KÝ ỨC VỤN VỀ CHUYỆN TÙ CÔN ĐẢO NHỮNG NĂM 1970-1972

Thứ Hai, 10 Tháng Tám 20204:00 CH(Xem: 5870)
KÝ ỨC VỤN VỀ CHUYỆN TÙ CÔN ĐẢO NHỮNG NĂM 1970-1972

Lê Nguyễn

KÝ ỨC VỤN VỀ CHUYỆN TÙ CÔN ĐẢO NHỮNG NĂM 1970-1972

cocc82n-c490acc89o

Thị trấn Côn Sơn năm 1971 nhìn xuống từ con đường từ phi trường Cỏ Ổng dẫn về trung tâm 

Xin được nói rõ: đây chỉ là chút hồi ức dựa vào những gì tác giả mắt thấy tai nghe trong thời gian có mặt ở Côn đảo những năm 1970-1972. Mục đích chủ yếu của bài viết này chỉ nhằm giúp bạn yêu sử có thêm một số dữ kiện cụ thể để bổ sung, tự đánh giá những gì mình đã đọc thấy, nghe thấy về vấn đề này từ trước đến nay. Cũng vì thế, mọi ý kiến, bình luận, tranh luận ngoài lề nhằm so sánh các chế độ lao tù khác nhau, hoặc nhằm kích động thêm sự hằn thù giữa các thành phần dân tộc đang sống trong và ngoài nước hiện nay đều không được hoan nghênh.
Trân trọng

***
Chuyện này tôi nghe kể lại sau khi đã đặt chân lên Côn đảo, lúc đó có tên là Côn Sơn. Chuyện kể rằng ngày nọ, phái đoàn Bộ Nội vụ VNCH do ông Thứ trưởng Lê Công Chất cầm đầu đi thanh sát Trung tâm cải huấn (trực thuộc Nha Cải Huấn, Bộ Nội vụ), khi kiểm tra hồ sơ tài chánh, thấy có nhiều sai sót, chủ yếu là vô tình, do năng lực yếu kém, chứ không do nhũng lạm. Bị phiền trách, ông đệ nhất Phó Quản đốc trung tâm (chức danh Quản đốc do ông Đặc phái viên hành chánh, tạm gọi vui là “chúa đảo”, kiêm nhiệm) nói tình thực là ông từ lính partisan lên, sống lâu lên lão làng, chứ trình độ có được bao nhiêu đâu. Nghe thế, ông Chất suy nghĩ một chút rồi phán: thôi được, tôi sẽ cử một ông Đốc sự hành chánh ra giúp các anh.
Ít lâu sau, trong lúc ngồi duyệt văn thư ở nhiệm sở của tôi là Văn phòng quận Kiên Tân (nay là Tân Hiệp), tỉnh Kiên Giang, tôi đọc thấy một công điện do Tòa hành chánh tỉnh gửi cho các quận, đại ý: Thủ tướng chính phủ (lúc đó ông Trần Thiện Khiêm là Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ) sẽ ban hành sắc lệnh thành lập chức vụ Phụ tá Hành chánh tại Cơ sở HC Côn Sơn, Bộ Nội vụ cần một viên chức ngạch Đốc sự HC tình nguyện ra đó làm việc. Tôi suy nghĩ 15 phút rồi tự tay soạn công điện: “Kính trình quý tỉnh, ông Lê Văn C., Phó Quận trưởng Kiên Tân tình nguyện ra làm việc tại Côn Sơn”. Tôi quyết định tình nguyện ra đi một phần vì bất mãn với tình trạng bè phái của những người là bạn đồng môn với nhau tại địa phương, phần khác vì máu giang hồ trỗi dậy. Lúc đó đã là tháng 10 năm 1970, không ngờ chỉ hơn hai tháng sau (12.1970), quyết định bổ nhiệm đã về đến tay tôi. Về sau tôi biết rằng có khoảng một chục ông Đốc sự HC cùng tình nguyện như tôi, song không hiểu do đâu tôi là người được chọn.
Chuyện tôi ra làm việc tại Côn Đảo nó tếu táo như thế.

cocc82n-c490acc89o2

Anh tù công nhân tư gia làm tài xế và cô con gái 2 tuổi của tôi

***
Như tôi có dịp trình bày ở một bình luận trước, tổ chức chính quyền tại đảo lúc bấy giờ có ba bộ phận chính do một sĩ quan cấp Trung tá kiêm nhiệm cả ba. Đó là
– Cơ sở Hành chánh, đại diện chính thức của chính quyền trung ương tại đảo, trực thuộc Bộ Nội vụ
– Bộ chỉ huy Đặc khu về mặt quân sự, thuộc Tiểu khu Gia Định
– Trung tâm cải huấn về mặt quản lý trại giam, trực thuộc Nha Cải Huấn, Bộ Nội vụ
Tại Cơ sở HC, người phụ tá cho ông Đặc phái viên HC là tôi; tại Bộ chỉ huy Đặc khu, người phụ tá cho ông “chúa đảo” là một sĩ quan cấp Thiếu tá, và tại Trung tâm Cải huấn, có hai người phụ tá là hai ông Phó Quản đốc.
Phạm nhân thụ hình tại Côn đảo lúc bấy giờ có nhiều thành phần khác nhau, song có thể phân thành hai nhóm: chính trị và không chính trị.
– Nhóm không chính trị gồm tù thường phạm có mức án từ 5 năm trở lên, phần lớn phạm những tội cướp của, hiếp dâm, giết người.. ; tù quân phạm, phần lớn là “lao công đào binh tái đào” (những binh lính đào ngũ bị bắt lại thì bị đưa đi làm lao công ở chiến trường, nếu tiếp tục đào ngũ và bị bắt lại lần nữa thì bị đưa ra tòa án quân sự lãnh 10 năm khổ sai). Tù thường phạm đeo một huy hiệu bằng kim loại cỡ 1,5 cm vuông sơn màu vàng; tù quân phạm mạng bảng màu xanh lá cây
– Tù chính trị gồm những người hoạt động cho lực lượng CS, mang bảng sơn màu nửa xanh lục, nửa đỏ, chia đôi bởi một đường chéo góc; thường dân hoạt động cho CS mang bảng sơn nửa vàng, nửa đỏ; và tù CS thuần túy, đeo bảng màu đỏ.
Tất nhiên, các tù thường phạm và quân phạm chấp hành triệt để nội qui trại giam, tham gia các chương trình lao động sản xuất trên đảo như trồng cây, trồng rau ở các sở Rẫy, đi sở Củi, vào rừng lấy củi về nấu bếp, hoặc đi sở Lưới, đánh cá để có thêm chất tươi cải thiện bữa ăn, vì thức ăn chính chỉ gồm cá khô, cá mắm do Nha Cải Huấn, Bộ Nội vụ chở từ đất liền ra. Hàng ngày, buổi sáng, thành phần tù này được đưa ra khỏi trại, đến các sở, và chiều lại xếp hàng nối đuôi nhau trở về trại. Cách hành xử duy nhất của họ là chấp hành đúng nội quy của trại để sớm được cứu xét ân giảm, ân xá.
Trong thành phần tù chính trị có hai dạng: một dạng tuân thủ nội quy, cộng tác với chính quyền trên đảo và một dạng chống đối triệt để, không tuân thủ các quy định của trại. Dạng thứ nhất (tuân thủ nội quy trại giam), ngoài những người sáng xuất trại đi lao động và trở về trại vào buổi chiều như các tù thường phạm khác, còn có những người trình độ văn hóa khá, được sử dụng ở văn phòng trung tâm cải huấn, các ty, sở, nhất là ở Hợp tác xã tiêu thụ, nơi mua hàng từ đất liền về phân phối cho cư dân trên đảo. Những phạm nhân đặc biệt này được gọi là “công nhân văn phòng”, không phải ở trong trại giam đông đúc và tù túng, mà được ở trong một trại riêng gọi là Trại lá, là một dãy trại dài, không cửa nẻo, không người canh giữ. Họ sống khá thoải mái, như những công chức không lương, đi làm ở cơ quan, hết giờ hành chánh thì về Trại lá, rủ nhau ra tắm biển, đi mua sắm ở hợp tác xã, đọc sách báo do thân nhân từ đất liền gửi ra…
Cuối cùng là số tù chính trị chống đối, hoàn toàn bất hợp tác với ban quản lý trại giam, không chịu đi lao động, thường xuyên truyền tai nhau các tin tức chính trị bên ngoài truyền vào thông qua các tù chính trị làm “công nhân văn phòng”, tổ chức học tập trong phòng giam. Người ta kể rằng ngày 2.9.1969, ông Hồ Chí Minh qua đời, thì tối ngày 3.9, họ đã tổ chức lễ truy điệu trong nhà tù. Căn trại 2 ngay trước tư thất tôi ở lúc bấy giờ, đêm nào các tù chính trị chống đối cũng đọc những kiến nghị, thư yêu cầu, giọng đọc nghe văng vẳng, không rõ nội dung, song mỗi khi người đọc đọc xong một vài câu thì đám đông hô to lên ba lần tiếng “yêu cầu, yêu cầu, yêu cầu”. Tiếng hô vang rất xa, nghe rõ mồn một, báo hại ban ngày cô con gái mới 24 tháng tuổi của tôi cứ luôn miệng “yêu cầu, yêu cầu, yêu cầu”!
Tất nhiên, theo nội quy trại giam, những người tù chống đối không được hưởng những tiện nghi tối thiểu như người tù bình thường, như ít được tắm rửa, phơi nắng, ít được tiếp tế từ bên ngoài, nước da họ xanh xao, tình trạng sức khỏe suy yếu … Cụm từ “địa ngục trần gian” xuất phát từ cảnh sống của những người tù này. Cũng cần nói thêm là tuy chống đối hoàn toàn, song thành phần tù chính trị này vẫn được nhận tiền do thân nhân từ đất liền gửi ra (chuyện này tôi sẽ kể thêm ở phần sau)
Ngoài các thành phần tù trên, tại Côn đảo lúc bấy giờ còn có 2 hạng tù khác.
Loại đầu rất phổ biến tại các trại giam trong nước, kể cả các trại giam hay trại tù cải tạo sau 30.4.1975. Họ được gọi là “trật tự”, là những phạm nhân, phần lớn là quân phạm, được giao nhiệm vụ phụ giúp với các giám thị trại trong công việc hàng ngày, nhất là việc giữ an ninh trật tự trong trại. Sự xung đột giữa thành phần tù này với các tù chính trị chống đối là một câu chuyện dài trên đảo.
Loại thứ hai là “đặc hữu” của Côn đảo, được gọi là “công nhân tư gia”, phụ giúp việc nhà cho các chức sắc trên đảo. Các chức phó của chúa đảo (Phụ tá HC, Đặc khu phó, Phó Quản đốc) được cấp 2 hay 3 người (nếu có lái xe), các trưởng ty sở, trưởng phòng độc lập, sĩ quan trưởng ban Đặc khu, các trưởng ban, trưởng trại thuộc Trung tâm cải huấn, mỗi người được cấp một công nhân tư gia. Đây là nghề mà các tù thường phạm và quân phạm rất mơ ước. Phục vụ tư gia họ không phải làm việc nặng nhọc như đi lấy củi, đi sở lưới, được chủ nhà chia sớt thức ăn, cho tiền tiêu vặt, và đặc biệt, được nhiều cơ hội xét miễn giảm án tù. Bản thân tôi có 3 công nhân tư gia, anh lái xe bị 20 năm tù khổ sai vì dính vào một vụ giết người, hai anh kia là lao công đào binh tái đào, mỗi anh lãnh 10 năm khổ sai. Trong một đợt cứu xét vả đề nghị ân giảm, ân xá, 3 anh công nhân tư gia của tôi được giảm án mỗi người 5 năm! Hai anh 10 năm đã thụ hình hơn 2 năm, nay ân giảm 5 năm, chỉ còn phải ở thêm hơn 2 năm nữa. Họ tất nhiên may mắn hơn nhiều công nhân tư gia khác, vì ở với giới chức càng có địa vị cao thì cơ may được giảm án càng nhiều. Về chuyện này, cần phải nói thêm một điều về thái độ của các tù chính trị đối với qui chế công nhân tư gia. Những tù chính trị chống đối không chịu hợp tác, lao động hay tù chính trị có văn hóa đang làm công nhân văn phòng thì không kể, nhiều tù không chống đối nhưng chỉ chọn những việc làm không ‘dính dáng” đến chính quyền như quét lá trên đường, vào chùa làm công quả. Hầu hết những người này không chịu làm công nhân tư gia, có lẽ họ cho việc đó làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Tôi tôn trọng những người tù có lòng tự trọng đó, dù họ không cùng chính kiến với mình.
Trong chế độ chính trị miền Nam lúc bấy giờ, cái nhìn của những người khác chính kiến với nhau nhẹ nhàng và bao dung lắm, không nghiệt ngã như sau năm 1975. Với chúng tôi, nhân cách và lòng tự trọng quan trọng hơn rất nhiều so với sự khác biệt về chính kiến vốn chỉ là trò chơi của những chính khách sa-lông, những kẻ hoạt đầu chính trị. Với những người CS hay MTGPMN, dù lúc bình thường có thể họ cầm súng nhắm bắn mình, nhưng một khi họ đã thất thế sa cơ, nằm trong trại giam, lòng trắc ẩn của phần lớn người miền Nam, kể cả quân nhân, công chức, dành cho những người tù này, vẫn lấn át mọi thứ tình cảm khác. Tôi sẽ nhắc thêm điều này khi đề cập đến nhóm tù Huỳnh Văn Trọng – Vũ Ngọc Nhạ trong một bài viết sau.

QUỸ KÝ THÁC CAN NHÂN
VÀ CHÚT TÌNH THẦY TRÒ Ở CÔN ĐẢO

Tôi có “duyên” học với những người thầy giàu lòng yêu nước. Thời tiểu học, tôi học trường tư thục Chấn Hưng của thầy Nguyễn Văn Vàng ở đường Chi Lăng, Phú Nhuận (nay là Phan Đăng Lưu). Lúc đó, tôi nghe bọn nhỏ thường trêu chọc lũ học trò chúng tôi, đại loại như “thầy Chấn Hưng bị chấn (trấn) nước”. Tôi mơ hồ hiểu rằng “bị trấn nước” có nghĩa là bị tra tấn trong quá trình điều tra về một việc gì đó. Thầy Chấn Hưng người thấp và gầy, có một người bạn thân thường đến thăm, là thầy Minh Đức, chủ một ngôi trường ở đường Võ Di Nguy, gần cổng xe lửa (nay là Phan Đình Phùng), người khá mập mạp, chạy chiếc xe máy to, nghe đâu cũng từng bị “trấn nước”. Tôi còn nhớ một hình ảnh rõ nét vào năm 1954, khi chúng tôi đang ngồi học, người em trai của thầy Nguyễn Văn Vàng từ ngoài chạy vào như một cơn gió lốc, dừng lại nói điều gì đó với thầy Vàng, ngay sau đó, thầy không giấu được vẻ vui mừng, quay sang nói với chúng tôi, những cậu học trò mới 10 tuổi đầu, đại ý là quân đội Pháp đã đầu hàng ở Điện Biên Phủ rồi! Tôi còn giữ mãi ấn tượng về nét vui mừng trên gương mặt khắc khổ của thầy lúc đó. Ngày 1.7.1955, tôi bắt đầu theo học bậc trung học vào đúng ngày khai trương trường tư thục Chu Mạnh Trinh ở ngay góc Ngả tư Phú Nhuận. It lâu sau, tôi đọc báo thấy một “ổ CS nằm vùng” bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giữ, gồm mười mấy người, trong đó có hai người mà tôi nhớ tên, đó là thầy Nguyễn Văn Vàng và nhà văn Nguyễn Bảo Hóa, bút danh Tô Nguyệt Đình, tác giả quyển “Bộ áo cà sa nhuộm máu”. Từ vụ án này mới có “giai thoại’ về việc ông Tỉnh trưởng Định Tường Nguyễn Trân thách số nghi can chính trị trên đấu lý với ông, nếu ông thua, ông sẽ thả họ. “Giai thoại” kể rằng vì ông Nguyễn Trân cũng là người CS nên ông tạo “hiện trường” giả của cuộc đấu lý, giả thua để thả số người trên. Không rõ “giai thoại” này chính xác đến đâu, song chính mắt tôi đọc một tờ báo tường thuật phiên tòa xử nhóm người trên, theo đó, thầy tôi, mà tên bị báo in sai là Nguyễn Văn Vòng, được tha bổng.
Tôi học trường Chu Mạnh Trinh suốt 4 năm 1955-1959, về sau mới biết rằng đây là cả một “ổ” cựu kháng chiến. Nghe đâu thầy Phan Đương, hiệu trưởng trường Chu Mạnh Trinh, có bà con với hai thầy Phan Ngô (hiệu trưởng trường Tân Thanh ở Tân Định) và Phan Thuyết (hiệu trưởng trường Đạt Đức, Gia Định), vốn là hai người con của nhà cách mạng Phan Thành Tài, thời thập niên 1900 -1910. Thầy Phan Đương sử dụng ngôi trường của mình vừa để dạy học – một cách nghiêm túc và có hiệu quả – vừa để hỗ trợ phần nào cuộc sống của những người cựu kháng chiến. Đối với đầu óc non nớt của chúng tôi lúc bấy giờ, ba từ “cựu kháng chiến” cũng như hai từ “chiến sĩ” thiêng liêng lắm, nó không dị hợm như những từ “chiến sĩ CSGT” ăn hối lộ, “chiến sĩ CS” đánh người trên các báo lề phải ngày nay. Lúc ấy, tôi chưa suy nghĩ sâu được, vẫn thường lấy làm lạ, tự hỏi sao những môn mình học với thầy Đ., thầy B. mà trong học bạ, trường chỉ ghi người dạy là Phan Đương. Về sau, khôn hơn một tí, tôi mới biết rằng vì thầy Đ., thầy B. không có đủ tiêu chuẩn bằng cấp để dạy trung học, thầy Phan Đương muốn giúp những người cựu kháng chiến này có chút việc làm nuôi gia đình nên xếp giờ cho họ dạy, riêng ông, vì có đủ tiêu chuẩn về bằng cấp nên giành ghi tên mình trong sổ học bạ. Tôi kính trọng ông vì những tình cảm cao quý đó. Trong số những người cựu kháng chiến từng dạy chúng tôi, tôi nhớ nhất hai người; một là thầy Tạ Thanh Sơn, dạy 2 môn Sử-Địa, tác giả bài hát Nam Bộ Kháng Chiến bất hủ trong lịch sử âm nhạc Việt Nam, người mà tôi đã có dịp nói đến trong một status cách nay khá lâu. Người thứ hai là thầy Phan Văn Phổ, dạy Lý-Hóa, Vạn Vật. Thầy Phổ người thấp hơn mức trung bình, chỉ cao khoảng 1,55 mét, người rất hiền lành, không bao giờ nụ cười không đi theo câu nói. Nhà thầy ở Bà Chiểu, thầy đi làm bằng chiếc xe gắn máy hiệu Fips. Lớp Đệ ngũ, rồi Đệ tứ của chúng tôi ở trường Chu Mạnh Trinh chỉ có 26-27 người nên tình thầy trò rất khăng khít, rất thương nhau. Chúng tôi vừa kết thúc niên khóa 1958-1959 thì được tin thầy Phan Văn Phổ bị bắt. Chúng tôi buồn, nhưng không ngạc nhiên, với một “cựu kháng chiến” như thầy thì chuyện bị bắt vì lý do chính trị dễ xảy ra.
Giữa năm 1959, trường Chu Mạnh Trinh có 27 học sinh đi thi Trung học Đệ nhất cấp (phổ thông cơ sở ngày nay), có 7 người thi đỗ, tôi may mắn ở trong số người này. Thời đó, một trường trung học tư thục có số học sinh thi đỗ 7/27 đã là một điều đáng để khoe; tôi còn nhớ đích thân thầy hiệu trưởng Phan Đương đã lấy phấn viết lên bảng tên của 7 “tân khoa”, dựng ngay trước cửa trường. Năm đó, tôi và hai người bạn học Chu Mạnh Trinh (Vũ Đình Vượng và Tô Minh Tâm) có thêm cái may mắn thi đỗ vào lớp Đệ Tam C trường trung học công lập chính thức của tỉnh Gia Định là trường Hồ Ngọc Cẩn.
Một buổi chiều, tại trường Hồ Ngọc Cẩn, chúng tôi đang trong giờ ra chơi thì thấy thầy Phan Văn Phổ lù lù đi vào cổng trường, theo sau là hai người mặc thường phục. Tôi và hai người bạn bấm nhau, ngầm ý bào nhau đừng nhận diện thầy, có thể hai “cảnh sát chìm” đi theo để xem ai quen biết thầy thì bắt luôn.

***
12 năm trôi qua. Năm 1971, một buổi sáng, tại Côn đảo, tôi đang duyệt xem danh sách các phạm nhân xin lãnh tiền từ quỹ Ký thác can nhân thì giật mình đọc thấy trong danh sách của trại 4, có tên … Phan Văn Phổ. Tôi không tin là thấy Phổ đã ở tù 12 năm, nhưng cũng thử gọi điện thoại xuống Trung tâm cải huấn, gặp anh Trưởng ban hồ sơ tên Thân, nhờ anh tìm xem hồ sơ của người tên Phan Văn Phổ như thế nào. Độ 15 phút sau, anh Thân gọi cho tôi, tôi vẫn còn nhớ nguyên văn lời anh báo: “trình ông Phụ tá, tên này dữ lắm, nó ở trong Ban trí vận, giáo vận thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn”. Tôi nghĩ bụng: trí vận, giáo vận thì đích thị thầy Phổ của mình rồi.
Đầu giờ chiều hôm đó, tôi chạy xe xuống trại 4, nơi giam giữ phần lớn là tù chính trị chống đối, nói với ông giám thị trưởng trại cho tôi gặp thầy Phổ. Tôi ngồi trong văn phòng của ông trưởng trại ở đầu dãy nhà để chờ thầy. Một lát sau thì thầy Phổ bước vào. Tôi nhận ra thầy ngay. Vẫn vóc dáng ngày xưa, gương mặt xương gầy hơn trước, nước da trắng hơn trước, do chỉ sống trong bóng mát của nhà tù. Thầy mặc bộ đồ bà ba đen vải đã sờn. Tôi mời thầy ngồi trên chiếc ghế đối diện tôi và mở lời trước:
– Thầy còn nhớ em không?
Thầy nhìn tôi một thoáng, rồi lắc đầu, nói nhỏ:
– Tôi có nhiều học trò quá nên không nhớ hết
Tôi xưng tên với thầy, kể tên những người bạn đã học với thầy, những Thúy, Hưng, Vượng, Tâm, Đức … Nghe đến đó, thầy Phổ nhận ra ngay. Thầy hỏi tôi về tình trạng của mỗi người, xong buông câu:
– Thầy mừng là tất cả các em đã nên người.
Tôi nhắc lại câu chuyện 12 năm trước, vào năm 1959, khi thầy lù lù đi vào cổng trường Hồ Ngọc Cẩn và 3 anh em chúng tôi không dám gọi thầy. Thầy cũng nhớ chuyện này, giải thích là hôm đó thầy xin trại tạm giam đi vào trường Hồ Ngọc Cẩn, vốn là trung tâm thi của tỉnh Gia Định, để lãnh tiền chấm thi, chứ chính quyền lúc đó chẳng có “âm mưu” gì như chúng tôi đã lo sợ. Nghe thầy giải thích, tôi cười thầm cho sự ngu ngơ của mình.
Đến lúc này, tôi mới bắt đầu khởi động “kế hoạch” dự tính. Tôi ngỏ ý xin thầy Phổ cho tôi lãnh thầy ra Cơ sở HC Côn Sơn làm với tôi, để khi có đợt xét ân giảm, ân xá thì tôi đề nghị TTCH xét cho thầy trở về đời sống bình thường. Thầy suy nghĩ một thoáng rồi lắc đầu:
– Thầy không thể bỏ anh em được.
Qua câu chuyện, tôi biết vợ con thầy đã về sống ở Bến Tre, còn bản thân thầy đang bị bệnh trĩ khá nặng. Tôi “tấn công” thêm bằng một đề nghị có sức thuyết phục hơn:
– Thôi thì, nếu thầy không muốn ra làm việc với chính quyền, em lãnh thầy ra làm công quả trong chùa. Bây giờ thầy ở trong này, có chống đối cũng không được gì, chi bằng sau khi được ân giảm về sớm, chừng đó thầy có hoạt động trở lại, ai cấm được?
Những điều tôi nói khiến thầy Phổ ngồi suy nghĩ lung lắm. Cuối cùng, thầy buông ra câu nói dứt khoát mà tôi vẫn còn nhớ rõ nguyên văn:
– Thôi, em có con đường của em, thầy có con đường của thầy. Em để cho thầy vào với anh em.
Rồi thầy đứng lên, quay lưng bước vào trại, theo sau là hai tù trật tự dẫn giải thầy vào phòng giam cũ. Tôi đứng nhìn theo, lòng chùng xuống trong một nỗi buồn không tên.
Chiều hôm đó, tôi gặp BS Lê Túy, kể anh nghe chuyện tôi vừa gặp lại thầy học cũ của mình, nhờ anh khi có dịp vào trại 4 thì chăm sóc dùm căn bệnh trĩ của thầy Phổ. Tôi cũng gửi vào trại cho thầy bộ quần áo vải đen, loại cấp cho các cán bộ Xây dựng nông thôn. Đó là lần gặp duy nhất của tôi với thầy Phan Văn Phổ tại Côn đảo, nhờ sự “se duyên” của quỹ Ký thác can nhân, nhưng duyên không thành.

***
Khoảng năm 1984 – 1985, mấy năm sau thời gian “đi xa” trở về, một ngày nọ, tôi gặp lại người bạn học cũ, cũng là học trò của thầy Phan Văn Phổ. Anh kể lại có lần gặp thầy Phổ và thầy có nhắc đến tôi, đại ý là ở Côn đảo, tôi từng vào trại tù “dụ” thầy ra, nhưng thầy không ra. Chữ “dụ” ngắn ngủn đó có đủ sức nặng để làm cho trái tim tôi nghẹn lại. Tôi kịp trấn tĩnh và cố an ủi là tình thầy trò như thế đã quá đủ rồi. Mấy tháng sau nữa, tôi lại gặp một người bạn khác, lần này anh tường thuật lời thầy Phổ nói với anh khác hơn. Đại ý thầy nói rằng khi đó, tôi là một viên chức chỉ huy ở đảo mà không sợ nguy hiểm, đã đến tận trại để xin lãnh thầy ra. Thầy nhắn là hôm nào tôi ra gặp thầy tại Hội trí thức yêu nước, trụ sở ở đường Nguyễn Thông.
Lòng tự ái được ve vuốt chút nào, một ngày nọ, tôi ra Hội Trí thức Yêu nước thăm thầy. Thầy ngồi làm việc bên một cái bàn chỉ lớn hơn phân nửa cái bàn giấy bình thường, cũng chẳng thấy có hồ sơ, giấy tờ gì. Tôi nghĩ bụng chắc người ta cho thầy “ngồi chơi xơi nước” để đền bù mười mấy năm tù tội của thầy. Vào thời điểm đó, tôi đã nghỉ việc ở công ty XNK Ficonimex, vì theo quyết định số 113 năm 1982 của Phó Thủ tướng Tố Hữu, các công ty XNK công tư hợp doanh phải giải thể, mô hình làm ăn với tư bản, tiêu biểu là Hong Kong và Singapore, rất thành công, song không được chấp nhận. Nghe tôi vừa giải tán đàn gà vì nuôi không thành công và đang đi câu cá kiếm sống, thầy lấy sổ tay ra bảo tôi đọc địa chỉ cho thầy, có lẽ để khi có cơ hội gì thì tìm giúp việc cho tôi. Từ đó hai thầy trò không còn có dịp gặp nhau nữa.

Cho đến bây giờ, mỗi lần nhớ đến các thầy Tạ Thanh Sơn, Phan Văn Phổ, thế hệ đàn em của những Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, tôi vẫn hình dung trước mắt mình những chàng trai mười tám, đôi mươi, những “thanh niên tiền phong” chỉ trang bị cho mình chiếc tầm vông vạt nhọn và một tình yêu nước trong sáng, nồng nàn: “nóp với giáo mang ngang vai, nhưng thân trai nào kém oai hùng” (Nam Bộ Kháng Chiến). Hình ảnh đó đẹp quá! Nó sáng mãi trong lòng những thế hệ hôm nay và mai sau. Sau 1954, cuộc đời mỗi người có những lối rẽ khác nhau, sự phán xét sẽ thuộc về Lịch sử.

Lê Nguyễn
24.9.2017
https://kontumquetoi.com/2020/04/04/ky-uc-vun-ve-chuyen-tu-con-daothoi-my-nguy-nhung-nam-1970-1972-le-nguyen/

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn