QLVNCH HÀNH QUÂN ĐỖ XÁ ( BẮC KONTUM ) NĂM 1964

Thứ Hai, 07 Tháng Sáu 20215:23 CH(Xem: 4777)
QLVNCH HÀNH QUÂN ĐỖ XÁ ( BẮC KONTUM ) NĂM 1964

TƯ LỆNH QUÂN ĐOÀN II TIẾN HÀNH CHIẾN DỊCH ĐỖ XÁ
Chiến Dịch Đỗ Xá 1964 .

Đỗ Xá từng là một mật khu bất khả xâm phạm của Cộng sản vì địa thế hiểm trở của nó. Mật khu này là một thung lũng sâu thẳm nằm nép mình vào dãy núi Trường Sơn tại đỉnh núi Ngọc Lĩnh cao vút (2598m), cao đến độ ánh sáng mặt trời không rọi xuống tới mặt đất của thung lũng được. Vì địa danh này nằm ở giáp giới ba tỉnh Kontum, Quảng Tín và Quảng Nam , nên được Cộng sản dùng làm địa điểm xâm nhập quân từ đường mòn Hồ Chí Minh vào nội địa miền Trung ( Quảng Tín nay nhập với bắc tỉnh Quảng Ngãi ). Khu này cũng là khu tồn trữ đạn dược, lương thực và cũng là nơi dưỡng quân và điều trị thương binh. Vì các đơn vị của QLVNCH không tài nào xâm nhập vào vùng này, nên nó được ấn định là vùng oanh kích tự do. Do đó, các phóng pháo cơ, sau các phi vụ yểm trợ trên đường bay trở về căn cứ, được phép tự do trút hết bom đạn dư thừa xuống vùng đất này.


Ngày thứ hai 27 tháng 4 năm 1964, Tướng Đỗ Cao Trí, Tư Lệnh Quân Đoàn 2 phát động chiến dịch Đỗ Xá (Hành Quân Quyết Thắng 202) đánh thẳng vào thung lũng Khe Nước Lah, sào huyệt bất khả xâm phạm của tướng Cộng sản Nguyễn Đôn. Tướng Trí giao việc điều nghiên và thiết kế chiến dịch này cho Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, lúc đó giữ chức Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2, với sự trợ lực của Đại Tá Lữ Lan, lúc đó giữ chức Tư Lệnh Phó Hành Quân.
Bộ Chỉ Huy Mặt Trận Tiền Phương được thiết lập tại phi trường Quảng Ngãi. Các đơn vị chủ lực tham dự trong chiến dịch này được chia làm hai toán. Toán A gồm ba Tiểu Đoàn Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Sơn Thương. Toán B gồm các đơn vị của Trung Đoàn 50, thuộc Sư Đoàn 25, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Phan Trọng Chinh. Hai toán quân này còn được tăng phái bởi Tiểu Đoàn 5 Dù (Đại Úy Ngô Quang Trưởng được đặc cách vinh thăng Thiếu Tá tại mặt trận trong chiến dịch này). Vì trước đó, khi còn phục vụ tại Quân Đoàn 1 với tư cách phụ trách hành quân, Thiếu Tá Hiếu từng cộng tác mật thiết với Thủy Quân Lục Chiến Mỹ ở Đà Nẵng qua trung gian của Thiếu Tá TQLC HK Wagner, cố vấn cho Quân Đoàn 1, nên Đại Tá Hiếu đã khéo ngoại giao với Bộ Tư Lệnh TQLC HK ở Đà Nẵng biệt phái một phi đoàn trực thăng H-34, Phi Đoàn HMM-364 TQLC HK được tăng phái bởi năm trực thăng võ trang UH-1B của QLHK và hai trực thăng UH-34 của KQVN, yểm trợ công tác chuyển vận chiến binh vào mật khu Đỗ Xá. Ngoài ra có thêm Phi Đoàn 52 thuộc Lục Quân Hoa Kỳ yểm trợ chuyên chở các toán quân và KQVN cũng yểm trợ cuộc đổ quân với hai khu trục Skyraider.

Airstrike by A-1 Skyraider, battle of Kon Tum | manhhai | Flickr

Vùng hành quân bao phủ một diện tích rừng rú rộng 60 cây số vuông.
Bước vào ngày thứ hai của cuộc hành quân, ngày 29/4, một đơn vị Biệt Động Quân phá hủy nhiều cơ sở Cộng sản và tịch thu một khẩu đại liên hạng nặng 30 ly, một khẩu đại liên hạng nhẹ 24×29, 11 khẩu súng trường AR-15, sáu khẩu liên thanh và 144 súng cá nhân. Họ cũng tịch thâu và phá hủy 60 kí lô chất nổ TNT, một ngàn bịch chất nổ hạng nặng cùng thêm một số lượng lớn lựu đạn, mìn, đạn dược, tài liệu và quân cụ và năm tấn gạo.
Trung Tướng Lữ Lan còn nhớ trong một phi vụ trinh sát mặt trận, trực thăng chỉ huy chở Tướng Trí, Đại Tá Lữ Lan, Thiếu Tá Minh (sau này là Tư Lệnh Không Quân) và một Đại Tá Cố Vấn Mỹ, khi bay vào thung lũng thì bị cao xạ Cộng sản đặt trên các đồi núi bắn đuổi theo tới tấp. Viên phi công đã tài tình hạ thấp trực thăng xuống bay lướt sát các ngọn cây, khiến địch không điều chỉnh tác xạ bắn theo kịp. Tuy vậy, thân và bụng trực thắng cũng vẫn bị bắn lủng nhiều chỗ.
Hành Quân Đỗ Xá phá hủy hệ thống truyền tin của bộ chỉ huy Cộng sản gồm năm trạm phát thanh, một trạm dùng để liên lạc với phía bắc vĩ tuyến 17, và bốn trạm dùng để liên lạc với các đơn vị Cộng sản hoạt động tại các tỉnh lỵ.
Hành Quân Đỗ Xá kéo dài một tháng và chấm dứt ngày 27/5/1964. Lực lượng QLVNCH tổn thất 23 chết, 87 bị thương, 3 khẩu súng, 4 trực thăng và hai khu trục Skyraider. Địch tổn thất 62 chết, 17 bị bắt, hai súng phòng không 52 ly, một súng liên thanh 30 ly, 69 súng cá nhân, và một số lượng lớn mìn và lựu đạn, các dụng cụ công binh, chất nổ, thuốc men và tài liệu. Ngoài ra, QLVNCH còn phá hủy 185 căn nhà, 17 tấn lương thực và 292 mẫu mùa màng.
Chiến Dịch Đỗ Xá là kết quả của sự phối hợp giữa hùng khí của một tay tác chiến gan dạ – Tướng Đỗ Cao Trí – và tài tham mưu của một tay chiến lược thâm thúy – Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu. Hai anh em Trí/Hiếu đã dám tung một đạo quân cấp Sư Đoàn gồm một Trung Đoàn Bộ Binh, ba Tiểu Đoàn Biệt Động Quân và một Tiểu Đoàn Dù vào tận sào huyệt kiên cố của địch quân, một việc táo bạo mà trước nay chưa một Tướng Lãnh nào làm nổi. Thật vậy, trước khi Tướng Nguyễn Khánh và Tướng Đỗ Cao Trí hoán chuyển Quân Đoàn 2 và Quân Đoàn 1 với nhau, Tướng Khánh cũng đã thử tài tung quân vào mật khu Đỗ Xá, với sự trợ lực của Trung Tá Ngô Dzu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn 2. Nhưng đã rút lui vì đạo quân tung vào, bị địch quân CS đánh dội trở ra mất một Tiểu Đoàn.THỦY QUÂN LỤC CHIẾN THAM GIA CHIẾN DỊCH ĐỖ XÁ
Đỗ-xá, một vùng rừng núi hiểm-trở, nằm giữa ranh-giới của 3 tỉnh Quảng-nam, Quảng-tín, và Kontum. Địa-hình nơi đó được vẽ bằng những đường đỉnh cong-queo màu nâu sậm, chứ không phải là những vòng cao-độ như những cao-đỉểm khác mà ta thường thấy trên bản-đồ.
Từ thời chiến-tranh Đông-dương lần thứ nhất (1945-1954) cho đến khi cuộc chiến Đông-dương lần thứ nhì (1960-1975) bắt đầu, và kéo dài mãi đến thời điểm của bài này (1963), Đỗ-xá là một mật-khu bất-khả xâm-phạm của quân Cộng-sản. Không một đơn-vị nào của Quân-đội PhápViệt (1945-1954) hoặc của QLVNCH (1960-1963) có thể vào nơi đó. Nhờ địa-thế hiểm-trở với núi rừng bao bọc, dễ thủ khó công nên các đơn-vị quân-đội quốc-gia muốn hành-quân vào Đỗ-xá đều thất bại. Với những lợi-đỉểm trên, Cộng quân đã coi Đỗ-xá là một an-toàn-khu và đã dùng nơi đó làm một hậu-cần to lớn để cất dấu lương-thực, vũ-khí, đạn-dược, cùng xây cất quân-y-viện, và đây cũng là nơi dưỡng-quân lý-tưởng cho bọn chúng.
Vì nghĩ rằng nơi đây là vùng bất-khả xâm-phạm nên cộng sản chỉ dùng một số quân nhỏ để bảo-vệ mật-khu. Nếu chúng ta tấn- công đại-qui-mô vào thì sẽ bị đánh bật ra ngay như chúng ta và quân Liên-hiệp-Pháp đã từng bị.
Để phá tan mật-khu Đỗ-xá, bộ Tổng-tham-mưu QLVNCH, đã lập kế-hoạch hành quân (chiến-dịch Đỗ-xá) bằng cách điều-động các đơn-vị của Quân-đoàn 1 và Quân-đoàn 2 làm lực-lượng án-ngữ, (Blocking forces) bao vây vòng ngoài của mật-khu, và Lữ-đoàn TQLC/VN làm lực-lượng xung-kích (main force) đánh vào Đỗ-xá. (Liên-đoàn TQLC/VN đã được nâng lên cấp Lữ-đoàn từ đầu năm 1962, dưới sự chỉ-huy của Trung-tá Lê-nguyên-Khang làm Tư-lệnh, và Tư-lệnh Phó kiêm Tham-mưu-trưởng là Thiếu-tá Nguyễn-bá-Liên, hai vị này vừa được vinh thăng ngày 1/4/1963; TQLC vẫn còn thống-thuộc Hải-quân VN).
Để thi-hành nhiệm-vụ, Lữ-đoàn TQLC đã xử-dụng các đơn-vị như sau:
– Tiểu đoàn 2 do Đại-úy Nguyễn Thành Yên, Tiểu đoàn trưởng.
– Tiểu đoàn 4 do Đại-úy Bùi Thế Lân, Tiểu đoàn trưởng.
– Tiểu đoàn Pháo binh do Đại-úy Nguyễn Văn Trước, Tiểu đoàn trưởng.
– Pháo đội A sơn-pháo 75 ly do Trung-úy Đoàn Trọng Cảo, Pháo đội trưởng
– Bộ chỉ huy Lữ-đoàn.

Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến – biển xưa

Lực-lượng Mũ-xanh được đặt dưới sự điều-động của Tư-lệnh và Tư-lệnh phó.
Toàn-bộ quân-số và quân-dụng dành cho cuộc hành quân nầy được không vận bởi không quân sự Hoa-kỳ loại C123 từ Saigon đến phi-trường Quảng-Ngãi, sau đó di-chuyển bằng đường bộ đến phi-trường quận Trà-mi tỉnh Quảng-tín, và sau cùng thì nhảy diều-hâu (một chiến-thuật cảm-tử; nhảy xuống ngay đầu của địch-quân và đánh từ trong lòng địch đánh ra, đôi khi phải cân-chiến nếu cần), vào Đỗ-xá với loại trực-thăng H21 của Lục-quân Hoa-kỳ. Đây là một loại trực thăng cũ-kĩ, mỗi lần chuyên -chở được khoảng 8 chiến-binh với đầy đủ vũ-khí. Đợt đỗ quân đầu tiên mấy ‘’con sâu rọm’’ (H21) còn sung-sức nên nó cỏng nổi 8 cọp-biển cùng một lúc, nhưng qua đợt 2 thì chỉ còn chở nổi 5 thủy-thần, và đến những đợt sau nó chỉ còn mang nổi có 3 chiến-sĩ mũ-xanh. Bộ chỉ huy tiểu-đoàn đi vào đợt 3. Toán tiền sát của tôi gồm 5 người, nhưng khi lên trực-thăng chỉ có tôi, người hiệu-thính-viên và một cận-vệ, còn 2 anh ‘’nồi-niêu xoong chảo’’ (hỏa-đầu-quân) phải đi chuyến sau. Vì sức chở của H21 quá yếu như vậy, nên bộ Tư-lệnh đã xin thượng-cấp liên-lạc với TQLC/HK để được chuyển quân bằng những chiếc trực-thăng H34 tối tân hơn. Nhờ vậy mà cuộc hành-quân trực-thăng-vận đã hoàn-tất vào khoảng 4 giờ chiều. Đóng quân tại bãi đỗ-bộ một đêm, sáng hôm sau, đoàn quân lên đường tiến chiếm các mục-tiêu ấn-định. Bản doanh của bộ Tư-lệnh LĐ đóng tại một trung tâm đỉnh núi.
Người viết và Chuẩn-úy Thạnh mập (xin chuyển qua Pháo-binh Nhảy-dù sau khi tái-ngủ cho đến năm 1975) được chỉ-định làm tiền-sát pháo-binh cho TD4/TQLC của Đại-úy Bùi-thế-Lân. Tôi đi với cánh A tiểu-đoàn-trưởng; Thạnh mập đi cánh B tiểu-đoàn phó, do Đại-úy Tôn-thất-Soạn chỉ huy. Tiểu-đoàn được chia làm 2 cánh, cánh B do Đ/u tiểu-đoàn-phó chỉ-huy đi trên đỉnh, Bộ chỉ-huy tiểu-đoàn cùng 2 đại-đội đi chính-giữa, lưng chừng núi. Để bảo-vệ BCH/TĐ ông TĐT đã cho một đại-đội đi sát chân núi. Địa-thế quá hiểm-trở, một bên là vách núi, một bên là vực thẳm, lỡ trật tay là rơi xuống vực ngay. Chúng tôi phải men theo con đường độc-đạo do toán xích-hầu dùng dao chặt cây để mở đường, đôi khi phải luồn dưới rễ cây mà tiến tới. Sau khi chiếm trọn mọi mục-tiêu chỉ-định mà không có đụng độ, có lẽ các đơn-vị trú phòng của địch quân biết rằng không thể chống cự được với đoàn quân Cọp-biển nên không dám nghênh chiến, và đã rút đi, Tiểu-đoàn được dừng quân nghỉ ngơi lấy sức. Chúng tôi đóng quân tại một nơi, mà dưới chân núi có một con suối lớn chảy qua. Ông Tiểu-đoàn-trưởng đã điều động đại-đội đi phía dưới lội qua bên kia suối, và bảo Đai-đội-trưởng cắt một trung-đội làm tiền-đồn nơi cao-điểm, còn bộ chỉ-huy thì lùi thấp xuống phía dưới để được gần con suối hơn.Sau khi bố-trí quân, Đại-Úy Lân ra lệnh cho các Đại-đội-trưởng, ban 3 và 2 Tiền-sát-viên Pháo-binh xác-định điểm đứng. Vì địa-hình quá giống nhau giữa những ngọn núi, mà bản đồ không có vẽ vòng cao-độ, chỉ có đường đỉnh mà thôi, nên khi trình kết-quả không tọa-độ nào giống tọa-độ nào! Vì vậy, ông Tiểu-đoàn trưởng phải xin Bộ Tư-lệnh Lữ-đoàn cho phi cơ quan-sát L19 lên xác định giùm điểm đứng của đơn-vị. Sau khi quan-sát-viên phi-cơ cho tọa-dộ chính-xác điểm đóng quân của tiểu-đoàn, thì thấy tất cả tọa độ của mọi người đều chấm sai cả. Tọa-độ gần đúng nhất là của người Đềlô, nhưng khi đem so lại với tọa-độ điểm đứng chính-xác mà người Quan-sát-viên Phi-cơ vừa cho thì tọa-độ của anh chàng pháo-thủ nầy cũng sai đến gần một cây số (700m). Sau khi có được đỉểm đứng chính xác, ông TĐT ra lệnh cho tôi lập những hỏa-tập tiên-liệu và bắn thử cho ông xem. Sau khi tôi gởi điện-văn xin tác-xạ, Pháo-đội của ông Truòng-can, ồ không phải, xin lỗi ông Pháo-đội trưởng PĐA/ TQLC! phải gọi là Can-trường mới đúng, đã bắn chính-xác vào những điểm đã xin và ông TĐT tiểu-đoàn Kình-ngư rất hài lòng.

Trong những ngày dừng quân, chúng tôi xuống suối tắm rửa bơi lội, và cả tiểu-đoàn được tha-hồ mà ăn cá, vì dưới suối rất nhiều cá, chỉ cần một quả lựu-đạn, cả một trung-đội xơi cá mệt nghỉ. Cá suối rất to. Khi tiểu-đoàn tiếp-tục tiến quân, tôi ngửi thấy mùi thối, nhưng không biết vì sao! đến khi đi qua một chỗ sát bờ suối tôi thấy một bộ xương cá dài gần 2 thước, từ đó bốc lên một mùi hôi-thúi nồng nặc, như vậy chứng tỏ cá suối cũng có nhiều con to như cá ở biển, chỉ cần một con thì cả một tiểu-đội có thể vừa ăn cá kho vừa ăn canh cá nấu với lá tàu bay thoải mái.
Chúng tôi lần-lượt tiến chiếm các mục tiêu ấn-định. Có vài binh sĩ bị thương vì đạp phải chông. Nơi đây địch đã thiết lập rất nhiều bãi chông, và hầm chông. Ban ngày băng rừng, leo dốc. Ban đêm trải ‘’poncho’’ ngủ ở lưng-chừng núi. Điều đáng sợ nhất ở Đỗ-xá không phải là quân địch, không phải là những con muỗi rừng, cũng không phải là những cây chông mà là những con vắt . Ngửi thấy hơi người là chúng nó búng lẹ như gió, bám được chỗ nào trên cơ-thể của người chiến-binh là nó không ngần ngại bám vào để hút máu; đến khi no cằng, nó tự nhả ra, nằm lăn trên mặt đất thưởng-thức những gì nó thu-hoạch được. Nếu nó hút máu người chưa đã thì không bao giờ chịu nhả ra, ta phải dùng tay dứt nó ra; nhiều con bám chặt quá chúng ta phải dùng thuốc lá trét lên mình nó, chờ cho nó say, ta mới rứt nó ra được. Nghe mấy bà già nói rằng, nếu một con vắt chui vào lỗ tai, nó sẽ mò vào óc, đẻ một bầy vắt con trong đầu của ta, và làm cho con người bị điên hoặc chết. Điều nầy tôi không biết có đúng không? Nhưng để cho yên trí, lúc nào trước khi ngủ, tôi cũng thoa thuốc trừ muỗi khắp người, và thấm thuốc vào bông gòn rồi nhét vô lỗ tai. Đã kỹ như vậy mà tôi vẩn ‘’tránh trời không khỏi nắng’’. Khi đoàn quân đi ngang qua bản-doanh Bộ Tư-lệnh, Tiểu đoàn được lệnh dừng lại để nhận thêm tiếp-liệu-phẩm. Tiểu-đoàn-trưởng, tiểu-đoàn-phó, Sĩ-quan ban 3, và Đề-lô được lệnh vào họp để nhận lệnh hành-quân của giai-đoạn 2. Khi chúng tôi chui vào lều của Tư-lệnh LĐ, thì Trung-tá Khang hỏi tôi:
– Ông Lộc đạp phải chông hả?
– Đâu có Trung-tá!
– Sao chân ông đầy máu thế?
Nhìn xuống, tôi thấy ống quần dính đầy máu; vén lên, tôi thấy một chú vắt to bằng ngón tay cái đang bám vào đầu gối của tôi để hút máu. Tôi vội lấy gói thuốc Rugby trong túi áo trận ra, rút một điếu, xé giấy quấn, rồi lấy những cọng thuốc thoa khắp mình con vật hút máu người, chờ một lúc lâu, nghĩ rằng con vắt đã say, tôi dùng những ngón tay bấu lấy nó, rồi rứt ra, nhưng nó vẫn bám chặt vào thịt của tôi, cuối cùng tôi phải dùng đến 10 thành công-lực mới dứt dây nó ra được. Khi rứt được con con vắt ra rồi, thì máu từ đầu gối của tôi chảy ra càng nhiều, tội phải lấy cuộn băng cá-nhân quấn vào nơi vắt cắn. Chỗ đó đã để lại trên đầu gối của tôi một vết thẹo, vết thẹo nầy tôi đã mang trên ngưòi suốt mấy chục năm qua và tôi đã gọi nó : Vết thẹo Đỗ-xá.Cuộc hành-quân dự-trù 15 ngày, tôi đã chuẩn-bị 2 cây thuốc lá Quân-tiếp-vụ loại Rugby đỏ để đủ hút trong những ngày hành-quân, nhưng sau 15 ngày leo núi băng rừng, thì có lệnh triển-hạn thêm 15 ngày nữa!! 90% lính chiến ngày xưa đều ghiền thuốc lá, và có lẽ những bạn ghiền ấy cũng biết nỗi khổ của người hút khi hết thuốc? Nó khổ sở biết chừng nào khi mình muốn hút mà trong túi không còn một điếu thuốc ! Khi tấn-công vào một điểm tiếp-liệu của địch, chúng tôi đã mừng rỡ lúc khám phá ra một kho thuốc lá của cộng quân. Các Cọp-biển chúng ta chia nhau những lá thuốc khô và phun khói ì-xèo. Thằng đệ-tử của tôi (các sĩ-quan thường gọi những binh-sĩ thân-tín dưới quyền một cách thân-mật = đệ-tử, và ngược lại những người lính cũng gọi cấp chỉ-huy của mình với danh-từ thân-thương = ông thầy) chạy đến trao cho tôi một điếu thuốc lá quấn sẵn, và một xấp lá thuốc khô. Sau khi rít một hơi vào, tôi ho săc-sụa vì thuốc nặng quá; tôi trả lại cho thằng đệ-tử, nhưng vẫn giữ lại những lá thuốc khô phòng khi ghiền quá thì đốt lên bập-bập cho đở cơn ghiền.
Chúng tôi tiếp tục tiến quân nhưng không có đụng độ, hành-động chính của chúng tôi lúc đó là phá hủy kho-tàng, cùng những thửa ruộng trồng lúa, bắp, khoai mì, và những hoa-mầu khác. Bên cánh tiểu-đoàn 2 TQLC có đụng-độ lẻ-tẻ và có thu-hoach nhiều hơn. Các Thủy-thần bên đó đã phá-hủy được một quân-y-viện rộng lớn, bắt sống được 1 quân-y-sĩ và 4 y-tá của địch; tịch thu rất nhiều y-dược và dụng cụ y-khoa, cùng trung tâm truyền tin và điện đài, những trại nhà cho quân đội CS trú ngụ.

Sau một tháng dẫm nát mật khu Đỗ-xá, toàn-bộ Lữ-đoàn TQLC hành-quân được trực thăng bốc về Quận-lỵ Sông-cầu, ở phía nam đèo Cù-mông, tỉnh Bình-định, để dưỡng quân, sau đó tiếp-tục hành-quân vào vùng mật-khu An-lão của cộng sản .
Sự tiến-chiếm mật-khu Đỗ-xá của những Thủy-thần Mũ-xanh, trong chiến-dịch Đỗ-xá năm 1963, tuy chỉ thu-hoạch một kết-quả rất khiêm-nhường, nhưng đó là bước khởi đầu cho các Thiên-thần Mũ-đỏ của Sư-đoàn Nhảy-dù VN. cùng các Sơn-thần Mũ-nâu của Quân-đoàn 2 sau nầy nhảy vào Đỗ-xá nhiều lần; và họ đã thu-đoạt được nhiều kết quả về nhân mạng cũng như quân trang, quân-khí của địch quân.
Đỗ-xá không còn là một an-toàn-khu của Cộng-sản nữa.

Nguồn: https://onnguonsuviet.com/p104a492/do-xa-1964

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn