Tha Phương – Lập Nghiệp ( Một ) - Nguyên Quân

Thứ Bảy, 09 Tháng Mười Một 20194:23 CH(Xem: 5494)
Tha Phương – Lập Nghiệp ( Một ) - Nguyên Quân
165v
Tha Phương – Lập Nghiệp  ( Một )

          Hằng năm, vào cuối tháng năm âm lịch là ngày giỗ kỵ cha tôi. Tất cả các anh chị tôi và gia đình họ quy tụ tại nhà bà mẹ. Vào đúng giờ ngọ thì hai mâm cơm cúng sẵn sàng, một được đặt trước bàn thờ gia tiên để cúng cha, còn mâm nữa đặt ở divan kê sát vách, dường như là để cúng kẻ khuất mặt khuất mày gì đó. Xong xuôi đâu ra đấy, mẹ tôi lên nhang đèn cúng vái trước, kế đến là các bà con thân thuộc tiếp theo nữa là các anh chị cùng con cái của ảnh chỉ, lượt sau cùng là tôi. Đợi đến khi những cây nhang trong ly hương trên bàn thờ cũng như bên mâm cúng ở divan tàn rụi hẵn thì mâm cỗ trước bàn thờ được dọn qua chiếc bàn tròn mười chỗ ngồi bên cạnh đó, dành cho các ông. Còn cái mâm ở divan là để cho qu‎‎ý bà. Bọn trẻ con gần hai mươi đứa cũng có mâm riêng của chúng trên bộ phản gỏ ở nhà giữa. Trong lúc ăn uống, qu‎ý chú qu‎ý dượng và các anh lớn của tôi thường nhắc đến công đức của cha và dường như ‎ý của ‎họ là muốn cho tôi biết thêm về gia cảnh nhà mình ngày xưa vì tôi là nhỏ nhứt nên không biết nhiều về điều đó, bởi lúc cha tôi mất tôi mới 16 tuổi thôi. Gần như năm nào cũng thế, ngày nầy luôn có mặt chú hai Đán, lạ một điều nữa là các anh chị tôi luôn gọi ông nầy bằng anh, chỉ có tôi hơi khác biệt khi gọi ông ấy bằng chú. Vì sao thế ? Vì chú Đán có một thằng con trai tên nó là Đóa trạc tuổi tôi, nó là bạn thân thiết của tôi lúc nào cũng tao tao, mầy mầy với nhau từ khi còn ở trong vùng sâu tận xã Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Thế là ba của nó thì tôi phải gọi bằng chú rồi và mẹ tôi cũng bảo thôi thì cứ gọi như vậy đi. Chú Đán là ai nhỉ ? Chú là con ông Đôn làm quản gia cho ông nội tôi, còn chú Đán cũng có khoảng nửa đời ông coi sóc gia đình chúng tôi. Chú nhỏ hơn cha tôi năm bảy tuổi gì đó.


Image result for Hình ảnh vùng đồng quê
                    (Images)


          Trở lại thời gian, vào đầu thế kỷ XX cái xứ nam kỳ nầy thật là yên bình và trù phú làm sao, được coi như là vùng đất cơ hội, hay vùng đất hứa cho những người dân ở miền trung hoặc miền bắc ước ao vào đây lập nghiệp. Trong dòng người tha phương tìm đất sống đó thì có ông Đôn, quê quán ở Quảng Nam là cái miền “ Đất Quảng Nôm (Nam) chưa mưa thì đã nắng, rượu hồng đồ (đào) chưa nhấm mà đã say ” nói cho đúng thì nơi đó là vùng đất khô cằn, cày lên sỏi đá, rất khó cho việc trồng trọt. Thế cũng chính thiên nhiên khắc nghiệt như vậy đã tạo cho những con người nơi nầy đầy nghị lực, có mức chịu đựng thật dẻo dai và sức phấn đấu bền bĩ vô song. Ông Đôn lúc đó tuổi chừng 23, 24 gì đó nhưng vóc dáng nhỏ người, mảnh khảnh, da đen sậm nắng y như một đứa bé nhà quê độ chừng 15, 16 tuổi thôi. Ông đi đến đâu thì hỏi thăm đến đó, chuyện ông đến nhà ông nội tôi như là cơ duyên chăng ?
          Bước đầu ông Đôn chỉ xin ông nội tôi : sao có được việc làm cho dù làm bất cứ việc gì, miễn là có cơm ăn no là đủ rồi. Với giọng nói hơi đả đớt dễ mến của người miền Trung như gọi con bò là ‘con bồ’, con chó là ‘con chố’ hay phát âm trài trại những con số: 3,4,7,0,8 nghe giống như là ‘ba bốn bữa không tém’ làm mọi người nghe thấy đều cười bò lăn, bò càn rồi họ cũng thường hay lấy đó làm đề tài trêu chọc ông, nhưng được cái là ông không giận hờn ai cả. Đây cũng là thói xấu của người Việt mình hay lấy chuyện pha giọng (nhái giọng) miền khác để làm trò vui, trò cười. Chớ kỳ thực thì bất cứ địa phương nào đều có ít nhiều phát âm sai lệch khác nhau, nghe ra cũng ngộ nghĩnh lắm. Cụ thể như người dân quê tôi ít khi phát âm được chữ ‘R’, trừ phi người đó có đi học, thông thường họ phát âm như chữ ‘G’ cho dễ,  thí dụ như “ bắc con cá gô, bỏ dô cái gổ, nó dẩy nghe gồn gột ” (bắt con cá rô, bỏ vô cái rổ, nó vẩy nghe rồn rột). Còn thêm một cái sai nữa là chữ ‘KH’ đôi khi phát âm thành chữ ‘PH’ trong một vài trường hợp, thí dụ như “ Phia phia có được củ phai ăn thấy phái dà phẻ dô cùng ” (khuya khuya có được củ khoai ăn thấy khoái và khỏe vô cùng). Sau cùng những chữ có đa nguyên âm thì họ thường phát âm ngắn gọn lại như một nguyên âm, thí dụ : 'Tuấn' phát âm thành 'Tứng', quan 'Tòa' thành quan 'Tò', 'Tiêu' xài thành 'Tiu' xài v.v... Cho dù phát âm đôi lúc ngọng nghịu như vậy nghen, nhưng khi ngồi trên chiếc xuồng câu ba lá hay khi cho đàn vịt trốn nắng dưới rạng cây, rồi khi nổi hứng lên anh chàng liền bắt chước giọng kép mùi Út Trà Ôn xuống câu xề nghe sao ngọt xớt. 
           “ Ôi nhìn trời hiu quạnh, rừng đêm sương gió lạnh.
           Chốn quê người lòng thêm chạnh nỗi niềm riêng.
          Thâu canh, hồn ngơ ngẩn nhìn bóng trăng khuya soi lặng lẽ giữa đêm…trường. Cảnh vật mơ màng soi giấc điệp dưới trời sương...” (Sầu vương biên ải). Ôi sao, nghe nó mùi tận mạng và phát âm quá chuẩn không cần chỉnh đâu đấy.
          Thôi trở lại chuyện ông Đôn, thế rồi dần dà cái đám người giúp việc được ông nội tôi mướn trước đó bắt đầu nể phục ông Đôn vì ông ấy rất có nhiều tài vặt như biết võ nghệ, võ Bình Định ? dám bắt rắn độc như hổ mang, hổ đất đem về nấu cháo đậu xanh và làm ra món nhậu cho bạn bè, ông cũng biết cách chữa trị khi bị rắn độc cắn nữa chứ và ông còn có vài toa thuốc Nam trị bá bệnh, rồi ông biết luôn cách trị bệnh tà ma theo kiểu mấy ông pháp sư miệt vườn. Tuy ông không biết chữ, nhưng ông có cách tính rợ khá nhanh và chính xác, ngoài ra ông có “ bí kíp ” khá độc đáo để theo dõi có bao nhiêu gánh lúa mà nhóm người hàng xáo đã gánh xuống ghe cà-dom (loại ghe lớn của mấy ông tàu đi thu mua lúa) trong những lần ông nội tôi bán lúa cho họ. Bí kíp  đó là những chiếc que nhỏ như tăm xỉa răng và dài bằng chiếc đũa ăn cơm mà ông đã cặm cụi chẻ từ một lóng tre khô mấy ngày trước đó. Để khi một gánh lúa đi ngang qua, ông chỉ việc bẻ cụp một đoạn (khúc) độ chừng 3 centimet, rồi gánh kế tiếp đi ngang nữa thì ông bẻ thêm một khúc nữa…nghĩa là một que tăm ông bẻ được 9 lần thành 10 đoạn, tượng trưng cho 10 gánh lúa đã xuống ghe. Cái nầy ông gọi là ‘bẻ cò’, phải chăng là cách gọi ngộ nghĩnh của người miền trung ? Và khi họ đổ lúa đầy ghe, ông nội tôi thường hỏi nhỏ ông “vậy chớ được bao nhiêu gánh rồi hả Đôn ?”, thì bao giờ con số của ông nói ra luôn đúng với con số ông tài phú chủ chiếc ghe (ông Tàu nầy dùng viết và giấy, cứ mỗi lần gánh lúa đi qua, ông vẽ một cạnh của hình vuông rồi khi hình vuông được thành hình với thêm một đường chéo nữa là tượng trưng cho con số 5 nghĩa là có 5 gánh lúa đã xuống ghe, cách nầy chúng ta thường thấy người Hoa hay sử dụng). Chính vì thế ông nội tôi rất tin tưởng và quí mến ông vô cùng.
           Bởi do cái tính siêng năng, lanh lợi đó nên ông nội tôi mới cất nhắc ông Đôn lên làm quản gia cho ông, trông coi nhà cửa, cắt đặt công việc và đôn đốc cho những người khác làm lụng. Ông nội tôi còn gả cô cháu gái, con của người chị cho ông Đôn vì vậy cha tôi gọi ông bằng anh (anh rể) kể từ khi đó.
          Bây giờ hãy nói về chú Đán là đứa con trai duy nhất của ông Đôn, cũng nối nghiệp cha để làm quản gia cho đời cha mẹ tôi. Theo như tôi kể ở đoạn trên thì vai vế của chú Đán là vai anh (anh em họ 2 đời) của anh em chúng tôi. Chú Đán rất giống cha từ vóc dáng nhỏ người đến cách nói chuyện khéo léo không làm mích lòng ai và còn được cụ Đôn truyền tất cả sở đoản sở trường, dạy luôn kinh nghiệm sống vì vậy mà chú giúp cha mẹ tôi rất được việc. Ở nhà quê, những gia đình giàu có như điền chủ, luôn có năm sáu tớ trai, đôi ba tớ gái bởi vì có rất nhiều việc phải làm suốt tháng quanh năm thêm cái nữa là cũng cần có nhiều người trong nhà như vậy thì bọn cướp, trộm không dám thăm viếng nhà mình. Những việc phải làm đó là : nếu vào mùa gặt hái thì họ giúp gia chủ thu gom lúa từ những nhà nông nào thuê mướn ruộng của mình. Cũng lắm lúc người mướn ruộng rồi nhưng vì đau yếu hay có chuyện gì đó, họ không thể tiếp tục vụ mùa thì chủ điền phải lấy ruộng lại giao người nhà của mình tạm thời canh tác, chớ  không thể bỏ ruộng hoang được. Sau mùa lúa thì săn sóc vườn tược, cha mẹ tôi có bốn liếp vườn trồng cây ăn trái thì có bốn cái mương nước xen kẽ các liếp đó để lấy nước tưới cây. Gia đình không phải trồng cây trái để bán chác gì cả mà trồng cho có đủ trái cây cho gia đình ăn, cách trồng cũng rất tài tử, mỗi loại chỉ trồng vài ba cây thôi như : Vú sữa tím, mít mật, soài, bưởi, cam, quít, chanh, ổi, mận, măng cầu xiêm, măng cầu ta (na), lựu, l‎ý, me, chùm duột, đu đủ và nhiều nhất là dừa, dừa xiêm trái nhỏ ngọt nước và dừa ta cho trái lớn. Nói chung mùa nào, trái nấy trong nhà luôn có trái cây ăn suốt quanh năm bốn mùa. Rồi thêm một khu vườn trồng rau cải, cà chua, cà tím, dền, mồng tơi, hành, hẹ, gừng, ớt, sả v.v…và vài giàn trồng khổ qua, mướp hương, bầu, bí. Kể đến chăn nuôi, gia đình có một chuồng heo được cất bên trên con lạch nước ở cuối sau nhà, số heo nuôi đủ để cúng giỗ, Tết nhất hoặc tiệc tùng đãi đằng khách từ phương xa tới chơi, rồi một chuồng gà cạnh đó nhưng được cất trên mặt đất và một chuồng vịt nằm kế bên chuồng gà. So với heo hoặc gà thì vịt mình săn sóc chúng dễ dàng hơn, cứ sáng sớm ta mở cửa cho chúng ra ngoài, rải lúa cho chúng ăn no một bụng, trong khi đó người nhà có thể vào trong chuồng nhặt trứng, ăn xong chúng nó bơi theo con vịt đầu đàn ra đồng tìm cua, ốc, cá nhỏ, tép ăn thêm đến khi chiều tối chúng mới bơi về, người nhà rải lúa cho chúng ăn thêm một bận nữa rồi tự động chúng biết vào chuồng ngủ. Ngoài loại thịt do chăn nuôi mà có, nguồn thức ăn chính ở thôn quê vẫn là cá, tôm trên đồng ruộng, trong mương đìa hay dưới sông rạch. Với một gia đình đông người như vậy nếu tính luôn người giúp việc nữa là gần hai mươi người chớ chẳng ít. Cha mẹ tôi có đặt một chiếc vó lớn ở mé sông phía trước nhà. Vó chỉ để đánh bắt cá trên sông nên ít khi bắt được loại cá đồng lớn như : lóc, trê, rô nhưng vó bắt được nhiều loại cá trắng như cá chẽm, mè vinh, dãnh, he, bóng tượng và nhiều nhất vẫn là tôm xanh, tôm thợ rèn, tép, cua. Chính vì không bắt được loại cá đồng nên chú Đán cắt đặt hai người cứ cách vài đêm họ bơi xuồng ba lá đi bủa lưới giăng câu bắt thêm cá đồng và đặt trúm bắt lươn. Khi nào bắt được nhiều cá, các anh ấy bỏ vào giỏ lớn, ngâm xuống nước để ăn dần dà. Đặc tính của cá đồng là rất khỏe, sống trong giỏ vài hôm có làm chúng ốm đi, chớ không chết. Thường thì sau Tết nguyên đán, mùa gặt hái cũng đã xong lại là mùa khô nữa, tất cả cá đồng trên đồng ruộng đã bươn bả di tản xuống ao, đìa, mương rạch thì đây là lúc người dân quê tổ chức tát đìa hầu tóm thu lượng cá lớn để làm mắm, làm khô dự trử thức ăn trong thời gian gieo mùa tới vì lúc đó họ thật sự bận rộn, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất thì còn thời giờ đâu kiếm cá, kiếm tôm được chứ. Rồi cũng cần nói thêm một chuyện tương đối nặng nề nữa là giải quyết vấn đề củi đốt. Mới nghe qua, thấy thật phi l‎ý vì ở miền quê thì có lắm rừng, nhiều bụi rậm, cây dại mọc um tùm thì làm gì có tình trạng thiếu củi được ? Vâng, dọc theo bờ sông hay kinh rạch là rừng dừa nước, xen kẽ là những cây bần, gừa, bình bát, vông đồng hoặc cây tra. Trên bờ thì có mù u và nhiều nhất là trâm bầu, cây trâm bầu thân cứng có nhiều gai, người dân nơi đây thường đốn những cây nầy về làm nhà hay sửa chữa lại chuồng trâu, chuồng lợn. Thường thì người dân quê nấu nướng bằng rơm, bằng rạ đến khi hết rơm họ quây ra chặt những tàu cây dừa nước ven sông đem về rọc hết lá rồi chặt cành thành nhiều khúc ngắn, phơi khô làm củi đốt. Riêng gia đình tôi khá đông người nên nấu nướng nhiều hơn vì vậy không thể kiếm củi bằng cách đó được. Chuyện nầy phải nhờ chú Đán, mỗi năm vào khoảng cuối tháng hai âm lịch chú dẫn theo vài ba người, chèo chống chiếc ghe tam bản lớn vào rừng u minh đốn cây đước, cây mắm về làm củi. Loại củi nầy nấu, có ít khói làm cho cơm và thức ăn được ngon miệng hơn. Mỗi chuyến đi như vậy kéo dài khoảng hai ba tuần, thế rồi đám người nầy mang về một lượng củi lớn đủ cho việc nấu nướng trọn năm và những mẫu chuyện đường rừng đầy kỳ thú để kể lại các anh chị tôi nghe chơi, nói chung anh chị tôi rất mê những câu chuyện chú Đán kể, không biết lúc chú thêm mắm dậm muối gì nữa không, sao nghe thật hấp dẫn thế.
           Ôi dòng đời có khác chi là dòng nước, không phải lúc nào cũng chảy êm xuôi hết đâu. Năm 1945 dông tố lại ập đến với gia đình tôi, bởi tiêu thổ kháng chiến nên bao nhiêu sự sản đã bị vơ vét sạch, cái gọi là quyên góp và ngôi nhà gạch ngói hai tầng cũng thì bị đốt cháy rồi phá sập, gia đình tôi phải chia hai, xẻ ba. Các anh chị lớn thì được cha mẹ cho tản cư ra thành, hai anh chị nhỏ và tôi theo cha mẹ lánh vào vùng sâu Mỹ Tú (Chuyện nầy được kể rõ trong truyện ‘Người Nam di cư'). Căn nhà lá cất vội để ở tạm trên mãnh vườn cây trái, lúc đi thì cũng giao lại cho chú thím Hưng (ba má chị Lựu trong truyện ‘Người chị nuôi’) và gia đình chú Đán coi sóc giùm. Tính đến thời gian nầy thì chỉ còn hai người đó là trung tín, thân cận nhất của gia đình tôi  và cũng chính hai người nầy giúp đưa chúng tôi vào nơi ở mới.
          Lúc ở nơi đây, chúng tôi ít khi thấy người thân hay bạn bè lui tới thăm viếng ngoại trừ hai chú Đán và Hưng. Hai ông nầy lại là bạn thân thíết với nhau, đi đâu đều có đôi có cặp, họ còn gắn bó trên ‘phương diện nghề nghiệp’ bởi nghiệp dư của hai ổng là nghề làm pháp sư chữa bệnh tà ma. Sở dĩ có việc đó là bởi chú Đán được cha truyền cho chút ít nghề, sau đó có được chú Hưng kéo đàn cò hổ trợ, ôi tiếng đờn nghe thật réo rắt thê lương lại hòa quyện theo nhịp điệu từng câu rỗi của chú Đán “ Một cò xanh nhảy quanh hòn đá, chờ nước cạn săn tôm săn cá ; hai cò xanh nhảy quanh hòn đá, chờ nước cạn kiếm cá kiếm tôm. Nầy hởi âm binh ơi……” Đây là lúc thầy pháp Đán đang lên đồng đấy, đầu pháp sư quấn khăn đỏ, mình mặc chiếc áo dài cũng đỏ luôn, tay phải cầm bó nhang bự tổ chảng vừa mới đốt nên khói tỏa mù mịt, tay trái cầm âm binh (hình nộm giống như con búp bê nhựa, làm bằng cặc bần, cho mặc áo đỏ quần xanh) ông múa may quay cuồng rồi tiến gần bệnh nhân, hét hò quát tháo như hạch sách tên họ con ma thằng quỷ nào mà dám cả gan hãm hại gia chủ của ông, ông ra lệnh cho nó phải lập tức xuất ra ngay, rồi ổng dùng bút lông chấm mực tàu vẽ bùa trên giấy quyến, trao cho gia chủ, bảo hãy đốt thành tro rồi hòa vào nước lạnh cho bệnh nhân uống. Có hết bệnh không ? chắc là phải tin vào số mệnh “phước chủ lộc thầy” .
          Mẹ tôi rất ghét cái trò nầy, với vai vế như là bà chị lớn của hai ông đó (Trong gia đình chú Đán phải gọi mẹ tôi bằng mợ nhưng bà chỉ muốn chú ấy xem bà như là bà chị là được rồi) bà thường khuyên hai ông đó hãy bỏ nghề nầy đi, gạt gẫm người ta tổn đức lắm. Nhưng hai ổng biện bạch : “ Thấy thật là tội cho dân quê mình ở cái vùng xa xôi hẻo lánh nầy lắm đó chị Hai, khi nhuốm bịnh thì chỉ biết cạo gió, giác hơi hoặc ra sau vườn hái vài bụm lá bưởi, lá chanh thêm vài tép sả, một nhúm lá tía tô hay rau ngò om gì đó rồi tất cả cho vào nồi, đổ đầy nước, đun sôi lên mang đến người bệnh trùm mền xông hơi. Nếu cần uống thuốc thì đào một củ gừng tươi đem rửa sạch, nướng cháy xén trên lửa hồng, xong cho vào bình trà nóng, đợi gừng và trà tiết ra chất đắng chất  cay thì rót ra cho người bệnh uống, hoặc giả : đâm giã nát một mớ lá thuốc cứu, vắt lấy nước đó cũng là thứ thuốc chữa bệnh cảm mạo thương hàn… song khi bệnh nặng hơn nữa thì sao, chắc phải cần đến pháp sư để họ có một niềm tin, có thêm nghị lực hầu chống chọi lại căn bệnh quái ác mà thôi ”. Nghe hai ổng l‎‎ý luận cũng hay lắm nhưng bà vẫn đâu dễ chịu thua, bèn nghĩ cách nói mĩa : “ Nghị lực thì cũng cần mà sức lực có lẽ cần hơn, nếu hai cậu đừng bưng về nhà con gà giò luộc và dĩa xôi cúng, cứ nhường phần đó cho con bệnh ăn thì chắc con bệnh sẽ sớm hồi phục đó ”. Hai ông ấy biết mình không tài nào nói lại bà chị nầy, thôi thì cười xòa cho yên việc, thật ra trong lòng hai chú luôn thương quí mẹ tôi cũng như mọi người trong gia đình. Cứ cách đôi ba tuần hoặc lâu lắm là một tháng, hai ông nầy và có thêm thằng Đóa nữa đến thăm gia đình tôi và mang theo cả thúng trái cây, hai ba quầy dừa hái từ trong vườn. Hai chú cho biết cây trái cũng đã tàn cỗi nhiều rồi vì thiếu chăm sóc, bởi hai chú quá bận rộn không có nhiều thời giờ để tưới cây hoặc bón phân hoặc giẩy cỏ. Mẹ tôi nghe vậy cũng buồn nhưng biết sao bây giờ, lúc trước sở dĩ nó tốt tươi là nhờ luôn có người bón phân chăm sóc, bây giờ bươi tiền đâu ra mà mướn người làm cái việc đó nữa, thôi thì nhờ hai chú đó làm được bao nhiêu thì làm. Hai chú thường ở lại chơi đôi ba ngày, cái mà hai chú thích nhất ở miệt nầy là cá tôm nhiều vô số kể và rất to lớn nên khi rãnh rang hai chú thường bắt nhái, đào trùng làm mồi cắm câu. Đi chừng nửa ngày thôi, hai chú mang về cả một giỏ cá đầy,  để cho gia đình tôi một mớ, còn lại hai chú mang về nhà ăn. Cũng không quên nói thêm miệt nầy cũng thuộc loại miệt “ Muỗi kêu như là sáo thổi, đĩa lềnh như tựa bánh canh” vì vậy sau cơm chiều chị Lựu thường đóng kín mít các cửa lại, đoạn đốt vỏ dừa để un muỗi nhưng chừng 7, 8 giờ tối, tất cả mọi người phải vào mùng. Chị Bảy của tôi định giăng mùng trên bộ phản gỏ ở nhà trước cho hai chú ngủ nhưng hai chú chẳng chịu mà khoái mỗi người lật một chiếc nóp trên bộ phản nầy cho tiện. Bây giờ chắc tôi phải giải thích ‘Nóp’ là cái gì không thôi bạn đọc người miền bắc, miền trung ngay cả người miền nam nếu ở thành thị chưa một lần về miệt vườn thì cũng chả hề biết chiếc nóp. Nóp là một dạng túi ngủ (Sleeping bag) do người miệt vườn miền tây sáng chế. Họ cắt ra từ tấm đệm (đệm được đan carô bằng cọng cỏ bàng, khác với chiếu được dệt ngang bằng cọng cỏ lát mà người miền bắc gọi là cói) rồi họ may giống như chiếc mũ kalô của quân chủng Không Quân, phần đáy kalô thì có dính thêm một mãnh đệm kích thước thường là 1m x 2m để người ngủ sẽ nằm lên đó cho sạch sẽ. Công dụng của nóp hơn hẵn chiếc sleeping bag của tây phương, vì chiếc túi ngủ của họ chỉ là kết hợp của chăn và nệm nghĩa là cho ta cái ấm và cái êm nhưng khi nằm trong đó phải chìa cái mặt ra ngoài để muỗi đốt chơi, trong khi đó chiếc nóp có thành quách các bên và trên nóc nữa nên muỗi phải chịu thua. Muốn ngủ nóp, đầu tiên trải nó ra rồi nằm lên trên mãnh đệm dưới đáy, xong luồn tay hất phần ‘kalô’ che lên thân thể chúng ta, thế là xong. Người dân quê ngủ nóp nhiều nhất vào mùa thu hoạch, lúa cắt xong cho trâu cộ về sân đập, đêm họ phải có người nhà đến đó ngủ canh chừng kẻo bị kẻ trộm xúc hết lúa đấy. Tới đây, xin kể thêm chuyện vui ngoài lề về chiếc nóp. Thỉnh thoảng người ta thấy một vài ông chủ ghe thương hồ, đêm về cắm sào trên một vàm kinh nào đó, ông vác chiếc nóp leo lên mui ghe nóc bằng gặp lúc gió mát trăng thanh nên cao hứng ông cất giọng hò huê tình “ hò..ới.. ai nghiện bánh pía, ai mết bánh in. Còn tôi, tôi chuộng…chớ tôi, tôi chuộng người bạn tình thỉ chung ới..ờ..” Ối giời, cái ông tàu minh hương nầy lạ thật nghen, ai cũng tưởng ổng chọn 'Tùa chế' (bà chị) để 'chía'(ăn) bánh pía, bánh in ai dè ổng mê cô thôn nữ nào đó rồi…thì thôi ‘Tùa hia’(ông anh) cứ lật nóp trên mui ghe ngủ sớm đi, thế nào trong giấc mơ ‘tùa hia’ sẽ thấy mình được ăn con mắm lóc hấp chín bằng cách để con mắm vào cái tô và đặt trên mặt nồi cơm đang sôi đậy vung lại mà bất cứ cô gái Việt miệt vườn nào cũng biết làm chuyện đó cả …
          Trong hành trình trưởng thành của đứa bé, không rõ từ lúc nào tôi ‎chợt ý‎ thức rằng cần phải có một thằng nhỏ bằng tuổi mình để cùng chạy nhảy vui đùa, chơi banh hay san sẻ chiếc bánh, gói xôi nếu được vậy thì hay biết mấy, ồ thì ngay sau đó thằng Đóa xuất hiện bên tôi và từ đó nó trở thành thằng bạn đầu đời thân thiết nhất của tôi. Tôi nhớ lại những lần nó theo ba nó đến thăm gia đình tôi, nó luôn mang theo chiếc nón vải tai bèo trong đó đựng đầy chùm duột, mận và soài non mà nó dùng cây sào tre móc trái rớt xuống. Khi chiếc ghe tam bản vừa cập bến trước nhà tôi, nó là người ôm chiếc nón phóng lên bờ trước nhất. Nó trao quà đó cho tôi, tôi định rũ nó ra ruộng sau nhà chơi thì bắt gặp chị Lựu đang trừng mắt nhìn hai đứa, chị nghiêm nghị bảo : “Hai nhóc đợi chị nấu cơm xong, phải ăn rồi mới được đi chơi nghe chưa”. Vậy thôi, tôi kéo nó tới tàng cây mù u đầy bóng mát, lấy trái cây ra để hai đứa cùng ăn. Rồi sau bữa cơm, tôi rũ nó đi hớt cá lia thia, khi thì rũ nó đặt lờ bắt những con cá nhỏ như cá rô, cá sặc, lúc thì hai đứa đi nôm trên con kinh rạch cạn nước gần nhà v.v…mãi đến chiều hai đứa mới chịu về nhà, mình mẩy đứa nào cũng dính đầy bùn sình, rong rêu báo hại chị Lựu phải lôi hai thằng ra sàn nước tắm gội sạch sẽ cho hai em, có vậy tối chị mới cho hai đứa ngủ với chị. Sau một hai hôm ở chơi nhà tôi, hai chú Hưng, Đán và nó lại trở về nhà, tôi với nó chia tay thật bịn rịn, nước mắt trào tuông làm chú Đán phải hứa với hai đứa là sẽ đưa nó lên sớm để chơi với tôi, dù vậy cũng phải mất vài ngày tôi mới hết buồn, hết nhớ nó, ôi kỷ niệm thời ấu thơ sao quá đẹp tôi luôn ghi khắc trong lòng.


Image result for Hình ảnh người lính BĐQ
                    (Images)

          Năm 1952, gia đình tôi dọn ra Sóc Trăng sinh sống, rồi tôi bắt đầu học lớp năm tức là lớp đầu tiên của ngày xưa, mãi vài năm sau gia đình chú Đán mới về thành vì vậy mà Đóa học sau tôi 3,4 năm. Năm 1964 tôi đang thi tú tài thì Đóa còn lẹt đẹt ở trung học đệ nhất cấp nên bị gọi quân dịch. Thằng nầy kể ra cũng ngon, sau khi mãn khóa quân trường HSQ Đồng Đế, hắn tình nguyện đi binh chủng BĐQ nên trường nầy gởi nó lên Dục Mỹ học thêm vài tuần nữa về khóa rừng núi sình lầy, tập đi cầu kinh dị, tập đu dây tử thần cho biết với người ta, sau đó nó được gởi về tiểu đoàn ‘Cọp đen hay Cọp ba đầu rằn’ gì đó (tiểu đoàn 44 hay 42 BĐQ). Thời gian nầy 2 tiểu đoàn đang tăng cường cho sư đoàn 21 nên nó cũng  thường xuyên về Sóc Trăng thăm gia đình tôi. Mẹ tôi thương nó lắm, bà thường làm cơm đãi chẳng những nó mà đôi khi còn thêm một vài thằng đệ tử của nó nữa, rồi nó bắt đầu gọi mẹ tôi bằng mẹ giống như tôi từ lúc nào thì tôi không nhớ. Giữa năm 1969 tôi xong khóa huấn luyện ở trường bay Fort Rucker, về nước và phục vụ một phi đoàn ở Cần Thơ. Tình cờ tôi được biết tiểu đoàn nó cũng đang đóng quân ở ngã ba quốc lộ 4 và con lộ tẽ chạy về Rạch Ngỗng, vườn Thầy Cầu. Vậy thì ngày mai tôi được nghỉ dưởng sức tại đơn vị sau hai ngày bay bổng mệt nhọc, tôi sẽ đến đó tìm nó. Không khó khăn chi, chỉ hỏi tên nó thôi là được chỉ dẫn gặp nó trong khu gia binh của tiểu đoàn. Hai đứa ôm chầm lấy nhau, thật mừng rỡ sau 4 hay 5 năm không gặp. Tôi rũ nó xuống chợ Cần Thơ chơi rồi tấp vào “ Vỉnh K‎‎ý ” nhậu một trận thịt rừng cho đã, tôi mê nhất là những đặc sản của nhà hàng nầy như chồn mướp, lươn, rùa, rắn từ Phụng Hiệp chở lên, nhưng nó không chịu đi và đưa ‎‎ý kiến nên nhậu tại gia đở mất thì giờ còn đở tốn tiền nữa. Nó bảo vợ nó ra chợ cầu Tham Tướng gần đó mua rau cải, cá thịt gì đó về làm mồi nhậu để đãi tôi. Thôi thì tôi nên nghe lời nó đi rồi cũng thấy tức cười trong bụng bởi cái tính cần kiệm, hay đề phòng lo xa luôn có trong máu trong huyết quản của người dân hiền hòa miền trung. Trong khi chờ đợi được nhậu, nó pha cho tôi và nó hai tách cà phê đường rồi mang ra luôn cái radio cassette ra rã, nho nhỏ toàn là nhạc lính “Anh lớn khôn rồi, anh ra chiến trường cho mẹ anh vui”. Vui cái mã mẹ ông, bớ cái ông nhạc sĩ vì tiền mà viết lời ca mị dân, mị quân nghe mà phát gớm. Trên đời nầy làm chó gì có bà mẹ có con đi lính mà vui ? Ngược lại mấy bả lo sợ són đái ra quần, chùa nào bà cũng tới cúi lạy gần gãy sống lưng, nhà thờ nào bà cũng đến quỳ miết muốn rã hai cái đầu gối , luôn cầu xin cho con mình được bình an, mạnh khỏe để có ngày trở về với các bà v.v... Mà thôi bỏ chuyện đó đi, mâm nhậu cũng đã  tới rồi, một dĩa thịt bò xắt mỏng xào tiêu tỏi đặt lên trên lớp cải dún Đà Lạt xé nhỏ với cà chua xắt lát và hành tây xắt khoanh trộn đều với dầu giấm, chấm muối tiêu chanh và một dĩa gỏi soài tượng trộn với khô cá sặc nướng, chấm nước mắm tỏi ớt. Rượu hôm nay là bia cồ Quân Tiếp Vụ, ngoài tôi và nó, nó mời thêm hai thằng bạn của nó nữa vị chi là 4 người, không khí bàn nhậu trở nên vui vẻ lạ thường. Cũng nhờ nó qu‎ý mến‎ tôi nên hai thằng bạn của nó có phần nể nang mình lắm, tụi nó cứ gắp mồi nhậu bỏ vào chén tôi rồi cứ cụng ly với tôi đều đều, nhân đó tôi quan sát thấy trên cánh tay trần và cả khuôn mặt của mấy cha nội nầy toàn là những vết sẹo do súng đạn hoặc miễng pháo kích ghim vào, rồi không ai biết trên thân thể mấy ổng còn bao nhiêu vết sẹo như vậy nữa ? Tôi chợt thấy bùi ngùi, se se buồn và rất là mến thương họ vì chiến hữu của chúng ta là như thế đó, rất can trường khi chiến đấu ngoài mặt trận, để chi ? cho dân an, cho gấm hoa giang sơn Tổ Quốc, một khi đã mang vào đầu một lý tưởng cao đẹp như vậy, những thương tích nếu chưa gây tàn phế hay chết chóc thì bọn họ coi như đồ bỏ. Tính đến lúc nầy thì thằng Đóa cũng đã có 5 năm trong quân ngũ, cấp bậc hiện tại là thượng sĩ coi thường vụ cho đại đội nên nó khoe với tôi là ít lội hơn so với lúc trước, vậy cũng mừng cho nó. Bốn năm không gặp, gương mặt nó dày dạn gió sương đi nhiều nên trông già trước tuổi, giống y chang như chú Đán ba của nó. Bổng tôi buộc miệng nói với nó dù không hề suy nghĩ trước : “Ngày một già, mầy giống chú Đán quá. Thấy mầy bổng nhiên tao nhớ đến chú, một con người trung nghĩa nhân hậu và rất hào hiệp luôn muốn giúp đỡ mọi người. Gia đình tao rất biết ơn từ cụ Đôn đến chú Đán, cái nầy là do gia đình tao thường nói đó nghen. Còn tao thì tao vắn tắt nói mầy là tao rất thương mầy, đồ cái thằng thế hệ thứ ba góc Quảng Nam trong dòng người tha phương lập nghiệp”.
                                                                                nguyên quân 225. ( HNPD )

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn