Thêm vài bản dịch thơ Nguyễn Du (của hai anh em ông Lê Văn Kha và Lê Văn Trực)
Tiểu dẫn:
Người họ Lê Kim xưa định cư làng Nguyệt Bổng (huyện Thanh Chương, Nghệ An) bên bờ sông Lam dưới chân Cồn Chạn địa phận xã Thanh Nam ngày nay. Từ đường họ Lê Kim (đã được công nhận di tích văn hóa) và cổ thụ còn đó mà làng thì đã di dời lên đồi, người thì đã phiêu bồng muôn ngả. Tôi nhân một lần chờ đò qua phía hữu ngạn sông Lam có rẽ thăm di tích này và được người trong họ trao cho một sưu tập câu đối thơ văn của anh em con cháu gia đình cụ Lê Văn Kì – một nhà phú hữu yêu nước và cách mạng, hậu duệ họ Lê Kim. Mở đọc thấy chữ Nho và Việt văn chen xen rất thú vị. Tưởng chuyện người thời đại điền giấy khai sinh và viết bản lí lịch bằng chữ quốc ngữ nhưng vẫn gắng dùng chữ của tiên hiền xưa làm thơ-dịch thuật ghi chút tâm sự riêng mà chợt thấy cảm khái vô vàn! Chúng tôi từng có dịp giới thiệu một ít thơ của ông Lê Văn Trực (Bài Thấy Người Qua Thơ). Nay xin mạn phép chép hầu độc giả vài bản dịch thơ Nguyễn Du của Lê Văn Trực và anh trai là ông Lê Văn Kha (cùng Lê Văn Vy đều là cháu nội của cụ Lê Kim Tường (?~1894) – người đã mất trong nhà lao Vinh vì tội tham gia phong trào Cần Vương. Ông Lê Văn Kha cũng có thời gian tù đày, ra tù mất tại quê nhà. Ông Lê Văn Trực và em Lê Văn Vy vào Nam cuối thập niên 1950, từ 1975 kiều cư ở Mĩ. Ông Lê Văn Trực là cựu sinh viên Y Khoa - Khóa 9,
thuộc Viện Đại Học Y Khoa Huế. Ông mất năm 2013 tại Maryland. Riêng ông Lê Văn Kha sau khi dịch Bài ca người gảy đàn đất Long Thành có viết một bài thơ gọi là “Tựa bản dịch Long Thành Cầm Giả Ca”. Cũng xin chép kèm bản dịch để thấy dịch thuật ấy cũng là một sự chia sẻ và kết nối:
Dịch bản Long Thành Cầm Giả Ca
Bỗng dưng thương cảm khóc người ta
Hai chục năm qua về bến cũ
Ngó lại đôi bên đã luống già
Hồ Giám phải đâu Tầm Dương bến
Cô phụ lang thang giữa phố ngà
Thi sĩ ngược xuôi đời tao loạn
Mây trời biến ảo cuộc bôn ba
Các bản dịch giới thiệu sau đây là bản dịch bài 龍城琴者歌 (Long Thành Cầm Giả Ca) và 昇龍 (Thăng Long Kì nhất, Kì nhị). Một lần nữa xin được cảm tạ quý quyến trong trong họ đã tin tưởng cho đọc tài liệu.
Người dẫn: Đà Lê Hiên
龍城琴者歌 Long Thành Cầm Giả Ca |
||
Tác giả tiểu dẫn: Người gảy đàn đất Long Thành ấy, tên họ là gì không rõ. Nghe nói lúc nhỏ nàng học đàn Nguyễn nơi đội nữ nhạc trong cung vua Lê. Binh Tây Sơn dấy lên, các đội nhạc cũ lớp chết lớp bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn gảy dạo. Những bản đàn do nàng gảy là những khúc trong cung phụng gảy cho vua nghe, người ngoài không ai biết. Cho nên tài danh của nàng lừng lẫy một thời. Buổi thiếu niên, đến kinh đô thăm anh, tôi trọ gần Giám hồ. Cạnh đó các quan Tây Sơn tập hợp nữ nhạc, danh cơ không dưới vài chục. Nàng ăn đứt mọi người với cây đàn Nguyễn, lại hát hay và khéo nói khôi hài. Cử tọa đều say mê điên đảo đua nhau ban thưởng. Những chén rượu thưởng to lớn, nàng nhận uống cạn. Tiền thưởng nhiều vô số. Vàng lụa chồng chất đầy cả đất. Lúc bấy giờ tôi núp trong bóng tối, trông thấy nàng không rõ lắm. Sau gặp lại ở nhà anh tôi. Nàng người thấp má bầu, trán giô, mặt gẫy. Không đẹp lắm, nhưng da trắng trẻo, khéo trang điểm, mày thanh, má phấn, áo màu hồng, quần sắc túy, hớn hở có bề phong tao. Tánh lại hay rượu, ưa hí hước. Đôi mắt long lanh không để một ai vào tròng. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu, năng uống say vùi, nôn mửa bừa bãi, nằm lăn trên đất, bạn bè chê trách, không lấy làm điều. Sau đó vài năm, tôi dời nhà vào Nam, ngót mấy năm liền không trở lại Long Thành. Mùa xuân năm nay, phụng mệnh đi sứ Trung Quốc, tôi đi ngang qua Long Thành. Các bạn mở tiệc tiễn tôi tại dinh Tuyên Phủ, có gọi vài chục nữ nhạc, tôi đều không quen mặt biết tên. Tiệc khởi múa hát. Kế đến tiếng đàn trổi lên, nghe trong trẻo khác thường không chút giống thời khúc. Lòng tôi kinh dị. Nhìn người gảy đàn, thì thấy thân gầy, thân khô, mặt đen, sắc trông như quỷ, áo quần toàn vải thô, bạc màu lại vá nhiều mảnh trắng, ngồi lầm lì ở cuối chiếu, không nói cũng không cười, hình trạng thật khó coi. Tôi không biết là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như có quen, nên động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, hỏi thăm thì ra là người trước kia đã gặp. Than ôi! Người ấy sao đến nỗi thế này! Cúi ngửa bồi hồi, nghĩ đến cảnh cổ kim, lòng tôi cảm kích vô hạn. Đời người trăm năm, những cảnh vinh nhục buồn vui thật sao không lường được! Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương khôn nén, nên soạn bài ca để gửi hứng. (Quách Tấn dịch) |
||
Nguyên văn bài thơ 龍城佳人 |
Phiên âm Hán Việt Long Thành giai nhân
|
|
Chú thích: (1) Nguyễn cầm: Tục truyền đàn nguyệt do Nguyễn Hàm, một trong Trúc lâm Thất hiền đời Tấn sáng chế. (2) Tiền triều: Chỉ triều nhà Lê. (3) Giám hồ: Hồ Hoàn Kiếm. (4) Bia Tiến Phúc: Tên tấm bia dựng ở một ngôi chùa cổ ở Nhiêu Châu, (nay thuộc huyện Phiên Dương) tỉnh Giang Tây. Tương truyền dưới triều nhà Tống, Phạm Trọng Yêm đậu tiến sĩ làm Thứ Sử Nhiên Châu. Phạm văn hay chữ tốt, thiên hạ đua nhau xin chữ mẫu. Có người học trò nghèo xin giúp đỡ. Phạm bảo ở chùa Tiến Phúc có bia cổ nguyên là chữ họ Âu Dương. Phạm giúp tiền giấy mực và lộ phí bảo người kia đến rập lấy chữ đem bán lấy tiền. Ngay đêm đó trời nổi mưa giông, sấm sét liên hồi. Kịp đến khi người kia đến chùa thì thấy bia đã bị sét đánh vỡ vụn. (5) Trang Tích: Đời Xuân Thu, có kẻ là Trang Tích người đất Việt, làm quan nước Sở. Khi ông ốm bệnh, Sở Vương quan đại phu là Trung Tạ: Tích làm quan nước Sở hưởng phú quý rồi, thì còn nhớ nước Việt nữa không? Tạ đáp: Người ta có nhớ nước cũ hay không, thường tỏ ra trong lúc đau ốm. Nếu bây giờ mà Tích nói tiếng Việt tức là nhớ nước Việt, bằng không thì nói tiếng nước Sở. Vua Sở sai người dò thăm thì thấy Trang Tích hát bài hát tiếng Việt âm điệu rất buồn. (6) Trung Hòa Đại nội: Tên một tòa điện trong hoàng thành nhà Lê. (7) Triền đầu: Đời Đường Đại Tôn hoạn quan Ngư Triều Ân nhà cực giàu. Ngư thiết tiệc cho người lấy gấm cho ca vũ quấn đầu. Về sau các món thưởng cho người ca vũ nương được gọi là “triền đầu”. (8) Ngũ Lăng: Ngoại ô phía tây kinh thành Trường An - chỗ tụ tập của thân hào thế tộc. Ngũ lăng thiếu niên: chỉ những con nhà quyền quý, giàu sang. Tì Bà Hành (Bạch Cư Dị) có câu: ''Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu''. (9) Tam thập lục cung: Nơi ở của phi tần cung nữ. (10) Chỉ quan trấn thủ Bắc Thành.
|
||
Dịch nghĩa: Người đẹp đất Long Thành, không nghe nói tên họ, riêng thạo đàn Nguyễn. Người trong thành bèn lấy chữ “Cầm” mà đặt tên. Nàng học được khúc Cung Phụng trong cung tiền triều. Đó là những khúc đàn hay nhất trời đất. Tôi nhớ lúc thiếu thời đã gặp một lần bên bờ hồ Giám trong một cuộc dạ yến. Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi, áo hồng ánh lên mặt hoa đào, má hừng rượu, vẻ ngây thơ rất dễ thương. Năm cung réo rắt, theo ngón tay mà thay đổi điệu. Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông. Tiếng trong như đôi hạc kêu trên cao thẳm. Tiếng lạnh như sét đánh tan bia Tiến Phúc. Tiếng buồn như Trang Tịch ngâm tiếng Việt lúc bệnh. Người nghe say sưa không biết mỏi. Đó là những khúc đàn trong đại nội Trung Hòa. Các quan Tây Sơn trong tiệc đều say mê điên đảo, mải vui suốt đêm không biết chán. Bên tả bên hữu tranh nhau vãi thưởng, tiền bạc coi rẻ như đất bùn. Ý khí đào hoa át cả các bậc vương hầu. Đám thiếu niên đất Ngũ Lăng không đáng kể. Tưởng chừng ba mươi sáu cung xuân, chung đúc một vật báu vô giá đất Trường An. Nhớ lại từ bữa tiệc ấy đến nay đã hai mươi năm. Sau khi Tây Sơn bại vong, tôi vào Nam, Long Thành trong gang tấc không được thấy lại, huống hồ tiệc múa hát ở trong thành. Quan Tuyên Phủ vì tôi bày cuộc mua cười. Trong đám ca kĩ đều trẻ tuổi. Duy ở cuối chiếu có một nàng tóc đã hoa râm, mặt gầy thần khô hình bé nhỏ, đôi mày phờ phạc không điểm tô. Ai biết đó là người trước kia nổi danh tài hoa đệ nhất trong một thời. Khúc xưa đàn lên, tôi tuôn nước mắt ngầm theo từng tiếng. Tai lắng nghe mà lòng chua xót! Bỗng nhớ lại chuyện hai mươi năm xưa, từng thấy trong chiếu tiệc bên hồ Giám. Thành quách suy dời, việc người đắp đổi, bao nương dâu đã biến thành biển xanh. Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan sạch. Trong làng múa hát còn sót lại một người! Trăm năm thấm thoát trong một hơi thở một nháy mắt. Cảm thương việc cũ lệ thấm áo. Từ Nam trở về, đầu tôi bạc trắng! Không trách người đẹp nhan sắc suy tàn. Hai mắt trừng trừng luống tưởng lại chuyện cũ, khá thương giáp mặt nhau mà không nhận được nhau! (Quách Tấn dịch xuôi) |
||
Bản dịch Lê Văn Kha |
||
Long Thành có một giai nhân, Họ tên không kẻ xa gần nào hay. Đàn cầm riêng có hoa tay, Nên người quen miệng truyền tên “chị Cầm” Hát bài cung phụng trong cung - Nhạc thần triều trước riêng nàng biết thôi. Ta đây nhớ thủa thiếu thời, Giám Hồ từng đã đêm vui nghe đàn. Mặt hồng ánh sắc hoa đào, Hai mươi mốt tuổi đương thì hoa xuân. Năm cung mềm mại lướt vần, Thanh âm thánh thót động lòng khách nghe. Khoan như tiếng gió rừng thông, Thinh không trong tựa hạc kêu cây ngàn. Mạnh như tiếng sét lưng trời, Khiến bia cổ tự tan tành mảnh con. Héo hon thương kẻ tha phương, Đương khi ốm bệnh giọng quê nói tràn. Ta nghe tai lắng âm thầm: Trung Hòa nội điện điệu âm ấy mà. Tây Sơn quan khách đầy tòa, Ngả nghiêng giữa tiệc la đà thâu đêm. Gật gù kẻ thưởng người khen, Vàng tung bạc ném xem như rác bùn. Hào hoa át cả hầu môn, Công tôn tuổi trẻ coi còn ra chi. Cung xuân ba sáu mê ly: Trường An báu ấy có gì đọ đâu.
|
Thế rồi từ ấy xa nhau, Hai mươi năm lại về sau gặp nàng. Tây Sơn từ độ hoang tàn, Trời Nam nhạn lẻ phiêu bồng riêng ta. Thăng Long thăm lại còn không được, Nữa chuyện ca nhi với hát hò. Giờ quan Tuyên Phủ lại mời, Ta cùng dự tiệc với người cho vui. Ca nhi toàn tuổi xanh tươi, Riêng người cuối chiếu trên đầu hoa râm. Mặt mày son phấn biếng chăm, Hình dung vò võ tâm tư âm thầm. Ai hay là chính cô Cầm, Sắc tài một thủa đế đô danh lừng. Lệ rơi khúc cũ dạo qua, Lắng tai ta những xót xa trong lòng. Hai mươi năm trước bỗng dưng: Bên hồ nhớ lại đã chừng gặp nhau... Việc đời thành quách đổi mau, Non sông mấy độ bể dâu chuyển dời. Tây Sơn công nghiệp đâu rồi, Còn đây một kẻ ca cầm mà thôi. Trăm năm thấm thoắt đời bao nả, Chuyện cũ lòng đau nước mắt rơi. Về Nam đầu bạc ta già, Thảo nào ai kẻ phai nhòa phấn son. Mắt giương khó tưởng nguồn cơn, Thương thay giáp mắt mà còn lạ nhau.
|
|
昇龍 其一 Thăng Long đệ nhất thủ |
|||
Nguyên văn 傘嶺瀘江歲歲同 短笛聲聲明月中
|
Phiên âm Hán Việt Tản Lĩnh Lô Giang tuế tuế đồng Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long (1) Bách niên cự thất thành quan đạo Nhất phiên tân thành một cố cung (2) Tương thức mĩ nhân khan bảo tử Đồng du hiệp thiếu tận thành ông Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung
|
||
Chú thích: (1) Nguyễn Du rời Thăng Long lúc nhà Lê mất (1789). Khi đó ông mới 25 tuổi. Tới lúc Gia Long lên ngôi (1802) Nguyễn Du từ Hà Tĩnh ra Thăng Long làm quan. Lúc này ông đã 37 tuổi. Năm 1813 Nguyễn Du trở lại Thăng Long lần nữa để lĩnh mệnh đi sứ Trung Hoa. Lúc này ông đã tuổi gần ngũ tuần (thơ chữ Hán của ông có nhiều câu tả bản thân ông tuổi ba mươi đã tóc bạc). Bài thơ cảm tác khi trở lại Thăng Long để lên đường đi sứ này chính là khai quyển của tập Bắc Hành Tạp Lục (北行雜錄) gồm 132 bài thơ chữ Hán sáng tác trong vòng 1 năm từ tháng Hai đến tháng Chạp năm Quý Dậu (1813). (2) Thành Thăng Long vừa được xây lại năm 1805. |
|||
Dịch nghĩa: Núi Tản, sông Lô vẫn giống nguyên như năm xưa, Đầu đã bạc còn được thấy lại Thăng Long; Những toà nhà lớn từ ngàn năm trước nay đã bị phá đi để làm đường phố, Tòa thành mới lại xây trên nền các cung điện xưa; Những người đẹp quen biết ngày xưa giờ đã tay bế tay bồng; Bạn bè cùng rong chơi thời trẻ bây giờ đã thành các ông già; Lòng ưu tư vướng vất suốt đêm thao thức, Tiếng sáo đưa trong bóng trăng thanh. |
|||
Bản dịch Lê Văn Kha Ngàn năm Lô Tản nguyên hình, Bạc đầu còn được thấy thành Thăng Long. Lầu xưa nhường chỗ đường công, Mảnh thành mới dựng mất cung điện vàng. Mấy nàng tay bế tay bồng, Bạn bè niên thiếu thành làng lão ông. Bâng khuâng thức suốt đêm ròng, Véo von sáo ngắn chan hòa trăng thanh. |
Bản dịch Lê Văn Trực Lô Tản nghìn năm tuổi vẫn thơ, Bạc đầu nay tới được thành đô. Trăm năm lầu cũ nhường quan lộ, Một mảnh thành nay mất điện xưa. Chẳng biết giai nhân tay ẵm trẻ, Buồn nhìn bạn cũ tóc như tơ. Buâng khuâng đêm trắng không thành mộng, Tiếng sáo tan vào ánh nguyệt mơ.
|
||
昇龍 其 二 Thăng Long đệ nhị thủ |
|||
古時明月照新城 猶是昇龍舊帝京
|
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành Do thị Thăng Long cựu đế kinh |
||
Dịch nghĩa: Mảnh trăng ngày trước soi xuống ngôi thành mới, Đây vẫn là Thăng Long, đế kinh của các triều vua xưa. |
|||
Bản dịch Lê Văn Kha Trăng xưa còn chiếu tân thành, Thăng Long vẫn cổ đế kinh đấy mà; Đường mây mờ lạc lối xưa, Sao đàn cũ mới, hồ đồ âm thanh; Giàu sang muôn thủa tranh giành, Bạn bè thủa trước tình hình còn bao; Thương đời chìm nổi được sao, Tóc xanh ta mới nào ngờ bạc phơ. |