THỦ ĐỨC - 60 NĂM CUỘC ĐỜI - TRẦN VĂN NGÀ

Thứ Năm, 10 Tháng Ba 20227:38 SA(Xem: 2369)
THỦ ĐỨC - 60 NĂM CUỘC ĐỜI - TRẦN VĂN NGÀ

THỦ ĐỨC - 60 NĂM CUỘC ĐỜI 

                                                    Trần Văn Ngà - cựu SVSQ Khóa 13 - Ấp Chiến Lược

 LỜI NÓI ĐẦU                                                                                   

Đến tháng 3 năm nay, những kỷ niệm xa xưa dồn dập trở về trong ký ức của một cựu chiến binh đang đếm thời gian chờ ngày lên đường về phục vụ đơn vị mới – Vùng Năm Chiến Thuật. A person wearing a hat and glasses

Description automatically generated with low confidence

* Những ngày tháng 3.1975, các chiến trường mịt mờ khói lửa, nghiệt ngã tang thương trên quê hương mình ở Ban Mê Thuột,  Quân Khu II – Quân Khu I và cả Quân Khu III,  Quân Khu IV áp lực địch trên các chiến trường tương đối còn nhẹ. Cuộc chiến tranh xâm lược của cộng sản Bắc Việt đang đè nặng ngày đêm trên vai trách nhiệm bảo quốc an dân của các chiến binh anh hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà khắp 4 vùng chiến thuật. Lúc bấy giờ, QLVNCH đang chiến đấu vô cùng anh dũng mà lại đơn độc lẻ loi một mình, đương đầu với cả một tập đoàn cộng sản quốc tế Nga Tàu và các nước cộng sản khác hà hơi tiếp sức cho cộng sản Bắc Việt đánh chiếm Miền Nam Việt Nam. Với các phương tiện chiến tranh hiện đại của cộng sản Bắc Việt áp đảo lực lượng đối kháng trực diện chiến đấu trong hoàn cảnh bị người bạn “vĩ đại” bỏ rơi. Lúc bấy giờ, mọi viện trợ quân sự của Mỹ bị cắt hoặc giảm thiểu các tiếp liệu, vũ khí, đạn dược, xăng dầu và mọi phương tiện chiến đấu khác từ những năm đầu thập niên 70, mà Mỹ gọi là Việt Nam Hoá Chiến Tranh. Mỹ bỏ mặc cho QLVNCH chiến đấu đơn độc thiếu thốn trăm ngàn thứ cần thiết mà là lúc cuộc chiến đang vào thời kỳ khốc liệt nhứt. Đó cũng có thể là hình thức, Mỹ thi hành lời cam kết với Mao Trạch Đông Chu Ân Lai trói tay chân cắt hết mọi viện trợ cho Miền Nam Việt Nam. Từ bối cảnh đó, đưa đến cảnh khốn cùng bi đát cho  QLVNCH, và đất nước chúng ta bị cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm, bức tử ngày 30.4.1975, cả miền Nam Việt  Nam, quân dân cán chính phải bị đưa vào hỏa ngục cộng sản đày đoạ.

** Cũng những ngày tháng 3, năm 2022, với cuộc chiến xâm lược qui mô của một siêu cường quốc nguyên tử Nga tấn công thô bạo vào một nước láng giềng nhỏ bé về dân số, diện tích và phương tiện chiến tranh, có chủ quyền quốc gia. Với một tên cuồng sát, máu lạnh Vladimir Putin – Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân đội Nga vừa độc tài vừa hoang tưởng lại mát dây quyết chiếm cho bằng được Ukraina. Putin tung ra trên 200,000 ngàn quân với đầy đủ phương tiện chiến tranh tối tân, xe tăng, thiết giáp, chiến đấu cơ đời mới, các dàn hoả tiễn hiện đại và cả một Hạm đội chiến hạm hùng hậu ở Hắc Hải. Với một quyết tâm của tên khát máu Putin chỉ muốn tấn công nhanh, chiếm trọn nước Ukraina nhanh trong vòng 48 giờ, dù đàn bà trẻ con và dân thường vô tội Ukraina có chết bao nhiêu cũng không cần biết. Trong hai tuần lễ đầu cuộc chiến, quân Nga đã sử dụng gần cả ngàn hoả tiễn tối tân và hàng đàn phi cơ chiến đấu hiện đại ngày đêm tấn kích “thả bom, oanh kích tự do” các cơ sở, khu dân cư giết hàng ngàn dân thường vô tội kể cả đàn bà trẻ con, nhà bảo sanh, bịnh viện quân Nga cũng không tha. Tên đồ tể Putin giết người không gớm tay nên đã có trên hai triệu người đã phải trốn chạy di tản lánh nạn chiến tranh sang các nước láng giềng của Ukraina. Nga tạo ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng về người tỵ nạn chiến tranh mà Liên Hiệp Quốc ước tính có trên 5 triệu người Ukraina sẽ còn di tản những ngày sắp tới.

Trước khi tấn kích vào Ukraina ngày 24.10.2022, Putin có kế hoạch là đánh chiếm trọn vẹn nước Ukraina chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Nay qua ngày thứ 16 và còn tiếp diễn, đất nước Ukraina mới chỉ mất một thành phố, quân Nga chiếm được với một cái giá sinh mạng phải trả của quân đội Nga quá đắt. Mặc dù quân Nga đã áp đảo quân Ukraina trên mặt đất, trên không, trên biển và bao vây nhiều thành phố kể cả Thủ Đô Kiev của Ukraina mà quân Nga nay còn dặm chân một chỗ vì sức kháng cự chiến đấu quyết liệt anh dũng liều chết của quân dân Ukraina quá kiên cường, bền vững. 

Đây có thể nói, gần giống với bối cảnh chiến cuộc Việt Nam trước năm 1975, quân dân VNCH cũng chiến đấu như vậy mà lại thua cộng sản Bắc Việt, không đương cự lại cộng sản. Tại sao?

Qua hơn hai tuần và chịu thiệt hại vô cùng lớn lao về sự tàn phá của bom đạn Nga san bằng nhiều cao ốc của cư dân, bịnh viện và dinh thự, cầu cống, đường xá...và giết chết hàng chục ngàn người dân vô tội kể cả các cụ già, đàn bà, trẻ con. May mắn cho đất nước Ukraina có một lãnh tụ trẻ, 44 tuổi, Zelenski đã thề chết tại quê hương không xa rời đất nước, cùng sát cánh với các chiến sĩ anh hùng của Ukraina cùng quyết chiến quyết thắng. Và may mắn nữa cho đất nước Ukraina không chiến đấu lẻ loi đơn độc như VNCH năm xưa mà tất các nước trong Liên Âu và Khối Liên Minh Quân Sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng như Hoa Kỳ, Canada, Úc và đa số quốc gia trên thế giới triệt để, nhiệt tình ủng hộ sự chiến đấu chánh nghĩa Ukraina. Sự viện trợ dồi dào đến dư thừa mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhứt và sẵn sàng cứu trợ di dân tỵ nạn chiến tranh của Ukraina đã làm an lòng cho quân dân Ukraina có thừa tinh thần hy sinh chiến đấu cho đến giọt máu cuối cùng. Gần như trên toàn thế giới đều hết lòng tích cực cứu giúp Ukraina, chỉ không có đưa quân trực tiếp tham chiến. Vì vậy, Ukraina có hai cái may mắn là có một lãnh đạo quốc gia trẻ tài giỏi anh hùng dám hy sinh mạng sống để làm gương cho thuộc cấp hy sinh cho Tổ Quốc. Cái may mắn thứ hai vô cùng quan trọng mà quân dân VNCH trong chiến tranh bảo quốc trước năm 1975 như Ukraina lại không có, thiếu sự viện trợ, giúp đở dồi dào về mọi phương tiện chiến tranh, không có đủ vũ khí và đạn dược, máy may, xe tăng, tàu chiến chưa dám nói tàu chiến, máy may tối tân mà Mỹ vẫn không cung ứng như lời hứa với chính phủ VNCH trước ngày ký kết Hiệp định Ba Lê năm 1973.

*** Cũng vào tháng 3 năm nay, tôi lại nhớ đến lúc mới vào Quân Đội, gợi lại trong ký ức tôi những tình cảm và kỷ niệm không bao giờ quên. Mới ngày nào đó, nay tròn 60 năm, từ 15.3.1962 – 15.3.2022, tôi ghi lại những dấu ấn khó quên của một chiến sĩ thời chiến, từ ngày mới vào quân trường cho đến những cuộc hành quân đầu đời. Kết thúc đời lính khi đến ngày mất nước 30.4.1975 và trải qua những năm tháng khốn cùng nghiệt ngã trong các nhà tù cộng sản từ Nam ra Bắc và trở về Nam. 

Hết cơn bỉ cực đến hồi thới lai, khi được sang Hoa Kỳ định cư theo diện HO, tôi mới trút bỏ được cảnh đói nghèo cùng cực trong nhà tù nhỏ hay ra ngoài nhà tù lớn của cả nước. Nay tôi xin ghi lại đôi điều.

Đáp ứng nhu cầu cấp thiết, cần xây dựng nhiều cấp chi huy từ đơn vị nhỏ đến đơn vị lớn trong Quân Đội Quốc Gia vừa được Pháp chính thức trao hết trách nhiệm chiến đấu chống quân cộng sản ngay trên quê hương mình. 

Từ năm 1948, Khóa sĩ quan hiện dịch được đào tạo chính quy đầu tiên là Khóa 1 và sau đó Khóa 2 Đập Đá - Huế. Đến năm 1951 các khóa sĩ quan hiện dịch tiếp theo được dời về Trường Võ Bị Đà Lạt (từ khoá 3 cho đến năm 1975).

Cùng lúc đó, để đáp ứng nhu cầu chiến tranh càng ngày càng leo thang khốc liệt, Lệnh Tổng Động Viên của Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam ban hành và hai Khóa đào tạo sĩ quan trừ bị đầu tiên được mở ra, thụ huấn tại hai địa điểm: Nam Định và Thủ Đức cùng ngày khai giảng 9 tháng 10 năm 1951. Khóa đào tạo sĩ quan trừ bị cuối cùng bị bức tử từ ngày 30 tháng tư năm 1975, từ trường mới ở Long Thành rút về Thủ Đức.

Trong 24 năm, QLVNCH đào tạo sĩ quan trừ bị, trường sĩ quan Thủ Đức có trên 30 cấp Tướng trong tổng số sĩ quan trừ bị lên trên dưới 90 ngàn người. Đặc biệt có khoảng 15 ngàn sĩ quan trừ bị được biệt phái trở lại ngành chuyên môn, đa số ngành giáo dục.

Riêng Khóa 13 Ấp Chiến Lược có trên dưới 2 ngàn sĩ quan trừ bị (kể cả 3 Đại đội sinh viên sĩ quan, hiện dịch, thuộc ngành Bảo An – Địa Phương Quân) được phục vụ dưới màu cờ chính nghĩa quốc gia từ ngày khai giảng 15 tháng 3 năm 1962. Tính đến ngày 15 tháng 3 năm 2022, Khóa 13 Thủ Đức đã có được sáu mươi năm cuộc đời.

Tôi viết lại bài này cũng để tưởng nhớ hai người bạn đồng môn cùng Khoá 13 Thủ Đức với tôi vừa mới qua đời gần đây ở Thành phố San Jose (Miền Bắc California) - Đồng môn Nguyễn Văn Hoà, cựu Quận Trưởng Quận Thủ Đức – Gia Định. Đồng môn Nguyễn Văn Hoà, sanh năm 1937, cũng là HO, đồng nghiệp với tôi về ngành truyền thông báo chí ở hải ngoại. Anh lấy bút hiệu là Du Phong, cộng tác với nhiều nhựt báo và tuần báo, tạp chí tại San Jose và vài nơi khác. 

Gần đây nhứt, anh Lê Đình Khiết, sanh năm 1933, cùng định cư với tôi tại Thủ Phủ Sacramento, California. Đồng môn Lê Đình Khiết thuộc Binh chủng Công Binh và được biệt phái sang cơ quan USAID Hoa Kỳ tại trung ương Sài Gòn và anh di tản sang Mỹ trước ngày 30.4.1975. 

Tôi viết bài này cũng xin tưởng nhớ và cầu nguyện các bạn đồng môn Khoá 13 Ấp Chiến Lược Thủ Đức đã anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc, đã chết trong các trại tù cộng sản và không ít bạn bỏ anh em cùng khóa ra đi sớm ở Việt Nam và hải ngoại, các bạn đã được về nơi chốn Bình Yên Vĩnh Cửu trước, chúng tôi đang xếp hàng một, lần lượt theo sau.

NHỮNG NGÀY ĐẦU NHẬP NGŨ

Từ Trung Tâm 3 Tuyển Mộ Nhập Ngũ - gần Trung tâm Huấn Luyện Quang Trung (Hóc Môn) chuyển đến Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức ngày 23.03.1962, nghĩa là tôi chính thức trình diện theo học Khóa 13 tại Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức sau một tuần Khóa 13 đã tổ chức khai giảng - ngày 15.03.1962, và ngày tốt nghiệp mãn khóa là ngày 28.12.1962 với tên khoá là Khoá Ấp Chiến Lược. 

Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức tọa lạc trên đồi Tăng Nhơn Phú, gần khu Chợ Nhỏ Thủ Đức. Lúc bấy giờ gọi là Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, ngoài trường huấn luyện đào tạo sĩ quan trừ bị Thủ Đức, còn có Trường Thiết Giáp, Trường Tài Chánh, Trường Thể Dục Quân Sự và vài trường khác nữa.

Như mới ngày nào mà bây giờ đã qua 60 năm, thời gian trôi nhanh quá như bóng câu qua cửa.

Đại gia đình Khóa 13 Thủ Đức chúng tôi đã có nhiều năm tổ chức kỷ niệm tại Nam Bắc California và các tiểu bang khác, đánh dấu ngày anh em chúng tôi đã theo tiếng gọi của non sông vác balô vào lò luyện thép của Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.

Đánh dấu 50 năm, chúng tôi có đặc biệt tổ chức ngày đoàn tụ đại gia đình Khóa 13 Thủ Đức với 2 ngày hội ngộ vào mùa hè - 28 & 29.07.2012 - tại miền Nam California. Hai ngày hội ngộ quy tụ được những anh em đồng môn còn khỏe mạnh, thiếu vắng những anh em đã hy sinh vì Tổ Quốc hay những anh em đồng môn đã phơi xác trong các nhà tù khổ sai nghiệt ngã của CSBV hay chết mất xác trên đường vượt biên, vượt biển tìm tự do và chết bệnh tại hải ngoại. Nhiều anh em đồng môn là thương phế binh hay những cựu SVSQ Khóa 13 còn kẹt ở lại Việt Nam rất đáng quan tâm giúp đỡ. 

Đại gia đình Khóa 13 nhân dịp này điểm danh lại coi ai còn ai mất sau 50 năm mỗi người mỗi hoàn cảnh và rồi chúng tôi sẽ cùng nhau đến điểm hẹn cuối cùng - cuộc sum họp mới tại một vùng xa xăm trong một thế giới thanh bình vĩnh cửu...không còn xa nữa.

NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN

Kỷ niệm của Khóa 13 với tên khóa rất đặc biệt nhiều ấn tượng là Khóa Ấp Chiến Lược, chính do Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm đặt tên cho khóa cùng với Khóa 16 Trường Võ Bị Quốc Gia - Đà Lạt và Khóa 3 (hay 4?) Đặc Biệt học ở Trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang, cùng tốt nghiệp tháng 12 năm 1962. Tổng Thống Ngô Đình Diệm hay đại diện đến chủ tọa và tuyên đọc tên Khóa Ấp Chiến Lược. Thời điểm đó đánh dấu sự góp sức của một cao trào chống cộng hữu hiệu nhứt là nhờ có Quốc Sách Ấp Chiến Lược của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hoà. Y9BTWHprLICU9HxAYIDLArRu_lM902rJyTd9F38jxkVM4PpKQ632PxzZLturpC9VmR3sjfzP2EJQ6Y6er3_F7xWK_Oxb6kbI8chFVWkPM3kKH4GObKbxwoazCXs-O6tqPf8OqQUe

Đó là kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời binh nghiệp của tôi và kéo dài cho đến ngày nay.

Đã trải qua 60 năm cuộc đời của đại gia đình khóa 13, kẻ còn người mất đang sống với tuổi đời chồng chất từ U 80-90 và 100 mà ngậm ngùi than thân như tiên sinh Đặng Dung:

Quốc thù vị phục đầu tiên bạch,

Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.

Thù nước chưa trả đầu bạc trước, bao phen kiếm báu dưới trăng mài. Nay chúng tôi, những cựu sinh viên sĩ quan Khóa 13 - Khóa Ấp Chiến Lược, người trẻ nhất cũng bước vào lộ đồ bát thập cổ lai hy. Quỹ thời gian tồn tại trên thế gian quả còn quá mỏng, quá ít. Sự nghiệp bảo quốc an dân trong con đường binh nghiệp đã dở dang cũng như là bắt đầu chấm dứt từ mốc lịch sử ngày chính thể Việt Nam Cộng Hòa hoàn toàn bị bức tử sụp đổ bằng sự xâm lăng cưỡng chiếm toàn lãnh thổ Miền Nam Việt Nam của quân cộng sản Bắc Việt. Đó là ngày Quốc Hận 30 tháng tư năm 1975. 

Với bao năm tháng bị đày đọa trong các trại tù khổ sai của cộng sản Bắc Việt, những người chiến sĩ oai hùng năm xưa đó, may mắn còn sống sót và may mắn được đến đất nước Hoa Kỳ hay các nuớc dân chủ tự do khác, diện tỵ nạn cộng sản. Và làm lại cuộc đời từ đầu bằng con số không và nay tuổi già sức yếu cũng đang lần lượt xếp hàng trình diện đơn vị mới Vùng V Chiến Thuật. 

Kỷ niệm xưa, Khóa 13 - Ấp Chiến Lược đối với tôi là sự kiện thiêng liêng không bao giờ tôi quên được dù năm nay tôi đã vào tuổi 87 với nhiều bịnh tật gặm nhắm thân xác, đã và đang đánh dấu sự tàn lụi của một đời người trên thế gian.

Khóa 13 có nhiều cái đáng ghi nhớ, có thể là khóa sĩ quan trừ bị quy tụ toàn thanh niên thi hành lệnh tổng động viên sau khi có Hiệp Đình Geneve 1954 chia đôi đất nước từ vĩ tuyến 17. Khóa 13 có đông sinh viên sĩ quan nhất từ ngày thành lập 9 tháng 10 năm 1951 cho đến lúc bấy giờ, có 12 đại đội chủ lực quân (1 đại đội, theo cấp số, nếu tôi nhớ không lầm, có trên dưới 164 SVSQ) quy tụ toàn những người đến tuổi tổng động viên không có SVSQ dự thi tuyển như các khóa trước và có 3 đại đội sinh viên sĩ quan Bảo An, tổng số cả Khóa 13 có trên dưới 2 ngàn thanh niên theo thụ huấn.

LỜI THỀ SẮC SON

Với khẩu hiệu Thao Trường Đổ Môi - Chiến Trường Bớt Đổ Máu làm cho những thanh niên bạch diện thư sinh hay những nhà giáo, công chức, sinh viên biết thế nào là huấn nhục, thực hành tác xạ nhiều loại vũ khí, học chiến thuật, địa hình, di hành, trực chiến, cấm trại hay những cuộc hành quân thực tập dã chiến, hành quân ban đêm, hành quân vượt sông... Đủ trăm thứ khổ nhọc đổ môì để khi tốt nghiệp được bổ nhậm về các đơn vị, tiết kiệm được xương máu của bản thân và các chiến sĩ dưới quyền. Chúng tôi cố gắng chịu đựng những ngày gian khổ đó để mong cho tương lai được an vui với gia đình và đất nước được thanh bình. 

Đất nước Việt Nam mến yêu chúng ta đã phục vụ, qua lời thề trong buổi Lễ Tốt Nghiệp năm xưa, quỳ gối tại vũ đình trường, long trọng: Tôi thề sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ Tổ quốc và Đồng Bào suốt đời tôi. Lời thề đó luôn còn vang đọng trong tâm hồn cho mãi tới ngày nay, chúng tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ "Bảo Vệ Tổ Quốc và Đồng Bào" từ ngày Quốc Hận 30 tháng tư năm 1975. Đó là dấu ấn sâu đậm của người lính chiến QLVNCH đối với vận mạng an nguy, nổi trôi của đất nước.

Với 13 năm trong quân ngũ tính đến 30.04.1975, các sĩ quan tốt nghiệp Khóa 13 Thủ Đức được Quân Đội tung ra chiến đấu trên mọi lãnh vực khắp 4 Vùng Chiến Thuật, từ các đơn vị yễm trợ đến các đơn vị trực chiến tại mặt trận góp phần chung sức với mọi chiến sĩ QLVNCH làm khiếp đảm quân thù cộng sản. Nhưng, kết cục Quân Lực chúng ta bị bức tử vì người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã phản bội bán đứng Việt Nam Cộng Hòa cho kẻ thù Tàu cộng, cộng sản Bắc Việt và cộng sản quốc tế. Thế là chúng ta đành buông súng rả ngũ, đến nay, 15.03.2022, gần đúng 47 năm. 

Dù hết chiến tranh, đại đa số đồng bào trong nước và cựu chiến sĩ QLVNCH vẫn còn sống trong tăm tối, nghèo khổ triền miên, ngoại trừ mấy triệu đảng viên CS và đám lãnh đạo từ cấp xã, huyện, tỉnh đến trung ương đã trở thành những tên tư bản đỏ giàu sụ sống trên xương máu đồng bào. Hơn thế nữa, mọi quyền dân chủ, tự do cho mọi công dân và nhân quyền cũng như tự do tôn giáo luôn bị chế độ cộng sản toàn trị chà đạp thô bạo.

Cái ấn tượng kế tiếp của Khóa 13 Thủ Đức có thể nói là khóa học có ngày thụ huấn chính thức hơn 10 tháng mà có nhiều khóa trước kia, có khóa chỉ được huấn nhục quân sự vỏn vẹn 6 tháng.

Cùng có mặt trong Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức năm 1962, Khóa 12 đàn anh quy tụ đến 3 thành phần SVSQ gồm có khoảng 300 - 400 SVSQ là những trí thức tương đối lớn tuổi nhất của cả khóa được gọi nhập ngũ sau khi Tổng Thống VNCH Ngô Đình Diệm vừa ký Sắc Lệnh ban hành lệnh tổng động viên năm 1961. 

Lý do có Sắc Lệnh hay là Luật Tổng Động Viên ra đời trong bối cảnh hết sức đặc biệt, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu quân sự đòi hỏi để có đủ quân số và cán bộ căn bản chỉ huy nòng cốt bảo vệ đất nước. Từ đó, quân dân cán chính thời Đệ Nhất Cộng Hòa cùng đoàn kết đương đầu chống trả hữu hiệu với bộ máy chiến tranh của CSBV đã tiến hành trên lãnh thổ VNCH qua cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được cộng sản Bắc Việt hà hơi tiếp sức, nặn ra cái quái thai đó, chính thức thành lập từ tháng 12 năm 1960. 

Còn các SVSQ dạng thứ 2 là các thanh niên tham dự cuộc thi tuyển vào học khóa 12, cũng là khóa có SVSQ thuộc đợt thi cuối cùng để vào trường Thủ Đức, đối với chủ lực quân. Còn thành phần thứ 3 là ngành Bảo An sau này gọi là Địa Phương Quân vẫn phải dự thi tuyển riêng của ngành vào khóa 12 và vài khóa tiếp sau nữa.

Khóa 13 chúng tôi là khóa tổng động viên đúng nghĩa, không có thanh niên tình nguyện nhập ngũ qua dự thi tuyển, ngoại trừ 3 đại đội của ngành Bảo An. Khóa 13 có nhiều giáo chức theo học nhất từ giáo viên tiểu học, đến giáo sư trung học và đại học.

Vào học được trên dưới 2 tháng, Chỉ Huy Trưởng là Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, tốt nghiệp Thủ Khoa Khóa 2 Trường Võ Khoa Đập Đá - Huế, ông Tướng bị chết bất đắc kỳ tử mà có tin đồn là ông Tướng chết vì bệnh “cỡi ngựa gió”.

Khóa Đập Đá đầu tiên có nhiều sĩ quan ra trường sau này trở thành những cấp lãnh đạo quốc gia hay những cấp chỉ huy quân sự cao cấp lỗi lạc như Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Trung Tướng Đặng Văn Quang...và Trung Tướng Nguyễn Hữu Có tốt nghiệp Thủ Khoa Đập Đá đầu tiên.

Về thay thế Thiếu Tướng Hồ Văn Tố, là Đại Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ, Chỉ Huy Phó Liên Trường Trung Tá Vĩnh Lộc, sau này là Trung Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn II & Vùng II Chiến Thuật, Chỉ Huy Trưởng Trường Cao Đẳng Quốc Phòng và là Tổng Tham Mưu Trưởng cuối cùng vào giờ thứ 25 của ngày định mệnh mất nước vào tay cộng sản BV xâm lược 30.04.1975.

Đại Tá Lam Sơn Phan Đình Thứ vì không tham gia trực tiếp sớm vào cuộc đảo chánh 

1.11.1963 lật đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa nên con đường binh nghiệp của Đại Tá Lam Sơn 

sau này cũng ba chìm bảy nổi và rốt cuộc ông cũng lên được cấp Tướng 1 sao và bị giải ngũ một thời gian sau đó. Sau khi miền Nam bị CSBV cưỡng chiếm, ông Tướng Lam Sơn cũng bị đi tù cải tạo mặc dù ông đã giải ngũ trước 30.04.1975 và ông Tướng đã qua đời cách đây cũng khá lâu tại Việt Nam. Tướng hùng Lam Sơn tạo dấu ấn tốt đẹp trong lòng mọi chiến sĩ các cấp từ khi còn cấp úy, cấp tá, đặc biệt khi ông là Chỉ Huy Trưởng Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức. Lúc bấy giờ Thiếu Tá Đồng Văn Khuyên là Giám Đốc Quân Huấn hay chức vụ tương đương. Thiếu Tá Đồng Văn Khuyên, sớm nghe lời kêu gọi của quân đảo chánh 1.11.1963, ông trực tiếp tham gia, điều động các chiến sĩ cơ hữu dưới quyền định đưa về Sài Gòn tham gia đảo chánh bị Đại Tá Lam Sơn ngăn chặn. Thiếu Tá Đồng Văn Khuyên thoát thân về trình diện Bộ Tổng Tham Mưu và sau 1.11.1963, cuộc đảo chánh thành công, ông lên Trung Tá, rồi Đại Tá, lên Tướng 1, 2 và 3 sao trong một thời gian rất ngắn. Trung Tướng Đồng Văn Khuyên từng giữ những chức quan trọng như Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận, Tham Mưu Trưởng Liên Quân...

CƯ AN TƯ NGUY CÓ Ý NGHĨA GÌ?

Đại Tá tân Chỉ Huy Trưởng Lam Sơn, một cấp chỉ huy rất ngầu, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, gương mặt ông rất có thần, có uy khi nói chuyện hay ra lệnh cho cấp dưới thi hành công tác mà ông giao phó, mọi người đều kính sợ. 

Nhiều tin đồn đại, Đại Tá Lam Sơn từng tát tai một tên Cố Vấn Mỹ khi ông này kiểm soát súng của một binh sĩ (tại một trung tâm huấn luyện của các chiến sĩ Dù?), lấy ngón tay quẹt vào cơ bẩm súng dơ và quệt lên mặt anh binh sĩ này (hay quẹt lên áo của Đại Tá Lam Sơn?) làm cho Đại Tá Lam Sơn nổi sùng nên có thái độ mạnh đối với tên cố vấn chỉ muốn "giựt le", xem thường các chiến sĩ QLVNCH.

Khi Đại Tá Lam Sơn về Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức, sau vài tuần, ông tung ra châm ngôn Cư An Tư Nguy - cô động trich từ Hệ Từ Hạ của Đức Khổng Phu Tử - được ghi lên phù hiệu của Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức đầu tiên giai đoạn I của Khóa 13 và giai đoạn II của Khóa 12, năm 1962. Hai khóa 12 và khóa 13 chúng tôi được học tập và cán bộ giải thích ý nghĩa rõ ràng để chúng tôi từ đó hiểu ý nghĩa thâm thúy của câu châm ngôn bất hủ này – Cư An Tư Nguy.

Cư An Tư Nguy có ý nghĩa là sống yên vui phải nghĩ đến lúc khó khăn, nguy khốn. Câu châm ngôn này còn có nghĩa là muốn có hòa bình thì phải chuẩn bị chiến tranh, cùng với ý nghĩa với câu chữ La Tinh: Si Vis Pacem Para Bellum.

Nhiều huyền thoại được đồn đại về Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Lam Sơn, ông từng tham gia vào quân đội Pháp Tự Do chống quân phát xít Đức tại các chiến trường ở Âu Châu, Bắc Phi và ngay ở chiến trường Viễn Đông, từ cấp Hạ Sĩ Quan thời Đệ nhị thế chiến (1939- 1945). Khi Quân Đội Quốc Gia Việt Nam mới chính thức thành lập, Lam Sơn Phan Đình Thứ đã là sĩ quan Quân đội Pháp, được điều chuyển sang Quân Đội Quốc Gia, một trong những sĩ quan đầu tiên được phục vụ dưới lá Cờ Vàng Ba Sọc, biểu tượng của hồn thiêng sông núi Việt Nam.

LỄ DIỄN BINH QUỐC KHÁNH 26.10 CUỐI CÙNG

Khóa 13 còn có một vinh dự in sâu vào tâm trí của tất cả SVSQ khóa 13 và khóa 14, chúng tôi được tham dự buổi lễ diễn binh vô cùng trọng thể Ngày Quốc Khánh 26.10.1962, cũng là Ngày Quốc Khánh cuối cùng của nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Ấn tượng mà cá nhân tôi luôn nhớ mãi cho tới bây giờ, cả 2 khóa 13 và 14 - khóa 13 giai đoàn II, khóa 14 giai đọan I, chúng tôi tập thao diễn luôn mấy tháng, ngoài giờ đi học chiến thuật ở bãi tập hay tại trường bắn, hoặc lên lớp học lý thuyết về Quốc Sách Ấp Chiến Lược...

Tôi được tuyển chọn vào toán hầu kỳ của Khóa 13 và tôi cảm thấy rất vui và phấn khởi dù tập luyện rất vất vả, cực nhọc vì tôi được đứng hàng đầu thủ kỳ sẽ có cơ may được nhìn gần rõ ràng thấy gương mặt thần tượng Nguyên Thủ Quốc Gia Ngô Đình Diệm. Lúc bấy giờ tôi luôn mang kiếng cận thị mà các cán bộ bảo tôi hãy cất kiếng khi đi diễn hành. Thú thật tôi phải tập bỏ kiếng để nhìn thấy vật thể trước mặt, tương đối, mắt cũng quen dần dù không được rõ ràng bằng mang kiếng cận thị. May mắn cho tôi được thủ kỳ đứng đầu đội hình nên có cơ may thấy rõ Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng là điều mong ước của tôi. Khi chiếc xe jeep mui trần, bên phải tài xế là Tổng Thống Ngô Đình Diệm - Tổng Tư Lệnh Quân Đội đứng thẳng người 2 tay vịn trên thành kiếng trước, đứng phía sau có Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham Mưu Trưởng và một vị Tướng Chỉ Huy Trưởng Buổi Lễ. Chiếc xe Tổng Thống sắp tới đơn vị chào kính có tôi thủ kỳ. Trong thâm tâm, tôi chuẩn bị trước, mắt sẽ mở thật to nhìn cho thật kỹ lần đầu tiên được nhìn tận mặt vị Tổng Thống Tổng Tư Lệnh Quân Đội mà tôi vô cùng kính trọng. Xe lần lần lăn bánh từ 25 mét, 15 mét, 10 mét, 5 mét, mắt tôi tự nhiên chớp khép lại, nên rất tiếc, tôi chỉ mới thấy thoáng qua nhanh gương mặt của Ngô Tổng Thống. Khi Tổng Thống đi ngang trước mặt tôi, cách chừng hơn 2 mét, rất gần là lúc tôi sẽ thấy Ngài rõ nhất, nhưng tôi chỉ thấy lưng, bộ com lê trắng của Ngài và thấy phía sau của chiếc xe Jeep. Tôi tự trách mình và tiếc ngẩn ngơ, ngàn năm một thuở, mới có cơ may, rất gần Ngài để chiêm ngưỡng. 

Chúng ta hiểu rằng, những bâc thiên tử, đế vương hay Tổng Thống, Thủ Tướng hoặc những vị chỉ huy trực tiếp đều có cái uy lực, thần sắc làm cho chúng ta kính sợ, không dám nhìn thẳng mặt hoặc nhìn lâu?

QUỐC SÁCH ẤP CHIẾN LƯỢC

Cái mà chúng tôi, SVSQ khóa 13, nhớ sâu sắc nữa là chúng tôi vừa học quân sự vừa học lý thuyết về Quốc Sách Ấp Chiến Lược rất căng. Từ trung ương, bộ sậu lý thuyết gia về triết lý nhân vị hay Quốc Sách Ấp Chiến Lược với những cấp lãnh đạo cao cấp như ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Tổng Trưởng Văn Hóa Trương Công Cừu, Bác sĩ Mật Vụ Trần Kim Tuyến, ông Tổng Trưởng Công Dân Vụ Ngô Trọng Hiếu và nhiều học giả, cán bộ cao cấp của cấp nhà nước đến thuyết giảng. Chúng tôi có bổn phận theo dõi ghi chép cẩn thận để còn có thi sát hạch chấm điểm, nhà trường cộng với các điểm khác tính điểm thứ hạng khi ra trường để mình tự chọn đơn vị (?). Đậu điểm hạng cao, chọn được chỗ mình vừa ý nhất hoặc có chữ thọ lớn... Khóa 13 Thủ Đức cũng như khóa 16 Đà Lạt và khóa 3 Nha Trang là những khóa được đào tạo đầu tiên, chính quy nhất về Quốc Sách Ấp Chiến Lược để sau khi tốt nghiệp ra trường (theo tin đồn) được tung về xã ấp làm Trưởng Ấp Chiến Lược hoặc là Xã Trưởng hay những chức vụ nòng cốt ở nông thôn để vừa có văn có võ song toàn, vừa am tường về sách lược đấu tranh chính trị và sự ích lợi của Quốc Sách Ấp Chiến Lược nhằm bẻ gãy mọi mưu toan khuynh đảo lòng dân của các cán bộ cộng sản nằm vùng hay từ miền Bắc xâm nhập. Nhưng, dù được đặt tên là Khóa Ấp Chiến Lược mà chúng tôi khi tốt nghiệp ra trường đều được chọn lựa những đơn vị tác chiến hoặc những đơn vị yễm trợ hay tình nguyện đầu quân vào các đơn vị thiện chiến như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân hay Lực Lượng Đặc Biệt... không có sĩ quan nào được bổ nhiệm làm Trưởng Ấp hay Xã Trưởng như tin đồn.

Thấm thoát đã 60 năm trôi qua với dòng lịch sử dân tộc trải qua những giai đoạn chiến tranh khốc liệt, những giai đoạn trầm luân đau khổ khi cộng sản BV đã cưỡng chiếm hoàn toàn nước VNCH từ tháng tư đen năm 1975. Nay, chúng tôi còn được sống trên đất nước Hoa Kỳ, một đất nước tuyệt vời về lòng nhân đạo, sự bao dung và là cái nôi tự do dân chủ, cũng là nước giàu mạnh nhất thế giới, đó là ân huệ sau cùng của cuộc đời.

Hàng triệu quân cán chính của chính thể VNCH có đầy đủ chính nghĩa mà lại bị những kẻ gian manh xảo trá cộng sản bắt giam cầm tù đày ải những nơi rừng thiêng nước độc, bao nhiêu người đã chết tức tưởi hay bị bệnh tật di lụy cho đến ngày nay. Chế độ cộng sản còn đày đoạ xua đuổi biết bao gia đình quân dân cán chính đi đến những vùng kinh tế mới đìu hiu nghèo nàn lạc hậu, cơm không có đủ ăn, quần áo không có đủ mặc. Mọi nhu cầu cho đời sống của con người trở lại thời kỳ đồ đá như cộng sản thường so sánh ví von, chúng muốn đày ải mọi ngưởi từng sống trong chế độ tự do sung túc VNCH phải chết lần chết mòn vì bệnh tất đói rét...

Khóa 13 của chúng tôi còn cái đáng nhớ nữa. Thời điểm Hoa Kỳ đấy mạnh viện trợ súng đạn, phương tiện chiến tranh tân tiến để giúp Quân Đội Việt Nam có thêm phương tiện bảo vệ bờ cõi, đất nước. Chúng tôi được thực tập chiến thuật tùng thiết ngồi trên những chiếc thiết vận xa M113 mới cáu cạnh vượt sông. Thời điểm này cũng là thời điểm mới bắt đầu dạy chúng tôi cách xuống lên phi cơ trực thăng khi các phi cơ này đổ quân vào mặt trận... Những chiếc phi cơ trực thăng đầu tiên Hoa Kỳ viện trợ cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam là những loại trực thăng từng sử dụng ở chiến trường Triều Tiên vừa chấm dứt, được chuyển cho Việt Nam mà lúc bấy giờ chưa huấn luyện kịp phi công Việt Nam để lái những trực thăng cồng kềnh và chậm chạp đó, có tên gọi là H21. Hình chiếc trực thăng như trái chuối già, hai đầu và đuôi nhô cao hơn, ở giữa lõm xuống. 

Một kỷ niệm nhớ đời, khoảng tháng 4 năm 1963. Trên chiếc trực thăng H21 có khoảng 8 chiến sĩ Việt Nam và 2 phi công Mỹ. Chúng tôi là những chiến binh của Trung Đoàn 33 BB từ căn cứ hành quân ở ven rừng U Minh Hạ - có tên gọi là Chà Là, trực thăng đưa chúng tôi ra Thị xã Cà Mau. Trực thăng sắp sửa vào phi trường Cà Mau, chúng tôi nghe tiếng bạch bạch và tiếng răng rắc càng lớn dần, phi công vội cho máy bay đáp khẩn cấp giữa ruộng, may quá, chỗ đáp cũng gần bến xe mới có quán cơm của bà Sáu Mập - một quán cơm với những món ăn đồng quê ngon số một của Thị xã Cà Mau. Chúng tôi được lệnh thoát thân khi máy bay vừa đáp an toàn xuống thửa đất vừa cày xong, chiếc trực thăng H21 bị gãy làm đôi. Cả 10 người đều bình an vô sự chỉ có hoảng vía khi trái chuối già này ì ạch nặng nề đáp đại xuống chạm đất cày tưng lên nghe một cái bựt.

Lúc ấy khoảng 12 trưa, cũng là giờ ăn trưa nên bụng cũng đói, chúng tôi lội bộ vào quán cơm Bà Sáu Mập làm cho một bụng "phỉ tình nước non", trong khi vừa ngồi ăn vừa chờ đợi xe hậu trạm của Trung Đoàn biết máy bay gặp nạn, do Cố vấn Mỹ báo, và được an toàn đang "tạm trú" trong quán cơm của Bà Sáu Mập.

Nói đến khóa 13 Thủ Đức mà thiên hạ sợ số 13 xui, nhưng thú thiệt, tôi đi đến đâu gặp con số 13 đều là con số lắc ky trong suốt cuộc binh nghiệp của tôi.

Nhân ngày Đại Hội của Liên Hội Cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức, diễn ra tại New Orleans, Louisiana 3 ngày 13, 14 và 15.04.2012, tôi viết vội những kỷ niệm đầu đời binh nghiệp của cá nhân tôi - Khóa 13 Ấp Chiến Lược để các bạn đồng môn các khóa khác biết qua một chút lịch sử và bối cảnh Khóa 13 năm 1962. Nay tôi viết lại.hhTR7FiS4Vu2diduWfRLf6bN-UxGIcx_oUsCtrD7rP7xCLUvvsOfW1qxGuTcjz2B73-UP8rs4E7_2UaHqMpsisNdtyb7thug7NIuW6UdvOYXphY5yWmsQpWrVqN1rm-wfyrRE6IX

(H: một số các bạn Khoá 13 và bà xã chụp hình kỷ niệm năm 2012)

Sacramento, 15.03.2022 - Trần Văn Ngà - Cựu SVSQ Khóa 13 - Ấp Chiến Lược@
Ý kiến bạn đọc
Thứ Năm, 10 Tháng Ba 20224:06 CH
Khách
Ukraine khong the nhu mien nam VNCH de Viet Cong vao chiem ma khong danh lai ,sau gan 10 ngay danh ukraine so sung Dan do vao hoi nhieu nen co phan hao hut nhieu nhan co hoi nay Ukraine Duoc quoc te tiep te Dan Duoc doi dao nen phan cong that Manh ngay dem,dung du-kich chien,bom min gai day Dac vao nhung noi Quan Nga di la co ket qua kha Quan hon .
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn