17/2/1979 - Bài học mà những người Cộng Sản dạy cho nhau.- Mai Tú Ân

Thứ Bảy, 17 Tháng Hai 20187:47 SA(Xem: 5490)
17/2/1979 - Bài học mà những người Cộng Sản dạy cho nhau.- Mai Tú Ân
1636542766372635196Ngày 17Thang 2-biengioi
 
( HNPD ) Sau khi thống nhất đất nước 1975 thì Ban Lãnh Đạo của Việt Nam đã như đi trên mây trên gió. Được sự khuyến khích hào phóng của các đàn anh thì mặc dù quốc gia đang đói ăn từng bữa nhưng vũ khí trang thiết bị chiến tranh thì lại thừa thãi và hiện đại vô cùng. 
Cùng với suy nghĩ rằng hành động bạo lực xâm lược các quốc gia yếu đuối để mở rộng khối CS như Liên Xô đang làm với Apganistand thì việc Việt Nam cần lấy điểm, lấy thành tích với anh lớn Liên Xô. Và thế là việc ông bạn láng giềng Camphuchia Dân Chủ, đàn em của Trung Cộng đang gây rối nơi biên giới sẽ trở thành một cái thủ cấp cần có để Việt Nam dâng tặng và báo điểm cho đàn anh Liêm Xô của mình. Thời của nước Camphuchia dân chủ cộng sản cùng số phận đen đủi của Pôn Pốt đã điểm. Lại là một quốc gia CS đàn em của CS TQ nên khi có xích mích thì CS Camphuchia phải chết. 
 
Và chết thảm vì chính là các quốc gia CS với nhau mà họ mới đánh nhau tàn bạo như những phường thảo khấu lục lâm như vậy. Nếu thực sự là những quốc gia dân chủ thì sẽ có nhiều sự ngăn cản để không dẫn đến chiến tranh. Hoặc nếu có chiến tranh thì hẳn nó sẽ nhẹ nhàng hơn bởi dù gì thì cũng chỉ là dạy bảo nhau. Nhưng đây là sự trừng phạt của những người Cộng Sản nên sẽ có hết những đòn tận diệt, sẽ có hết mọi sự giết người tàn bạo, sự trả thù ghê gớm nhất.
 
Nhưng đáng lẽ cuộc chiến tàn bạo ngày 17/2/1979 cùng 10 năm chiến tranh sau đó giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể không xảy ra. Hàng vạn nam thanh nữ tú của chúng ta, những chàng trai cô gái trong lòng vẫn còn rộn ràng yêu đương thuở mới lớn có thể đã không phải bỏ mạng oan uổng như họ đã từng bỏ xuống ở biên giới nếu như chúng ta có được những người lãnh đạo nhân văn hơn, yêu quí mạng sống của người dân hơn. Nhưng lấy đâu ra những phẩm chất ấy trong những người lãnh đạo CS VN lúc đó. Những người lãnh đạo như như TBT Lê Duẩn đã nói :”Chúng ta chiến đấu cho Liên Xô….” Nhưng chúng ta đã không có những nhà lãnh đạo tốt hơn,  thương dân hơn mà chỉ có những ông lãnh tụ, tướng tá mặt sắt đen sì, coi chiến tranh như dịp may để hoạn lộ đi lên, coi việc ngã xuống của bao người lính là những món quà chết chóc của tình hữu nghị đồng chí.  Và thế là chiến cuộc đã xảy ra...
 
Cùng với sự giải mã ở nhiều luồng, cùng với thời gian lần trôi, thì sự thật của những ngày tháng ấy mới dần sáng tỏ. Ở thượng tầng kiến trúc, nơi các lãnh tụ CS vạch kế hoạch thì toàn những âm mưu đen tối bẩn thỉu, những kế sách hành binh lạnh lùng trước bao mạng người. Còn nơi chiến trường ác nghiệt thì mọi biện pháp giết người khủng khiếp nhất đều được tung ra với những người vốn là đồng chí, là anh em trên tinh thần vô sản. Giết chóc, hãm hiếp, chôn sống, dùng mìn giật sập giết cả dân thường…Không biện pháp nào dù tàn bạo tới đâu mà các phe phái không làm. Và thật khủng khiếp khi đó mới chỉ là sự dạy và học giữa các quốc gia Cộng Sản với nhau.
 
Trở lại với cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, nhìn qua bản đồ diễn tiến trận đánh tròn một tháng 2/1979 ta thấy rõ ràng đây không phải là một cuộc chiến tranh với mục đích tối hậu là xâm chiếm đất đai, lãnh thổ. Với lực lượng quân sự hoàn toàn áp đảo cùng với sự cung ứng đầy đủ của phần đất nhà mà quân Trung Quốc có được thì họ hoàn toàn thảnh thơi cho công việc chiến sự.  Bởi lẽ phần hậu phương với phần tiền tuyến của kẻ thù chỉ vỏn vẹn hơn 100 km theo đường chim bay. Và thủ đô của Việt Nam cũng nằm trong mức ấy và với lực lượng quân sự hai bên như thế thì Trung Cộng có thể kéo chiến sự về tới Hà Nội nếu họ muốn. 
 
Các lực lượng khác của Trung Cộng như Hải Quân, Không Quân cũng không tham gia để chứng tỏ vai trò đàn anh của mình, cũng như cho Hà Nội thấy đây chỉ là đòn trừng phạt không hơn không kém. Nó cũng cho thấy, đàn anh Trung Cộng ra đòn trừng phạt thằng em mất dạy Việt Nam là có kiểm soát, tăng giảm hay lên xuống tùy theo mức độ biết điều của đối tượng. Nhẹ nhàng thì chỉ là những đòn tấn công dọc biên giới, ăn sâu vào vài cây số. Còn ương bướng nặng nề thì là những cuộc tấn công vào sâu hơn trong lãnh thổ, nơi có các thị xã quan trọng của Việt Nam. Tóm lại thì Trung Cộng đã rất rõ ràng khi ra roi, và cái bàn tọa của thằng em Việt Nam sẽ lãnh đủ nhiều hay ít roi tùy theo thái độ biết điều hay không.
 
Qua những lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình khi đi thăm Mỹ cùng thời điểm thì đây chỉ là một cuộc chiến có mục đích dạy bảo nhau, có giới hạn thời gian là 1 tháng, có giới hạn không gian là tuyệt đối không đưa chiến tranh đến Hà Nội cũng như không tàn phá các công trình không ở chiến trường, ý nói Trung Cộng sẽ không dùng không quân hay tên lửa. Vậy mà Việt Nam lại choáng váng và bất ngờ hoàn toàn. Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đầu thì ngạo mạn tin tưởng rằng không bao giờ Trung Quốc động binh đánh Việt Nam. Rồi khi Trung Quốc động binh, tấn công Việt Nam thì lại hoảng hốt cho rằng Trung Quốc muốn xâm lược chứ không phải chỉ dạy bảo khiến cho công cuộc phòng thủ trở nên bất nhất tai hại. Sự hoảng hốt bao trùm với những động thái tuyệt vọng như Tổng Động Viên, tổ chức di vào miền Nam và miền Trung, cất giấu đi những sư đoàn tốt nhất không đưa ra trận mà giữ lại làm lực lượng trù bị. Khiến cho chỉ có một điều sáng đẹp duy nhất trong trận chiến Biên Giới Phía Bắc này là tinh thần anh dũng vô song, chiến đấu tới chết của các lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa phương.Không có viện binh, cũng không có lệnh rút, các đơn vị nửa vũ trang này đã phải chiến đấu tuyệt vọng với các lực lượng áp đảo và bị tiêu diệt hết trong những cái hang cố thủ cuối cùng.
 
Một tháng chiến tranh, ngó lên phía Bắc thì ông anh Liên Xô chỉ giúp đỡ bằng mồm và hy vọng Liên Xô động binh đánh nhau để cứu mình thì chỉ là nằm mơ giữa ban ngày. Và khi quân đội Trung Cộng đã bắt đầu tấn công đợt hai mạnh mẽ hơn và chiếm nhiều vùng quan trọng trong đó có các thị xã lớn như Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn thì ban lãnh đạo thời đó mới thấy hoảng hồn. Hà Nội như thất thủ, Ba Đình rúng động chuẩn bị ban hành rời Kinh. Thi hài lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã được bí mật rời khỏi thủ đô Hà Nội để "Hành Phương Nam". Các cơ quan trọng yếu cũng ùn ùn sơ tán về cùng một hướng ngược với chiến trường phía Bắc. Các đơn vị thiện chiến được điều từ miền Nam và Camphuchia về thì chỉ lập phòng tuyến cố thủ quanh Hà Nội. Nhiều chiến sĩ của các đơn vị quân chủ lực không bắn được một phát súng nào về phía kẻ thù. Tất cả đều đẩy lực lượng dân quân và các đơn vị quân sự tại chỗ, khiến cho họ tử trận gần hết. Cuộc chiến trong một tháng trời đó là một cuộc chiến lạ đời khi vừa chiến đấu, vừa làm sao cho kẻ thù biết rằng ta đã không chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ quốc. Các cuộc chiến với cấp sư đoàn không có. Lực lượng Không quân, mặc dù vẫn bay đi tham chiến ở Camphuchia nhưng lại không hề bỏ một quả bom nào xuống đầu quân Trung Quốc. 
 
Thế rồi cũng hạ màn. Trong ngày ông TBT Lê Duẩn đọc lời hiệu triệu toàn dân về việc Tổ Quốc Lâm Nguy, ông đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc lời Tổng Động Viên thì cùng ngày ông Đặng Tiểu Bình tuyên bố đã dạy xong bài học cho Việt Nam và ra lệnh rút quân. Vậy Việt Nam ta đã làm gì cho cái tình huống chiến tranh không giống ai đó. Một chiến lược gia quân sự người Đức đã nói :”Nếu một cuộc chiến tranh không có mục đích gì, không lợi lộc gì thì không nên có cuộc chiến tranh ấy”. 
 
Rõ ràng cuộc chiến bắt đầu từ ngày 17/2/1979 và kéo dài 10 năm sau đó của Việt Nam với Trung Cộng chẳng có lợi ích gì. Nó chẳng chứng tỏ cái gì, chẳng cho ai cái gì mà thiệt hại thì khó bù đắp nổi. Dù đã bao năm trôi qua thì những thiệt hại nhìn thấy được lẫn không nhìn thấy được vẫn ám ảnh chúng ta mãi. Chỉ vì những thói ngông nghênh, phản trắc của một vài nhà chính trị Việt Nam mà quân đội và nhân dân Việt Nam lại vướng vào một cuộc chiến mới, “Lưỡng Đầu Thọ Địch” khiến cho người dân Việt Nam, vốn đã đau khổ vì 20 năm chiến tranh rồi, nay lại đau khổ tiếp vì 10 chiến tranh nữa. Biên giới phía Bắc lại đồng hành với biên giới phía Tây Nam rơi vào một cuộc chiến tranh đẫm máu, kéo dài cả một thập niên khói lửa mịt mù. Một cuộc chiến tàn bạo đi trọn một thập niên để rồi lại trở vị trí cũ, tang thương và đau khổ.
 
Giờ đây thì ngay cả những vị tướng, những người tham chiến trong hai cuộc chiến đó đều phải thừa nhận sự sai lầm, ngu xuẩn của ban lãnh đạo hồi đó qua các cuốn hồi ký. Nhưng còn có hàng vạn con người ưu tú hơn đã không viết hồi ký, là những chàng trai cô gái mà những đôi mắt trong veo chỉ mơ đến tình yêu đôi lứa đã phải khép lại vĩnh viễn bởi sự ngu xuẩn đó của ban lãnh đạo. Họ đã phải chết. Chết vì sự ngạo mạn, vì bè lũ phe phái của những kẻ cầm đầu họ…
 
Câu chuyện tang thương lịch sử của cái ngày 17/2 đau buồn đó vẫn còn y nguyên vẹn chẳng học hay dạy được bài học nào. Mối quan hệ đồng chí anh em đó đã đi một vòng tử sinh dài dằng dặc, từ cái ngày muốn quên 17/2/1979 đó kéo dài một thập niên chết chóc rồi lại trở về như cũ không suy chuyển. Kẻ thù ngày ấy vẫn là kẻ thù như cũ, còn lãnh đạo dân tộc Việt Nam giờ đây vẫn là những con người thoái thai từ những kẻ ngu xuẩn ngày xưa…
 
Than ôi ! Hàng vạn chiến binh của chúng ta đã chết khi đầu vẫn còn xanh trong quên lãng thì những kẻ gây nên bao cái chết đó lại ra đi khi đã trăm tuổi trên giường êm nệm ấm với vợ con và được muôn dân than khóc. Khi cái ngày đáng nguyền rủa 17/2 đến thì chúng ta chỉ còn biết run run thắp những nén nhang với niềm uất ức câm nín để tưởng nhớ bao chiến sĩ đã ra đi không về trong mùa Xuân tang thương ấy.
 
Trong đêm khuya ai gào trong gió,
Tiếng ai hờ nấc nghẹn cả dòng sông
Ai đi về trong đêm đông buốt giá
Để ai buồn với nỗi nhớ mênh mông...
Mai Tú Ân ( HNPĐ )
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn