đi! Sống ở trung tâm cơn bão lốc kinh hoàng lúc đó, Phan Huy Lê biết mình thật tốt số. Trong khi những bạn bè cùng trang lứa thuộc “thành phần lớp trên” phải “cải tạo” bằng việc quai búa đập đá trên công trường đường sắt Hà Nội-Lào Cai hay cày cuốc trong những nông trường thì mình được ưu ái tới tận cùng. Tuy nhiên, chàng tuổi trẻ cũng nhận ra cái éo le trong cương vị của minh. Thật trớ trêu, người được coi là “hạt giống đỏ” công nông lại sinh ra từ một gốc “phong kiến” thâm căn cố đế. Không chỉ vậy, người anh trai Phan Huy Quát lại là yếu nhân của chính quyền Sài Gòn. Hơn ai hết, Phan Huy Lê hiểu cái thế trên lưng cọp của mình. Không được sa sẩy dù chỉ một bước! Cách tốt nhất là ngoan ngoãn theo dẫn lối đưa đường của lãnh đạo. Không chỉ Phan Huy Lê mà cả Đinh Xuân Lâm, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng cùng chung định mệnh. Trong khi dần dần tạo dựng huyền thoại “tứ trụ” Lâm Lê Tấn Vượng thì những chàng trai tập tọng làm sử cũng được dẫn ngày một rời xa khoa học lịch sử đích thực.

Cho đến năm 1960, lịch sử Việt Nam là một dòng chảy nhất quán từ Nhà nước Xích Quỷ xuyên suốt tới Triệu Đinh Lý Trần và nhà Nguyễn với công khai phá miền Nam, thống nhất đất nước. Nhưng từ đây, để khẳng định vị thế của Đảng Lao Động Việt Nam, lịch sử phải thay đổi, phải khác với quan điểm của “bọn sử gia phong kiến tư sản phản động”! Trước hết, nhà Nguyễn bị tước mọi công lao, mang tội lớn để mất nước. Gia Long là kẻ cõng rắn cắn gà nhà! Tiếp đó, để chống quan điểm viết sử “phản dân tộc” của Lê Văn Hưu, Ngô Sỹ Liên, Triệu Đà bị vạch mặt chỉ trán là giặc xâm lược. Nhà Triệu và nước Nam Việt bị xóa khỏi chính sử. Vào thập kỷ 1970, từ những phát hiện khảo cổ về thời đại Hùng Vương, Nhà nước Xích Quỷ cùng các vị tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân bị loại bỏ. Từ 4000 năm văn hiến, Sử Việt chỉ còn lại 2700 năm! Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trùm lấp lịch sử dân tộc! Cái được gọi là Lịch sử Việt Nam xa dần quy chuẩn của khoa học lịch sử nhân loại, trở thành một công cụ tuyên truyền. Ở Khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội người ta nói thẳng với sinh viên: “ Chúng ta học Sử nhưng nội dung chủ yếu là tuyên huấn. Nay mai ra trường, các anh chị sẽ là những cán bộ tuyên huấn!”

Sau hơn nửa thế kỷ thống trị của tứ trụ Lâm Lê Tấn Vượng, sử học Việt Nam hoàn toàn trở thành công cụ tuyên truyền mà đỉnh cao là cuốn Lịch sử Việt Nam 15 tập của Viện Sử học. Để khách quan, xin bạn đọc suy ngẫm những dòng sau của một học giả từng là giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, hiện đang sống ở Hoa Kỳ:

Bộ sách nguyên là dự án lớn do Viện Sử Học thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội trong nước chủ trì từ năm 2002, toàn bộ 15 quyển nặng 24kg, dày 9,084 trang, với một tập thể tác giả 30 người gồm 24 tiến sĩ, 3 thạc sĩ, và 3 nghiên cứu viên. Tất cả 30 người này là cán bộ của Viện Sử Học, cũng có nghĩa là các công chức mà nhiệm vụ là viết sử theo sự chỉ đạo của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Do đó, họ không viết trong tư cách của những sử gia. Nên biết rằng Viện Sử Học nói riêng, hay Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội nói chung, là những cơ quan lý thuyết của Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam.”

“… Quan niệm viết sử của Viện Sử Học Hà Nội là nhằm phục vụ chính trị, khác với quan niệm viết sử của Thế Giới Tự Do Dân Chủ là trình bầy lại quá khứ y như nó đã xảy ra. Sử của Viện Sử Học Hà Nội, vì thế, có thể là những sự kiện quá khứ, mà cũng có thể là những câu chuyện dựng lên tùy nhu cầu chính trị. Hay sự kiện lịch sử có thể biên soạn dài ngắn khác nhau là tùy chủ đích chính trị.” “Phương pháp viết sử của Viện Sử Học Hà Nội là biên soạn sao cho đúng với lý thuyết Cộng Sản quốc tế.”

Phương pháp viết thông sử của thế giới văn minh là tiêu hóa những ý kiến hay những giả thuyết và nhận định về những sự kiện lịch sử của các tác giả trước đó rồi tổng hợp thành sử. Những trang sử tổng hợp rất súc tích ấy không có khoảng trống cho sự trích dẫn từ những trang chuyên sử của người khác, lại càng không có phần cho ý kiến người này hay giả thuyết của người kia hay nhận định của người nọ. Nếu cần, những chi tiết kể trên chỉ đưa vào phần chú thích hay cước chú, mà không dông dài trong phần chính văn. Tiếc thay, đó lại chính là cách viết của nhiều tập thể tác giả bộ chính sử của Nhà Nước này. Dở hai tập Tập 2 và Tập 4, độc giả phải đọc những đoạn dài trích dẫn sách xưa.

Trang 31 trong Tập 4 chép lại ba trang 41, 42, và 43 của sách Phủ Biên Tạp Lục cộng với hai trang 238 và 239 của sách Toàn Thư. Đến trang 41 thì tác giả chép lại bốn trang 36, 37, 38, và 39 của sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên. Trang 83 thì chép lại bốn trang 36, 37, 38, và 39 của sách Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí cộng với hai trang 417 và 418 của sách Cương Mục. Và trang 119 thì chép lại ba trang 148, 150, và 151 của sách Phủ Biên Tạp Lúc. Cứ chép như thế suốt ba Chương I, II, và III từ trang 23 đến trang 165 trong Tập 4! Thật không có dáng vẻ gì của một công trình tổng hợp lịch sử, mà chỉ là sự sao chép lười biếng các sách sử cổ xưa!”

Sự phân bố các tập sách không hợp lý. Tập thể ban biên soạn bộ Lịch Sử Việt Nam này, vì đặt trọng tâm bộ sách vào một đảng chính trị thay vì lịch sử của một dân tộc, nên đã bó rọ các thời Thượng Cổ và Bắc Thuộc làm một (Tập 1, 671 trang) để dành khung cảnh bao la cho lịch sử Đảng, 5 năm cũng thành một tập như Tập 10: Từ Năm 1945 Đến Năm 1950 (627 trang) và Tập 11: Từ Năm 1951 Đến Năm 1954 (499 trang).”“Chín (9) quyển đầu với 5,904 trang là phần thông sử ghi chép quá khứ dân Việt trong mấy ngàn năm. Sáu (6) quyển sau với 3,180 trang là lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2000.”

Qua những nhận định trên, bộ Lịch Sử Việt Nam 15 quyển mới phát hành này không có dáng vẻ của một công trình tổng hợp lịch sử, từ cách biên soạn mất quân bình đến việc xóa nhoà ranh giới giữa thời sự và lịch sử.” [2]

Những nhận xét trên là trung thực, công bằng nhưng không phải là ý kiến cá biệt. Rất nhiều trí thức trong nước cũng nhận thấy như vậy. Càng đông hơn là đại đa số dân chúng cảm nhận rằng, cái mà họ phải học, phải đọc không phải là Sử Việt bởi lẽ trong đó thiếu vắng Hồn thiêng dân tộc. Khi đánh mất hồn dân tộc, Sử không còn là Sử nữa! Không chỉ cuốn này mà đại công trình Quốc Sử 30 tập với kinh phí 200 tỷ (có người nói 300?) của Hội Sử học do Giáo sư Phan Huy Lê tổng chủ biên cũng còn rất nhều vấn đề phải bàn, khiến người viết bài này phải nhiều lần trao đổi với ông.[3]

Việc ra đi của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê, trên thực tế đã khép lại thời thống trị của “tứ trụ”. Nhiều người biết thế nào là “tứ trụ” nhưng không mấy ai hiểu cái nguyên do nảy sinh hiện tượng dị thường này. Đó là sản phẩm đẻ non đái ép sau đại họa Nhân văn-Giai phẩm. Nếu đất nước yên hàn, với những bậc thầy uyên bác, đầy bản lĩnh như Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo… trên bục giảng thì không ai có thể làm biến dạng khoa học lịch sử Việt Nam. Và chắc chắn không có cửa cho mấy anh chàng chưa đủ trình độ tú tài nhảy lên hàng “trụ” với cột?

Mặc dù những lời tụng ca của lớp lớp học trò, mặc dù sự vinh danh tột cùng với công thần tiêu biểu, những người tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu không ai có thể yên lòng với di sản mà “tứ trụ” để lại. Không phải lịch sử mà đó chỉ là đống tài liệu giáo điều xơ cứng ngu dân, phản tộc. Đi qua chương trình này, tuổi trẻ Việt Nam trở nên tối tăm vong bản, tin rằng tổ tiên mình là người vượn “đi thẳng“, rằng tiếng Việt mượn 70% từ ngôn ngữ Hán, người Việt không có chữ viết, rằng văn hóa Việt là sự bắt chước (“tiếp biến”) từ văn hóa Tàu. Họ cũng không biết tới Quốc Tổ Kinh Dương Vương và nhà nước Xích Quỷ, coi người khai sáng lịch sử dân tộc Triệu Đà là giặc xâm lược…

Ai? Ai là người dám đứng lên, đủ tâm đủ trí dọn đống xà bần khổng lồ mà “tứ trụ” để lại, giải phóng mặt bằng, xây dựng KHOA HỌC LỊCH SỬ ĐÍCH THỰC CỦA DÂN TỘC VIỆT?

 

Sài Gòn, Mùa Thu năm Mậu Tuất.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn