Ngôi nhà gỗ màu đỏ

Thứ Ba, 07 Tháng Mười Hai 202110:00 SA(Xem: 2525)
Ngôi nhà gỗ màu đỏ

AVvXsEjAfUQ_9RIwSAuTEFu8ex5cVHVLcNWuaBNmFnzV9JT0ATLvQdanOaQOZv39g7JSw6YzITGTQrVn1Tf-acjNtgCyH0Hg6khF7WIAa82XwDDIEhiPWxGMxdbvCEPyp0nt9sVrZagkd9uYpbLcD7aZ8kwnRjwM0S0PZdf-r3HOx-D71aw6q-zBclefCz007Q=w346-h400

 

Bạn đã bao giờ được chứng kiến người ta chuẩn bị cho cái chết của mình chưa ? Còn tôi, tôi đã được chứng kiến cảnh đó trong một buổi tối với quá nhiều ánh sáng.

Trong một lần ngồi ăn cơm với con gái mình, tôi hỏi : “Nếu bây giờ Thần Thánh cho bố một món quà là được chọn một trong những người thân yêu của bố đã mất sống lại thì con có biết bố sẽ chọn ai không ?“. Con gái tôi trả lời : “Bố chọn cụ nội”. Nghe vậy, tôi ứa ước mắt vì hạnh phúc.

Lúc đó, tôi vẫn chưa hết sầu thương cha mẹ tôi mới mất cách đó vài năm. Nhưng tôi đã chọn bà nội tôi. Tại sao con gái tôi lại hiểu đúng ước mong của tôi ? Bởi con gái tôi đã biết tôi thương nhớ bà nội tôi như thế nào. Trong rất nhiều câu chuyện tôi kể cho con gái tôi nghe suốt tuổi ấu thơ của cô bé là chuyện về bà nội tôi. Hơn nữa, tôi được sống với cha mẹ tôi nhiều hơn và cũng làm được một hai điều nhỏ bé tỏ lòng đáp đền công dưỡng dục của cha mẹ. Còn đối với bà nội mình, tôi chẳng làm được một việc gì cho bà cả.

Năm 12 tuổi (13 tuổi mụ), tôi ốm liệt giường. Tôi không ăn được gì mà chỉ thèm nhai chiếu rách và quần áo cũ. Người tôi lúc đó chỉ bé bằng con mèo. Bà nội tôi đã đặt tôi vào chiếc thúng cái, úp cái nón lên và đội tôi trên đầu đi gần hai chục cây số đến hết thầy lang này rồi thầy lang khác để chữa bệnh cho tôi. Một lần, vừa đội cái thúng cái tôi đang nằm trong đó ra khỏi ngõ thì gặp một người làng. Ông ta vô tư hỏi : “Bà đi bán gì đấy ?”. Bà tôi nổi giận : “Thủy thui cái mồm ông, tôi đưa cháu đi chữa bệnh mà bảo đi bán gì à. Cháu tôi mà có mệnh hệ nào thì ông chết với tôi”.

Một đêm, khi thấy tôi đã lịm đi, chỉ còn thoi thóp thở như một con cá bị ném lên bờ đã lâu, cha tôi và các chú bác đã đóng một chiếc áo quan nhỏ cho tôi vì nghĩ tôi không thể nào sống qua được đêm ấy. Chính đêm ấy, bà tôi ôm một chiếc áo cũ của tôi ra cánh đồng. Bà tôi vừa đốt chiếc áo vừa khóc vừa gọi vía tôi trở về. Bà sợ nếu vía tôi đi qua sông Đáy sẽ không thể quay trở về được nữa. Và tôi đã sống đến bây giờ.

Một ngày sau trận ốm thập tử nhất sinh, tôi đi lang thang trong khu vườn và nhìn thấy chiếc áo quan nhỏ sơn màu đỏ gác trên mái gác chuồng trâu ở góc vườn. Tôi hỏi em tôi đó là cái gì. Em tôi bảo đó là ngôi nhà gỗ đỏ mà những người trong họ đóng cho tôi. Tôi hỏi bà vì sao lại làm ngôi nhà gỗ đỏ cho tôi bé như thế thì sao tôi ở được. Bà nhìn tôi và nói : “Đấy là chiếc áo quan nếu cháu chết họ sẽ cho cháu vào đó và đem chôn”. Tôi nhắm mắt rùng mình vì khiếp sợ. Tôi ôm bà và kêu lên run rẩy: ’’Bà ơi, cháu sợ’’. Ngay sau đó, bà tôi vội mang chiếc áo quan ra bờ sông đốt và xúc tất cả tro đổ xuống sông Đáy cho trôi ra biển để ma quỷ không còn tìm được tôi nữa.

Khi bà tôi mất tôi còn trẻ quá. Những ngày bà tôi ốm nằm trên giường, có lúc tôi mải chơi và để bà khát nước. Những ngày tháng đó, hễ có ai mang biếu bà tôi bánh trái là chúng tôi lại ùa đến bên giường bà để đợi bà cho ăn. Nhiều lúc bà tôi không ăn lấy một mẩu bánh mà chia cho anh em chúng tôi. Bà nhìn chúng tôi ăn và ứa nước mắt. Nhưng chúng tôi không hề mảy may biết gì. Chúng tôi quá trẻ, quá thơ ngây và quá đói khát. Bây giờ tôi vẫn không hết ân hận. Tôi cứ ao ước bà sống lại dù chỉ một giờ để tôi mang nước cho bà, mua thật nhiều bánh trái ngon biếu bà và nói anh em tôi yêu bà đến nhường nào.

Khi bà tôi hấp hối, tôi đang chơi bóng ở ngoài bãi sông. Một người trong họ bấm độn thấy bà tôi khó đi nói rằng do bà tôi đợi tôi về mới đi. Nếu tôi không về bà tôi sẽ không đi được. Một người trong họ chạy đi tìm tôi. Khi tôi bước đến bên giường bà, một người nào đó nói : “Mày cầm lấy tay bà để cho bà đi”. Tôi rụt rè cầm tay bà tôi. Bà tôi vẫn nằm bất động và thở khẽ nhưng tôi cảm nhận bà tôi biết tôi đang cầm tay bà. Tôi cảm thấy bà tôi mỉm cười. Hai khóe mắt bà tôi chợt ứa ra hai giọt lệ. Rồi bà tôi nấc nhẹ và ra đi.

Có một người đàn bà hàng xóm của tôi đã liên quan một phần đến sự sống của tôi. Bà thi thoảng đi đò qua sông Đáy vào những bản người Mường giáp tỉnh Hoà Bình buôn bán lặt vặt đã mang về cho mẹ tôi hai nắm lá thuốc của người Mường. Bà đã nói với một bà Lang Mường về tôi. Bà Lang Mường nhìn bà rất lâu với đôi mắt ái ngại. Nhưng người đàn bà hàng xóm của tôi tha thiết xin bà cắt cho cậu bé hàng xóm đang ốm nặng mấy thang thuốc. Bà Lang Mường thở dài kín đáo và lấy hai nắm lá đưa cho người đàn bà hàng xóm. 

Đấy là những ngày vía tôi đã không qua sông Đáy mà vẫn ở lại. Nhưng tôi vẫn nằm trên giường. Mẹ tôi xao vàng hai nắm lá cho tôi uống. Uống hết hai nắm lá, tôi ngồi dậy và bắt đầu đòi ăn. Mẹ tôi khóc vì mừng. Người đàn bà hàng xóm vội qua sông lấy thêm ba nắm lá thuốc nữa cho tôi. Uống hết ba nắm lá thuốc ấy, tôi ra ngõ chơi. Người đàn bà ấy tôi gọi là mợ Các.

Mấy năm sau, mợ Các đổ bệnh, da vàng như nghệ, tóc rụng hết. Cho đến gìờ tôi cũng không biết mợ bị bệnh gì. Thi thoảng tôi ghé qua nhà mợ xem mợ có nhờ tôi giúp gì không. Trong ngôi nhà vách đất, lợp rạ tan hoang như một túp lều, mợ mở đôi mắt bàng bạc trên khuôn mặt vàng như nghệ nhìn tôi. Không phải mợ nhìn tôi mà mợ đang quan sát tôi. Rồi mợ Các ra đi vĩnh viễn.

Lúc ấy tôi còn nhỏ, cho nên việc mợ Các ra đi chỉ làm tôi chông chênh một thời gian ngắn. Nhưng bây giờ, những buổi tối về quê ngồi một mình trong tiếng chó sủa, tôi không lúc nào không nghĩ về mợ. Mợ chỉ có một người con trai tên là Các nên gọi là mợ Các. Tên của mợ là gì tôi không biết. Năm 1954, chồng mợ di cư vào Nam. Ông là lính của quân đội Pháp. Lúc ấy mợ còn rất trẻ, nhưng ở vậy và không đi bước nữa. Bao nhiêu người đàn ông đến xin cưới mợ. Lần nào mợ cũng chỉ nói : “Tôi là gái có chồng. Chồng tôi đi vắng. Chồng tôi sẽ trở về. Sao lại dám hỏi tôi làm vợ”. Nói có vẻ cứng rắn vậy nhưng khi những người đàn ông quay đi thì mợ khóc. Mợ cứ vừa cứng rắn vừa khóc âm thầm như thế và biến mất trên cõi đời này.

Sau khi mợ mất thì anh Các bỏ nhà đi làm công nhân cầu đường. Ba năm sau anh Các trở về làng lấy vợ và ở lại làng làm ruộng và sinh sống. Rồi anh bị bệnh tâm thần. Họ hàng anh phải xích chân anh lại vì sợ anh bỏ đi không biết đường về. Nhưng một ngày vợ anh cởi xích để tắm cho anh. Anh bỏ trốn và từ đó đến giờ không ai còn thấy anh nữa. Vợ con và họ hàng anh đã từng đến nhiều nhà thương điên để tìm anh nhưng anh vẫn biệt tăm.

Và sau gần hai mươi năm chiến tranh kết thúc, chồng mợ trở về. Tôi đã ngồi ăn cơm cùng ông với cha mẹ tôi. Ông trở về và gần như chẳng còn gì nữa ở nơi ông sinh ra và lớn lên. Vợ ông đã mất và con trai ông bị bệnh tâm thần bỏ nhà đi. Trong một đêm mùa hạ nhiều muỗi, cha tôi đã kể lại cuộc đời của mợ cho người chồng nghe. Người đàn ông trở về nhưng không hé lộ một chút gì về cuộc đời mình trong mấy chục năm lưu lực. Ông đi thăm họ hàng làng xóm rồi trở về Nam. Không biết bây giờ ông còn sống hay đã mất. Những câu chuyện như thế chẳng bao giờ nguôi trong lòng tôi. Những câu chuyện ấy thi thoảng lại vang lên trong căn buồng ẩm tối trong ngôi nhà của ông bà tôi để lại như những tiếng thì thầm không bao giờ dứt.

Trong nhiều năm sau ngày anh Các bỏ nhà, đi đâu thấy một người đàn ông điên bẩn thỉu lang thang trên đường hay trần truồng nằm ngủ dưới một gốc cây, tôi đều đến gần nhìn xem có phải anh Các không. Biết rằng bệnh anh không thể chữa khỏi nhưng trong lòng tôi vẫn khao khát làm một việc gì đó dù rất nhỏ cho anh. Tôi muốn nói với người mẹ sinh ra anh - mợ Các - rằng : tôi mang ơn bà. Đã có lúc tôi nghĩ, bà cứu mạng tôi và bà phải gánh chịu khổ đau. Tôi không làm được điều bé nhỏ mà tôi khao khát. Nhưng tôi luôn mang trong lòng mình khát vọng ấy. Lúc nào nghĩ vậy, đầu tôi cũng lóe lên hình ảnh mợ nhìn tôi cười mãn nguyện.

Có một buổi chiều giá lạnh sau ngày mợ mất, anh Các bắt được một con cá diếc ngoài đầm cá của ao Hợp tác xã nông nghiệp. Anh ôm con cá chạy về nhà. Những người bảo nông phát hiện và đuổi theo anh. Họ đạp anh ngã xuống sân và lấy lại con cá. Tôi lẻn vào nhà anh và thấy anh không áo quần đang nằm trong một cái ổ rơm. Quần áo anh bị ướt hết khi lội xuống đầm bắt cá. Người anh gầy dơ xương đang run lên bần bật. Anh nhìn tôi. Đôi mắt của một chàng trai mới mười tám, mười chín tuổi như hai ngọn đèn dầu vừa bị thổi tắt. Tôi òa khóc.

Cho đến lúc này, khi viết những dòng chữ về chiều mùa đông xa xăm ấy, nước mắt tôi lại giàn giụa chảy. Nhưng ngày đó tôi chỉ là một cậu bé. Tôi không làm gì để có thể giúp anh. Mẹ tôi kể trong những ngày anh Các bị bệnh tâm thần thi thoảng lại rú lên, hai tay ôm chặt đầu sợ hãi. Người làng bảo anh nhìn thấy ma dọa đánh anh. Tôi không nghĩ đến ma. Lúc nào nghe chuyện đó tôi cũng thấy trong tôi hiện lên những người bảo nông của Hợp tác xã đạp anh ngã xuống đất và đòi lại con cá. Một con cá diếc dù sống quá lâu trong ao đầm thì cũng không to hơn bàn tay.

Những năm tháng đói khát, đau buồn và tội nghiệp đã đi qua làng tôi và bao làng quê khác. Cái đói giờ hầu như không còn. Nhưng hình ảnh bi thương ấy mãi mãi như ngọn gió của những ngày đông giá thổi qua lòng tôi. Và tôi vẫn không làm sao dứt ra khỏi máu thịt mình hình ảnh bi thương đó.

Lần cuối cùng anh Các bỏ nhà ra đi có lẽ đã hơn mười lăm năm. Mọi người tin anh đã mất. Vợ con anh lấy ngày anh ra đi làm ngày giỗ. Nhưng sao tôi vẫn không nghĩ anh đã chết cho dù tôi chẳng có căn cứ nào cho lòng tin ấy. Mặc dù tôi mong anh đừng sống thêm ngày nào nữa. Bởi sống như thế chắc chắn là một sự đày đọa. Nhưng liệu anh có biết đó là sự đày đọa không. Hay anh là người thực sự mộng du không thể hồi tỉnh. Hay anh là người được ban cho cơn mộng du vô tận ấy để đi qua những đau buồn của cõi đời này. Bởi đối với những người mang cơn mộng du ấy thì đói không phải là đói, khát không phải là khát và đau không phải là đau. Hay anh là kẻ lạc đường và không bao giờ tìm thấy lối trở về như nhiều người mà họ lại không bao giờ tin rằng họ đã lạc đường.

Gần một nửa thế kỷ đã trôi qua kể từ ngày bà tôi ra đi, mỗi khi trở về quê đi bước vào căn buồng thuở xưa bà tôi nằm đó, tôi vẫn cảm thấy mùi thuốc bắc và mùi nước tiểu của bà tôi. Bà tôi nằm liệt giường mấy năm trước khi mất. Lúc nào tôi cũng ngồi xuống chiếc ghế trong căn phòng đó rất lâu trong im lặng hồi tưởng về bà. Ngay lập tức, tất cả những gì thuộc về bà tôi lại tràn ngập căn phòng : mùi trầu cay, mùi thuốc bắc, mùi cao hổ, mùi nước tiểu của bà trong những năm tháng bà tôi đau ốm, mùi lá bưởi bà gội đầu, mùi ngải cứu bà buộc trên trán bằng một chiếc khăn khi bị đau đầu hay cảm cúm....Và mỗi khi đi qua cánh đồng, lúc nào trong tôi cũng hiện lên bóng bà đang gọi vía tôi trở về trong cái đêm buồn bã và đầy sợ hãi thuở xưa.

Tôi luôn luôn nghĩ rằng ; mẹ tôi sinh ra tôi lần thứ nhất còn bà đã tái sinh tôi. Nếu không có tiếng bà sợ hãi và đau đớn gọi vía tôi trong cái đêm ấy, chắc vía tôi đã đi qua sông Đáy và không bao giờ trở về nữa. Và hình ảnh mợ Các cũng chẳng bao giờ nhòe đi trong tôi cho dù một chút. Cả hai người đàn bà ấy giờ đã thiên thu. Nhưng đâu đấy trong cuộc sống này tôi vẫn thi thoảng cảm thấy họ vừa đi qua tôi nồng ấm hơi thở. Cuộc sống thực sự là một chuỗi những ký ức buồn bã, da diết, khổ đau đầy những suy tưởng nhưng lúc nào cũng ngân vang cả trong bóng tối.

NGUYỄNQUANG THIỀU FB
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn