VN đang trở thành gì của Trung Quốc? - Nguyễn Nhơn

Thứ Năm, 28 Tháng Ba 20199:17 CH(Xem: 6031)
VN đang trở thành gì của Trung Quốc? - Nguyễn Nhơn

THANH-DO
VN đang trở thành gì của Trung Quốc?

Câu trả lời mau lẹ là:

Bất kể “ tên gọi là gì “, nước việt cọng đang trở thành “ Một Bộ phận “ của chệt tàu.

Cứ lấy một thực tế nầy:

Các Đô thị: Bình Dương – Đà Nẳng – Nha Trang … từ lâu đã tràn ngập “ dân chệt “ đến mức mà dân Việt sở tại phải lánh xa khu vực “ thần dân thượng quốc “ ngự trị.

 

Sau đây là đôi nét chủ yếu về “ Quá trình dâng nước cho chệt “ của bé lũ cáo hồ:

 

                 Không cần đánh, Hán ngụy việt cọng vẫn dâng Nước!

 

Chúng ta không cần đánh bởi chúng đã đánh dân của chúng thế chúng ta.

Chúng ta cũng không cần phải cướp vì chúng đã tự cướp nước của chúng để dâng để bán và sẽ tiếp tục dâng, tiếp tục bán cho chúng ta.

Khi cần chúng ta sẽ chuyển quân, kéo đại pháo, xe tăng chạy vòng quanh biên giới để giúp đảng của chúng nhân danh hòa bình, ngăn chặn hiểm họa chiến tranh mà trị đám dân muốn vọng động của chúng.

Chúng đã làm đúng bổn phận của một chư hầu trung thành với chính sách trị dân thuộc địa: hãy lo làm giàu và sống yên ổn. Dân của chúng chỉ được làm giàu và đó là phương thức duy nhất được cho phép để bảo vệ tổ quốc của chúng.

Không cần phải đánh. Cờ đại Hán của chúng ta sẽ từ 5 sao thành 6 sao phất phới trên toàn cõi lãnh thổ của chúng. Không bằng súng đạn mà sẽ bằng những văn kiện ký kết từng phần giao nhượng. Văn kiện sau cùng là văn kiện chúng ta viết sẵn cho chúng để chúng XIN ký kết được làm một vùng tự trị trong Đại hán vĩ đại của chúng ta.

                ( Vũ Đông Hà – Tập Cận Bình: Cần gì phải đánh chúng nó! )

 

Không cần phải đánh. Cờ đại Hán của chúng ta sẽ từ 5 sao thành 6 sao phất phới trên toàn cõi lãnh thổ của chúng.”

Đây, cờ hán chệt 6 sao đã ngạo nghễ thượng lên trên đài truyền hình của hán ngụy việt cọng và trẻ em an nam cầm cờ chệt 6 sao phất đón chào phó vương Tập tuần du phương Nam:

Và sau đây là tình thế nguy ngập của nước nhà do hán ngụy việt cọng gây ra để đi tới chỗ mất nước, diệt tộc mà hán chệt Tập mới ngang tàng nói: ” Cần gì phải đánh chúng nó! “

Chệt không cần đánh cũng không cần chiếm, chỉ thôn tính trên thực tế và dùng bọn việt cọng hồ bác cụ làm ” thổ quan cai trị ” ít tốn tiền và an toàn hơn.

 

                                         Diệt cọng hay Diệt vong?

Mật ước Thành Đô

Và cái gì chờ đợi cũng đã đến, khi tổ chức Wikileaks công bố một tài liệu “tuyệt mật” động trời liên quan đến Việt nam. Đó là biên bản họp kín giữa ông Nguyễn Văn Linh Tổng BT Đảng CSVN, ông Đỗ Mười Chủ tịch HĐBT đại diện cho phía Việt nam và ông Giang Trạch Dân Tổng BT và ông Lý Bằng Thủ tướng Chính phủ đại diện cho phía Trung quốc trong hai ngày 3-4/9/1990 tại Thành đô.

Trong tài liệu tuyệt mật liên quan tới Việt nam này của mình, Wikileaks khẳng định thông tin dưới đây nằm trong số 3.100 các bức điện đánh đi từ Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh của cơ quan ngoại giao Hoa kỳ tại Việt nam gửi chính phủ Hoa kỳ, tài liệu này có đoạn ghi rõ “… Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây dựng thành công CNCS, Đảng CSVN và nhà nước Việt nam đề nghị phía Trung quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt nam xin làm hết mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây đắp trong quá khứ và Việt nam bảy tỏ mong muốn đồng ý sẵn sàng chấp nhận và đề nghị phía Trung quốc để Việt nam được hưởng quy chế Khu tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc kinh như Trung quốc đã từng dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng tây….Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt nam trong thời hạn 30 năm (1990-2020)để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc”.

           ( vnchdalat.blogspot.com/…/wikileaks-vn-thanh-khu-tu.. )

 

Bản tin trên được loan truyền từ cuối năm 2010 đền nay đã gần 6 năm. Có người nói nó là đòn tâm lý chiến do các ông ” phản động ” loan truyền.

Nay thì mọi việc ngày càng thêm sáng tỏ: Đó là việc ngụy quyền việt cọng đã và đang tiếp tục ” giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc ”.

Hiệp định phân định biên giới Trung – Việt

Kết quả Hiệp định biên giới năm 1999 của Việt Nam và Trung Quốc

Theo Thứ trưởng Ngoại giao Vũ Dũng, đến 31/12/2008, hai bên đã phân giới khoảng 1.400 km biên giới, cắm 1.971 cột mốc, trong đó có 1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ. Toàn bộ 38 chốt quân sự trên đường biên giới đều đã được dỡ bỏ. Tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan, Việt Nam và Trung Quốc đã tiến hành cắm mốc 1117 trùng với vị trí mốc 19 cũ, đường biên giới đi qua Km số 0, mốc 19 cũ đến điểm cách điểm nối ray hiện tại 148m. Một nhượng bộ lớn của Việt Nam là khoảng cách 300 m cuối tuyến đường sắt từ Đồng Đăng đến đường biên giới cũ đã phải cắt cho Trung Quốc.

Khu vực cửa sông Bắc Luân năm 1888. Công ước năm 1887 giữa Pháp và nhà Thanh lấy cửa sông này làm đường biên giới

Tại khu vực thác Bản Giốc, theo quy định của Hiệp ước 1999, hai nước điều chỉnh đường biên giới đi qua cồn Pò Thoong, qua dấu tích trạm thủy văn xây dựng những năm 1960, quy thuộc 1/4 cồn, 1/2 thác chính và toàn bộ thác cao cho Việt Nam.

Tại cửa sông Bắc Luân, biên giới quy thuộc 3/4 bãi Tục Lãm và 1/3 bãi Dậu Gót cho Việt Nam, 1/4 bãi Tục Lãm và 2/3 bãi Dậu Gót cho Trung Quốc, và thiết lập khu giao thông đường thuỷ tự do cho nhân dân địa phương sử dụng luồng hai bên bãi Tục Lãm và Dậu Gót. Tại khu vực Hoành Mô, đường biên giới đi giữa ngầm như từ trước đến nay chứ không theo trung tuyến dòng chảy qua cống mới do Trung Quốc xây dựng những năm 1960. Khu vực mồ mả ở mốc 53 – 54 cũ (Cao Bằng) được giữ lại cho người dân Việt Nam mặc dù hai bên có nhận thức khác nhau về quy định của Hiệp ước 1999 về biên giới khu vực này đi theo chân núi. Khu vực rừng hồi người dân Trung Quốc trồng gần biên giới Quảng Ninhđược bảo lưu cho phía Trung Quốc.

Theo Hiệp ước 1999, đường biên giới cắt ngang qua bản Ma Lỳ Sán (gồm 05 hộ, 35 khẩu thuộc tỉnh Hà Giang) và khu 13 nóc nhà của người dân Trung Quốc gần Lạng Sơn, hai bên hoán đổi cho nhau trên cơ sở cân bằng diện tích, không xáo trộn đời sống dân cư…

                                  ( https://vi.wikipedia.org/…/Vấn_)

Tóm tắt, công luận đã có lý khi cho rằng:

Bằng hiệp định kể trên, ngụy quyền ” hán ngụy” đã dâng cho chủ chệt:

1/ Một giải đất biên giới 900Km2, bằng diện tích tỉnh Thái Bình

2/ Trọn Ải Nam Quan, di tích lịch sử dân tộc

3/ Một nửa thác Bản Giốc, giang sơn gấm vóc của tổ tiên

4/ Một phần bãi Tục Lãm của dân Việt

Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ

Sau 27 năm đàm phán, hiệp định Vịnh Bắc Bộ được Việt Nam và Trung Quốc ký kết ngày 25/12/2000. Việt Nam được 53.23% và Trung Quốc được 46.77% diện tích Vịnh.

Hiệp định này đã gây ra nhiều tranh cãi giữa người Việt.

Ở một thái cực là quan điểm cho rằng công ước Pháp-Thanh năm 1887 đã phân định toàn bộ Vịnh Bắc Bộ bằng kinh tuyến 108°3’ (đó cũng là quan điểm ban đầu của Việt Nam trong đàm phán), phân định lại là sai và thiệt hại cho Việt Nam. Ở thái cực kia là quan điểm cho rằng hiệp định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 là công bằng.

              ( http://www.bbc.com/…/110122_bacbo_agreement_10y )

 

Đặt ra một bên về các chi tiết kỷ thuật phức tạp, phần đông công luận đều cho rằng ” hán ngụy ” việt cọng đã nhượng cho chệt cọng 1/3 Vịnh Bắc Bộ với tiềm năng khai thác dầu hỏa lớn lao và mất một phần lớn ngư trường truyền thống của ngư dân Việt.

Nhượng quyền khai thác Mỏ bauxite Tây nguyên

Dự án khai thác bauxite ở Tây Nguyên là một loạt các dự án khai thác mỏ bô xít ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam. Dự án này đã gây ra nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau trong dư luận, báo chí, Quốc hội. Các ý kiến chủ yếu xoay quanh vấn đề an ninh, quốc phòng, hiệu quả kinh tế, hậu quả xã hội, tác động đối với môi trường sinh thái, công nghệ Trung Quốc lạc hậu, việc sử dụng lao động phổ thông Trung Quốc tại khu vực Tây Nguyên trái với Luật lao động Việt Nam.

Từ năm 2001, trong Đại hội IX, dự án này đã được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua:Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bauxite là chủ trương nhất quán từ Đại hội IX Đại hội X của Đảng đến nay”.

Ngày 1 tháng 11 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định 167 phê duyệt quy hoạch phân vùng, thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng bô xít từ giai đoạn 2007-2015, có xét đến năm 2025.

Một số ý kiến của đại biểu Quốc hội cho rằng Chính phủ Việt Nam đã “lách luật” khi tách cụm dự án thành nhiều dự án nhỏ để Chính phủ phê duyệt vì theo quy định của Luật xây dựng, đối với những dự án có tổng mức đầu tư từ 10.000 tỷ đồng trở lên phải được Quốc hội chấp thuận.

Sự cố

  • Ngày 8 tháng 10 năm 2014 hồ thải quặng đuôi số 5 của dự án Tân Rai đã bị vỡ đê, 5 ngàn mét khối nước và bùn đỏ đã tràn ra ngoài.[18]
  • Ngày 13 tháng 2 năm 2016 đường ống dẫn nước có chứa chất xút độc hại từ hồ bùn đỏ của Nhà máy alumin Tân Rai bị vỡ khiến nước chảy tràn ra ngoài. Sau khi tiến hành kiểm tra, Sở Tài nguyên – môi trường tỉnh Lâm Đồng kết luận: nguyên nhân dẫn đến sự cố vỡ đường ống được xác định là do khớp nối bị “lão hóa” dẫn tới bục đường ống.[20] Đánh giá việc đường ống bị lão hóa chỉ sau 4 năm sử dụng, ông Nguyễn Văn Ban – nguyên Trưởng ban Nhôm – Titan, Tổng Công ty Khoáng sản Việt Nam, cho rằng đó là: “hệ quả công nghệ Trung Quốc”.

Ngày 18/03/2009, nhà báo Lê Phú Khải đã viết thư lên tổng bí thư Nông Đức Mạnh rằng:

Vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo. Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra toàn quái thai. Vì sự tàn khốc đó mà Trung Quốc đã đóng cửa các mỏ bauxite của họ trên toàn quốc vào năm 2008. Chính vì lẽ đó, với tư cách một công dân, một nhà báo lâu năm, tôi kiến nghị lên Ông Tổng Bí thư, người có trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền: Hãy đưa vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên ra bàn ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước để dừng lại dự án này khi chưa quá muộn.

An ninh quốc phòng

Một trong các quan ngại lớn trong dư luận là sự tham gia của hàng ngàn người Trung Quốc tại địa bàn Tây Nguyên, nơi có vị trí chiến lược to lớn về an ninh, quốc phòng.

                        ( https://vi.wikipedia.org/…/Dự_á… )

……….

Bất chấp mọi phản kháng của mọi người, mọi giới, hán ngụy việt cọng vẫn một mực tiến hành dự án nhượng cho chệt khựa quyền khai thác bauxite Tây nguyên với hoạn họa tiềm phục chết người, mất nước.

Từ thời triều Nguyễn, Tây nguyên vẫn là vùng đất trọng yếu của Quốc gia, mệnh danh là ” Hoàng Triều Cương Thổ. “

Các chiến lược gia Miền Nam, từ Tổng thống Ngô Đình Diệm đến các hàng tướng lãnh đều mệnh danh ” Tây nguyên là Nóc nhà Việt Nam. ” Ai chiếm đóng Tây nguyên sẽ khống chế cả Miền Nam.

Hiện tại, lực lượng cả vạn công nhân chệt có thể là ” đặc công “, bất cứ lúc nào cũng có thể ra tay phá hoại: Cho nỗ các hố chứa bùn đỏ tràn xuống Lâm Đồng và cả một dãy vùng duyên hải Cam Ranh, Ninh Thuận, Bình Thuận gây hỗn loạn và lập đầu cầu không vận cho đại quân chệt cọng đổ quân xuống Tây nguyên tiến chiếm cả Nam Phần giống như chiến dịch ” hồ ” 1975!

 

Nhượng Quyền Khai thác Rừng Đầu nguồn

Chúng đã nhượng biển, nay nhượng nốt rừng!!!

Và người ta những tưởng như thế là đủ các mặt xâm lăng của Trung Cộng, các mặt nhượng bộ của Việt Cộng rồi. Đùng một cái, bức thư tố cáo của hai tướng CS là Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh hôm 22-01 làm cho tất cả cộng đồng người Việt trong lẫn ngoài nước giật mình kinh hoảng. Hai ông viết: “Theo chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã cử đoàn cán bộ liên ngành trực tiếp kiểm tra hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh, đồng thời tổng hợp báo cáo 8 tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương… Kết quả cho thấy 10 tỉnh đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích 305,3534 nghìn ha, trong đó Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 nghìn ha; 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới”.Tiếp đó hai ông cảnh báo cách mạnh mẽ: “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao? Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những “làng Đài Loan”, “làng Hồng Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và còn nguy hiểm cho quốc phòng”.

             ( Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 94 (01-03-2010 )

Trong cuộc chiến tranh biên giới 1979, chệt Đặng Tiểu Bình đại ngôn: ” Đây là cuộc hành quân có giới hạn không gian và thời gian. Còn như muốn đánh chiếm VN thì chỉ cần một tuần lễ là lực lượng xe tăng bát nhất tq sẽ có mặt ngay tại Hà Nội.”

Hồi đó, quân chệt còn phải hành quân tiến chiếm các cao điểm biên giới để bảo vệ trục tiến quân. Còn như ngày nay, dân quân, đặc công chệt trá hình công nhân làm rừng đầu nguồn, khi cần, bất ngờ tiến chiếm các cao điểm, yểm trợ trục tiến quân và hai xa lộ cao tốc Lào Kay – Hà Nội và Móng Cái – Hà Nội, rộng thênh thang cho xe tăng chệt chạy thì chỉ trong vài ba ngày chệt Tập có thể ngự nơi hang ổ Ba Đình.

 

Đông đô Đại phố, Bình Dương

Đông Đô Đại Phố được xây dựng trên quy mô 26 ha ngay tại trung tâm của thành phố mới Bình Dương. Dự án được xây dựng theo phong cách Trung Hoa với mục tiêu tạo ra một khu đô thị hiện đại phục vụ cho cộng đồng người Hoa sinh sống và làm việc tại Bình Dương.

Dự án có vị trí rất đắc địa tại trung tâm thành phố mới Bình Dương, tận hưởng các tiện ích xã hội hoàn hảo mà không nhiều nơi có được: gần trung tâm văn hóa – hành chính – chính trị tập trung; gần khu công nghiệp Việt Nam – Singapore 2; gần chùa bà Thiên Hậu;…

Đông Đô Đại Phố bao gồm nhiều hạng mục như: nhà phố liên kế, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại,… kết hợp hài hòa giữa phong cách hiện đại, sang trọng nhưng vẫn mang đậm dấu ấn kiến trúc Trung Hoa.

                 ( diaoconline.vn › Dự án › Khu dân cư – Đô thị mới )

 

“Phố Tàu” xuất hiện ngày một nhiều tại Việt Nam

Không phải những khu phố Hoa kiều đượm màu thời gian với những nét sinh hoạt truyền thống quen thuộc nơi khu vực quận 5, quận 6 ở TP. HCM, giờ đây những khu phố Tàu mọc lên nhan nhản từ Nam ra Bắc đang gây bao sự lộn xộn, hỗn loạn do thói ăn ở, sinh hoạt bừa bãi của hàng vạn lao động phổ thông Trung Quốc, cho đến chiêu kinh doanh kiểu tận thu, tận diệt của các doanh nghiệp nước này.

Dường như những gì đang diễn ra trên đất liền chẳng mấy liên quan đến chuyện ngoài khơi. Cùng lúc với việc liên tục đưa ra những hành động và tuyên bố khiêu khích có liên quan đến chủ quyền lãnh hải Việt Nam trên Biển Đông thì Trung Quốc vẫn bình thản triển khai rộng rãi các hoạt động kinh tế từ quy mô nhỏ lẻ cho đến những dự án nhiều tỷ USD trên hầu khắp các tỉnh thành trải từ Bắc vào Nam. Thậm chí, cách thủ đô Hà Nội chưa đầy 20 km cũng vừa hiện diện cả một “phố Trung Quốc” ở Bắc Ninh: dãy phố Phù Khê Thượng treo toàn biển tiếng Trung Quốc với mục đích thu mua gỗ trắc để xuất sang Trung Quốc.

Điều đáng quan ngại là các hoạt động kinh tế có liên quan đến người Trung Quốc thường hay dẫn đến những hệ lụy không mấy tích cực. Chẳng bao lâu sau khi phố huyện Kỳ Anh bị “Tàu hóa” với chằng chịt biển hiệu tiếng Trung Quốc và sự xuất hiện ồ ạt của người nước này, nơi đây đã chìm trong mưa bụi bởi hàng trăm lượt xe chở đất san nền cho một dự án lớn của Trung Quốc qua lại mỗi ngày. Các con đường bị băm nát, biến dạng, các mỏ đá, đất đồi, đất vườn… ở Kỳ Anh cũng bị bằm nát để khai thác tận thu vô tội vạ.

Không đến mức ô nhiễm khói bụi như Kỳ Anh, nhưng ở Thanh Hóa, Đak Nong, người dân sống xung quanh khu vực có lao động phổ thông Trung Quốc thường xuyên bị các đối tượng này quấy rối bởi lối sinh hoạt bừa bãi, thiếu văn hóa. Tình trạng lao động Trung Quốc gây gổ và hành hung người Việt Nam ở đây không còn là chuyện hiếm.

Trong khi tài nguyên ngày một cạn kiệt bởi nạn khai thác tràn lan dưới sự quản lý yếu kém của các cơ quan hữu quan thì gỗ quý, than, cát sỏi cùng nhiều loại tài nguyên thiên nhiên khác hằng ngày vẫn “chảy” về Trung Quốc. Trong lúc Biển Đông vẫn chưa thôi dậy sóng thì Quảng Ninh lại mở toang cửa mời gọi người Trung Quốc làm ăn với nhiều biệt đãi.

                                    ( songmoi.vn › Xã hội › Thời sự )

 

Hai bản tin kể trên tự thân đã nói đủ về tình trạng hán chệt ” xâm thực ” Đất nước ta. Chúng lập ra những làng chệt khắp nơi trên Đất nước, từ Móng Cáy, Lào Kay đến tận mủi Cá Mau vừa phá hoại môi sinh, cướp đoạt tài nguyên cho chí tới phá hoại văn hóa bản địa. Vấn đề hán hóa bắt đầu từ nơi đây.

 

Đặc khu Kinh tế Vũng Áng

Rủi ro gì từ ‘đặc khu kinh tế’ Vũng Áng?

Giới chuyên gia cho rằng Việt Nam sẽ đối mặt với những nguy cơ tiềm ẩn nếu phê chuẩn dự thảo đặc khu kinh tế ở Vũng Áng của tập đoàn Formosa.

Hôm 25/6, lãnh đạo một chi nhánh tại Việt Nam của Formosa – tập đoàn có 100% vốn Đài Loan, đã gửi văn bản đến chính phủ Việt Nam đề nghị thành lập một đặc khu kinh tế ở Vũng Áng để phục vụ cho việc xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện, theo truyền thông trong nước.

Cắt Đôi Việt Nam

Ông Doanh cũng nói về mặt quốc phòng, Vũng Áng “là một địa điểm hết sức nhạy cảm”.

Ở trên mạng Trung Quốc đã lưu hành kịch bản tấn công Việt Nam trong 32 ngày, trong đó nói Trung Quốc sẽ đánh vào miền trung, chia cắt Việt Nam ra.”

Vũng Áng hay Quảng Trị là những vùng hẹp nhất trên đất liền của Việt Nam, vì vậy tôi hy vọng những nhà chiến lược quốc phòng của Việt Nam sẽ quan tâm và thận trọng trước những yêu cầu này.”

Trong một cuộc phỏng vấn gần đây với BBC, chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành cũng cảnh báo về những nguy cơ nảy sinh từ việc Việt Nam cho Trung Quốc thuê hàng chục cây số dọc bờ biển Hà Tĩnh và vùng cửa khẩu Vũng Áng.

Vũng Áng hay Quảng Trị là những vùng hẹp nhất trên đất liền của Việt Nam, vì vậy tôi hy vọng những nhà chiến lược quốc phòng của Việt Nam sẽ quan tâm và thận trọng trước những yêu cầu này.

Kinh tế gia Lê Đăng Doanh: “Từ Vũng Áng ngó qua Hải Nam không bao xa, nếu ngày nào đó, Trung Quốc đưa một hạm đội từ Hải Nam sang Vũng Áng thì cả Vịnh Bắc Bộ sẽ không giao thông được nước ngoài, không giao thông được với miền Nam Việt Nam, bị biến thành một cái hồ riêng của Trung Quốc”, ông nói.

Hạm đội trên biển của Trung Quốc đã rất mạnh rồi, nếu bây giờ họ có một điểm tựa trên đất liền nữa thì đó sẽ là nguy cơ rất lớn.”

            ( http://www.bbc.com/…/140626_vungang_special_zone… )

Đó là câu chuyện các chuyên gia VN khuyến cáo hán ngụy việt cọng về nguy cơ của việc chấp nhận cho Formosa chệt cọng, với võ bọc Đài Loan, đòi ngụy quyền Hà Nội cho chúng lập ” Khu Tự Trị ” mệnh danh là Đặc khu Kinh tế Vũng Áng từ hồi tháng 6 năm 2014.

Sự thể ngày nay còn vượt xa những điều các chuyên gia VN tiên liệu. Bọn cẩu trệ chệt đã thiết lập đường ống ngầm xả chất thải độc hại ra biển, dài tới cây số rưởi mà ngụy quyền ăn hại vc không một ai hay.

Chỉ đến khi ” cá chết ” gây náo động công luận, hán ngụy vc mới chịu xác nhận có

cho phép Formosa thiết lập đường ống sát nhân ấy.

Thật ra thì chúng không có chút thẩm quyền gì đối với khu tự trị Formosa, bằng cớ bọn chệt đã cho treo bảng lớn ngay trên cổng chính vào khu vực, ghi rằng:

” NGHIÊM CẤM NGƯỜI VIỆT LAI VÃNG “

Nếu như hán ngụy vc có uy quyền thì nó phải ngay lập tức ra lịnh cho Formosa ngưng hoạt động chờ xử lý thì mới phải.

Bây giờ cho dầu chúng có kêu gọi LHQ và các tổ chức Môi Sinh quốc tế cứu giúp thì hậu quả nghiêm trọng về môi sinh và đời sống người dân suốt một dãy duyên hải từ Vũng Áng tới Nha Trang phải còn lâu mới khắc phục được.

Hà huống chi hán ngụy vc chỉ mãi chày cối, lấp liếm, binh vực bọn chủ chệt của chúng, bình chân như vại!

 

Thân phận ” tiền An nam Đô hộ phủ ” kiểu mới

 

Mưu toan xóa bỏ Lịch sử Dân tộc

Mùa thu 2015, bộ giáo dục và học đại hán ngụy lăm le xóa bỏ mộn học sử Việt:

Bộ GD&ĐT đang công khai Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông đến các trường phổ thông trên toàn quốc nhằm lấy ý kiến và góp ý. Nhiều người cho rằng Dự thảo này sẽ từng bước “khai tử” môn Lịch sử trong các môn học phổ thông cũng như đi đến việc “nói không” với nó trong các kỳ thi quốc gia tốt nghiệp và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng. 

Trong số công luận phản đối có một vị chỉ thẳng vào mục tiêu của âm mưu bãi bỏ môn học sử của hán ngụy:

” GS Trần Đức Cường sau nhiều năm phụ trách Viện Sử học và với cương vị Phó chủ tịch viện KHXHVN cho biết ý kiến của ông:

-Rất tán thành với ông về cái điều này. Tức là chung chung phải giáo dục truyền thống yêu nước cho mỗi người dân Việt Nam. Bởi vì chúng ta biết rằng từ xưa tới nay rất nhiều triều đại phong kiến Trung Quốc cũng như nhà cầm quyền Trung Quốc những giai đoạn sau đã tiến hành nhiều hành động xâm lược đối với Việt Nam. Tôi nghĩ đây là điểu mà mỗi một người Việt Nam phải thấy rõ là bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên vùng biển đảo thì nó gắn với việc giáo dục tinh thần yêu nước cho mỗi người công dân của mình và tôi cho rằng đây là điều hết sức quan trọng cho nên đúng như ông nói tôi tán thành là trong lúc này thì việc coi trọng môn lịch sử lại là đòi hỏi cấp thiết đối với đất nước.” - ( RFA – Tại sao phải bỏ môn lịch sử? )

Trước sự phản đối ồ ạt của công luận, Cuốc huội vẹm phải ra quyết nghị hoãn lại đề án nầy.(https://tuoitre.vn/quoc-hoi-khong-cho-phep-bo-mon-lich-su-10106… )

Phá hoại Ngôn ngữ – Chữ viết

Cuối năm 2017, záo sư Bùi Hiền bất ngờ tung ra đề án kải kách chữ viết thiệt là ” hoành tráng!”

Báo Lao động bình luận: Dự án cải cách chữ viết của PGS.TS Bùi Hiền: khó đồng tình, không khả thi.

Đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia về ngôn ngữ, văn hóa, các nhà văn, nhà giáo… lên tiếng về “dự án” cải cách chữ viết tiếng Việt của PGS.TS Bùi Hiền và cơ bản thống nhất ở quan điểm không đồng tình, phủ nhận khả năng đi vào thực tế của nó.

Bên cạnh những khiếm khuyết về mặt khoa học, ví dụ xóa nhòa ranh giới giữa các âm “ch/tr, x/s, r/d” một cách thiếu căn cứ, làm nghèo tiếng Việt, sự “đánh đồng” 3 âm c/k/qu, trong khi thực tế phát âm không hoàn toàn giống nhau…; điểm yếu “chết người” trong “dự án” của PGS.TS Bùi Hiền là quan niệm chữ viết tiếng Việt thuần túy chỉ là phương tiện ghi âm.

Một khi đã đi vào chiều sâu văn hóa, trở thành tình cảm, quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng thì chữ viết tiếng Việt sẽ mãi đồng hành, trường tồn cùng dân tộc.

Đây là nguyên lý mà giới ngôn ngữ học đã “thuộc nằm lòng” nên đã từ lâu, không có ai trong giới chuyên môn mất công đưa ra các ý tưởng, “đề án” hay “dự án” cải cách chữ viết tiếng Việt.

Về phương diện pháp lý, tiếng Việt (gồm tiếng nói và chữ viết) đã được Hiến pháp

nước ta công nhận là ngôn ngữ quốc gia. Pháp luật hiện hành không có quy định điều chỉnh, sửa đổi chữ viết tiếng Việt.

Do đó, “dự án” của PSG.TS Bùi Hiền, dù đã được ấp ủ 20 năm hay bao nhiêu năm chăng nữa, cũng chỉ là sản phẩm nằm trên giấy!”

Nói một cách bình dị và thẳng thừng thì giống như câu bình của một thính giả trên đài RFA:

” an garandeau: Thế hệ nầy không hiểu chữ Việt lai Tàu cũng chẳng sao,CSVN và TQ chỉ cần thế hệ sau hiểu là được vì họ sẽ biến con dân VN thành Tàu chánh cống … ha!Ha! Ha!… Đây còn gọi là âm mưu Đồng hóa của tình báo Hoa Nam. Có hiểu chưa? Nếu hiểu thì đừng bao giờ xử dụng chữ Việt lai Tàu nầy vu chỉ 1 lần, vì tự mình chôn sống chữ quốc ngữ của minh. Bọn Tàu sẽ làm ngư ông đắc lơi.

Nguy cơ về hiểm họa Hạt Nhân

Hà Nội ‘lãnh đủ’ nếu nhà máy hạt nhân Trung Quốc rò rỉ phóng xạ

Hà Nội là một trong số các tỉnh miền Bắc Việt Nam sẽ chịu “ảnh hưởng nghiêm trọng” nếu 1 trong 3 nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc bị rò rỉ phóng xạ, theo đánh giá của một đề án vừa được chính quyền thủ đô phê duyệt.

Truyền thông trong nước hôm 24/5 cho hay mối nguy từ nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc được xem là 1 trong 10 rủi ro có thể trở thành thảm họa đối với thành phố Hà Nội, ngoài các rủi ro khác như vỡ đê sông Hồng, ô nhiễm nguồn nước, cháy nổ, đổ sụp công trình …

Cả 3 nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc đều nằm ở vị trí rất sát với Việt Nam. Nhà máy điện hạt nhân Phòng Thành ở Quảng Tây chỉ cách thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, khoảng 50km. Nhà máy điện hạt nhân Xương Giang trên đảo Hải Nam cách đảo Bạch Long Vĩ của Hải Phòng hơn 100km và nhà máy điện hạt nhân Trường Giang ở Quảng Đông cách biên giới Việt Nam khoảng 200km.

Ngay từ khi bắt đầu hoạt động vào năm 2016, 3 nhà máy điện hạt nhân của Trung Quốc đã khiến nhiều chuyên gia về năng lượng lên tiếng bày tỏ quan ngại và đòi hỏi phải có hệ thống mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ sớm vì nguy cơ môi trường Việt Nam bị “đầu độc” bởi các nhà máy này.

Theo đề án vừa được phê duyệt, nếu 1 trong 3 nhà máy xảy ra rò rỉ phóng xạ, thì bụi phóng xạ có thể phát tán và làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước của Hà Nội. ( VOA Tiếng Việt )

Nguồn cung cấp Nội tạng Cho chệt

Tin tức về việc bắt cóc hoặc dụ dỗ bán người qua chệt mổ lấy nội tạng loan truyền từ Bắc chí Nam, từ Lào Cay tới Tây Ninh.

Sau đây là một vụ có thông cáo chính thức của công an Lào Cay:

Công an điều tra thông tin bắt cóc trẻ em, người già bán nội tạng qua Trung Quốc

” Mới đây, trên các trang mạng xã hội lan truyền thông tin về hiện tượng bắt cóc trẻ em mổ lấy nội tạng, khiến dư luận bàn tán xôn xao. Vào chiều ngày 10/8, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện một thông báo của Công an huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai cảnh báo hiện tượng trẻ em, người già đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng giáp ranh biên giới bị kẻ xấu bắt cóc, mổ lấy nội tạng.

Trên trang thông báo này có số 487/TB-CAH và đóng dấu đỏ của Công an huyện Si Ma Cai do thượng tá Trịnh Minh Phú ký ngày 2/8/2016 nêu rõ: “Ngày 27/7/2016, Công an huyện Si Ma Cai nhận được Công văn số 1177/CAT-PV11 của Công an tỉnh Lào Cai về việc, tại địa phận giáp danh Việt Nam – Trung Quốc, tỉnh Hà Giang trong 6 tháng đầu năm 2016 đã xảy ra 16 vụ với 16 nạn nhân bị bắt cóc, mổ lấy nội tạng (gan, thận, tim, mắt…).

Qua xác minh nắm được các đối tượng là người Trung Quốc tổ chức thành từng nhóm từ 3 đến 5 người, chúng sử dụng xe ô tô (không có biển kiểm soát), đối tượng tập trung vào những gia đình có người già, trẻ em ở, học sinh các trường tổ chức đi học ngoại khóa, trẻ em đi chăn thả gia súc, làm nương rẫy một mình… các đối tượng bắt cóc đưa lên ô tô đến khu vực vắng người mổ lấy nội tạng.

Để phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này, Lãnh đạo Công an huyện yêu cầu Công an các xã, các trường học trên địa bàn huyện thông báo đến toàn thể nhân dân và học sinh các phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội phạm này.

Tuyên truyền cho mọi người khi đi gần khu vực biên giới không nên đi một mình mà đi theo nhóm từ 3 đến 5 người để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Khi phát hiện đối tượng nghi vấn có các hoạt động, hành vi như đã nêu ở trên, báo cáo kịp thời về Công an huyện để phối hợp bắt giữ đối tượng.(https://baomoi.com › Pháp luật › An ninh – Trật tự)

Đầu độc Toàn dân

Sáu năm về trước, trên net có loan tải câu chuyện: Một thanh niên từ Mỹ về thăm quê nhà ” xứ Một Ngàn “. Đó là vùng quê hẻo lánh xa xôi ngày trước thuộc quận Cờ Đỏ, tên chữ là quận Nhơn Nghĩa thuộc tỉnh Phong Dinh.

Ngày nay là thị trấn Một Ngàn, một thị trấn nhỏ thôn quê.

Một bửa, cậu thanh niên ra chợ Một Ngàn ngó nghiêng, nhìn vào kệ bày đồ hộp của gian hàng xén với vẻ tò mò. Bà bán hàng thấy vậy mới phân bua: Đồ hộp thực phẩm nầy là của china. Biết rằng nó là độc hại mà cũng phải mua về bán, bởi dzì không có thứ nào khác. Rồi, bước ra lượm đôi dép cao su, bảo: Dép nầy cũng của china. Chỉ mang vài ngày là đứt quai mà cũng phải mua về bán. Và chỉ ra chiếc xe đạp trưng bày, bảo: Xe nầy cũng do china sản xuất, chạy vài ngày là sút sên, bể lóp mà cũng phải mua về bán!

Vậy đó, từ thành thị tới tận thôn làng, tràn ngập hàng hóa chệt: Thực phẩm thì độc hại, đồ dùng thì dõm mà dân Việt vẫn phải tiêu dùng, chết sống phú cho số mạng. Tiền bạc thì các quan cắt mạng thu lấy của xì thẩu chệt để cho chúng mặc sức mua bán hoành hành.

Điều mỉa mai, chua chát là đây: Trong khi dân chết lần mòn vì nhiễm độc thực phẩm chệt thì các quan lớn hán ngụy và tư bản đỏ vẫn sống phây phây:

Lê Khả Phiêu sai người trồng rau ở sân sau để ăn riêng, khỏi ra chợ mua rau nhiễm độc hóa chất.

Có một mụ đại gia, tư bản đỏ khoe với bạn: Tháng nào con mẻ cũng bay qua Singapore mua thực phẩm sạch về trữ cho cả nhà ăn để khỏi phải ngộ độc thực phẩm nội địa độc hại.

Đây là Đại họa diệt chủng lâu dài!

                                        Tạm thay Lời Kết

Trên đây là những điểm trọng yếu về tình hình nghiêm trọng của Đất nước hiện nay. Ai đó rất có lý khi dùng thành ngữ truyền thống ” Sơn hà nguy biến. “

” Toàn dân nhge chăng?

Sơn hà nguy biến!

Nào người hào hùng

Nên hòa hay nên chiến? “

Ngày nay, “ nội xâm hán ngụy “ còn nguy hiểm hơn ngoại xâm chệt Bắc phương.

Nó vừa “ tự thực dân “ vừa gieo họa diệt tộc diệt chủng, dâng Đất nước cho chệt khựa.

Ngày nào Đất nước còn nằm trong tay hán ngụy vc, Dân Việt, Nước Việt như cá nằm trên thớt, mặc tình cho chệt cọng băm vằm, mổ xẻ.

Nếu sĩ phu nước Việt cứ mãi mắt lấp tai ngơ thì họa mất nước, diệt tộc thấy liền trong sớm tối khỏi cần đợi ngày hán ngụy thi hành Mật ước Thành Đô.

Chỉ cần kéo dài nạn ” đầu độc toàn dân ” trong vài mươi năm nữa thì giống nòi Lạc Việt sẽ còi cọc, tinh thần bạc nhược đi tới chỗ diệt vong!

 

      Diệt hán ngụy việt cọng hay chấp nhận Tổ quốc – Dân tộc diệt vong?

 

                                            Nguyễn Nhơn

                             Quốc Hận 44 với câu hỏi nhức nhối

                                                28/3/2019

 

Phụ đính

40 năm sau cuộc chiến, VN đang trở thành gì của Trung Quốc?

 

Việt Nam là thuộc địa Trung Quốc? Không phải. Là chư hầu? Không đúng. Là quốc gia vệ tinh? Cũng sai. Vậy Việt Nam đang là gì với Trung Quốc? Khó có thể định nghĩa chính xác tính chất mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc kể từ sau khi hai nước bang giao bình thường sau cuộc chiến biên giới 1979. Có điều ai cũng thấy Việt Nam đang bị nhuộm đỏ trước hiểm họa “ngoại xâm mềm” bằng con đường kinh tế, từ Trung Quốc.

 

Từng ngày từng giờ, cơn sóng thủy triều đỏ Trung Quốc lan rộng và phủ kín Việt Nam, từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau (chính xác là 54/63 tỉnh-thành). Theo Viện nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, nếu như trong 9 năm kể từ khi bình thường hóa (tháng 11-1991 đến tháng 12-1999), Trung Quốc có 76 dự án với tổng số vốn đầu tư là 120 triệu USD, thì 10 năm sau, đã có 657 dự án với tổng số vốn hơn 2,6 tỷ USD. Riêng về FDI (đầu tư nước ngoài trực tiếp), từ cuối năm 1991 đến nay, FDI Trung Quốc đổ vào Việt Nam liên tục tăng và tăng mạnh 10 năm trở lại đây, từ 572,5 triệu USD năm 2007 lên 2,17 tỷ USD năm 2017, trở thành nước thứ tư trong số các quốc gia có vốn FDI đăng ký tại Việt Nam (tạp chí Tài Chính 1-1-2019).

 

Trung Quốc hiện diện khắp nơi, đến mức gần như ngành nghề nào cũng có mặt, từ kinh doanh hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp ở Hải Phòng; kinh doanh bất động sản ở Tiền Giang; sản xuất giày ở Đồng Nai; luyện-cán thép ở Thái Bình; sản xuất tinh bột wolfram ở Quảng Ninh; linh kiện điện tử ở Đà Nẵng; ván ép ở Long An; đến gia công in phun, đồ họa, sản phẩm quảng cáo, dịch vụ quảng cáo ở Sài Gòn; và đặc biệt công nghiệp điện than (trong 27 quốc gia có dự án nhiệt điện than nhận đầu tư từ Trung Quốc, Việt Nam xếp thứ hai sau Bangladesh về công suất được cam kết đầu tư với 13.380MW, xếp thứ tư về tổng giá trị với 3,6 tỷ USD, tính đến tháng 7-2018) – dù rằng công nghiệp này gây ô nhiễm cực kỳ nghiêm trọng.

 

Trung Quốc còn thâm nhập dữ dội vào thị trường bất động sản. Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Long An, Tiền Giang… chỗ nào cũng có mặt giới đầu tư bất động sản Trung Quốc, đặc biệt các dự án chung cư thuộc khu “đất vàng”. Tháng 4-2017, tập đoàn China Fortune Land Development mua lại cổ phần trong dự án Đại Phước Lotus của VinaCapital với giá 65,3 triệu USD (Đại Phước Lotus là dự án khu dân cư có tổng diện tích 198,5 triệu hecta thuộc tỉnh Đồng Nai, giáp Sài Gòn). Tờ The Leader (19-9-2017) cho biết, tập đoàn Hong Kong Land cũng mua 64% cổ phần dự án nhà ở nằm trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm thuộc Công ty CP Đầu tư hạ tầng kỹ thuật TP. HCM; trong khi đó, Alpha King Real Estate Development JSC mua dự án khu phức hợp Saigon One Tower…

 

Trong 9 tháng đầu năm 2018, người Trung Quốc vọt lên đầu bảng tỷ lệ người nước ngoài mua nhà ở Sài Gòn. Không chỉ mua nhà, đất đai và khu nghỉ mát, Trung Quốc còn mua doanh nghiệp. Báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, giới đầu tư Trung Quốc đã thực hiện 1.029 lượt góp vốn mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam với tổng vốn hơn 800 triệu USD, chỉ trong năm 2018. Cùng với làn sóng đầu tư là làn sóng du lịch. Mỗi tuần có 500 chuyến bay chở du khách Trung Quốc sang Việt Nam. Hiện có đến 10 hãng hàng không khai thác 30 đường bay từ 20 địa điểm Trung Quốc đến Việt Nam...

 

Đầu tư và du lịch giúp kinh tế tăng trưởng mà sao phải lo? Bởi vì, không như giới đầu tư các nước khác, sự có mặt Trung Quốc kéo theo nhiều điều không bình thường. Tháng 8-2018, Ủy ban tỉnh Khánh Hòa đã phải gửi văn bản khẩn, “đề nghị các bộ, ngành trung ương, đặc biệt Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có giải pháp quản lý hoạt động thanh toán qua công nghệ thanh toán điện tử”, nhằm chặn đứng sự thất thu thuế từ du khách Trung Quốc.

 

Dự án tuyến đường sắt cao tốc Cát Linh­Hà Đông là một ví dụ khác. Dự án có tổng đầu tư 552 triệu USD (thời giá năm 2008) trong đó vốn ODA Trung Quốc là 419 triệu USD. Dự kiến công trình hoàn thành trong thời gian từ tháng 8-2008 đến tháng 11-2013 nhưng ì ạch mãi đến cuối năm 2015 mới xong (đến nay, đầu năm 2019, vẫn còn trong giai đoạn chạy thử nghiệm). Cái giá của sự chậm tiến độ là 339 triệu USD cộng thêm! Không chỉ vậy, tổng thầu Trung Quốc còn nợ các nhà thầu phụ Việt Nam đến 554 tỷ đồng. Tương tự, trong dự án Nhà máy gang thép Lào Cai với tổng đầu tư khoảng 340 triệu USD (Việt Nam góp 55%), một nhà thầu Trung Quốc cũng quịt tiền. Sau khi ký hợp đồng mua vật liệu và thuê công nhân Việt Nam san ủi mặt bằng, nhà thầu phụ này lặng lẽ biến mất! Dù vậy, Trung Quốc vẫn có ưu thế giành thầu và chiếm nhiều dự án trọng điểm chẳng hạn các nhà máy nhiệt điện. Có quá bất thường không?

 

Điều không bình thường là có rất nhiều công nhân Trung Quốc được thoải mái vào Việt Nam mà không cần hộ chiếu-visa. Con chuột cũng khó có thể lọt vào cửa khẩu huống chi hàng chục ngàn người! Cách đây 10 năm, năm 2009, tờ VietnamNet từng thực hiện phóng sự về những ngôi làng Trung Quốc mọc tại Việt Nam. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam thường bày tỏ “bất bình” trước sự “ngang nhiên” tuyên xưng chủ quyền của Trung Quốc đối với biển đảo Việt Nam nhưng về sự ngang nhiên xuất hiện của hàng chục ngàn người Trung Quốc ngay trên đất Việt Nam thì gần như không ai lên tiếng hoặc hành động gì, đến mức sự bất thường này được phép đương nhiên tồn tại. Cuối năm 2015, tại Đà Nẵng, hai cửa hàng do người Trung Quốc làm chủ thậm chí đã ngang ngược “tuyên xưng chủ quyền” bằng cách không bán hàng cho người Việt. Người Việt đang mất chủ quyền ngay trên chính mảnh đất quê hương mình? Điều bất thường nhất trong những điều không bình thường là một số khu công nghiệp Trung Quốc đã được bảo vệ như thể chúng nằm trên đất Trung Quốc. Cho đến thời điểm này, chẳng người Việt Nam nào “không phận sự” được phép vào “cấm thành” Formosa!

 

Điều rất không bình thường, so với quan hệ kinh tế với các nước khác, là cách thức quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hãy đọc một đoạn trong bài viết “Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam trong 10 năm qua” của tiến sĩ Nguyễn Phương Hoa (người hồi tháng 6-2018 đã được bổ nhiệm Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Trung Quốc kiêm Phó Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc):

 

“Cùng với tăng cường xây dựng niềm tin chính trị, lãnh đạo hai nước luôn chú trọng đến xây dựng mối quan hệ kinh tế hiệu quả, thiết thực và đang được cụ thể hóa bằng những kế hoạch phát triển gắn kết hai nền kinh tế như “Hai hành lang, một vành đai”, “một trục hai cánh”, “hợp tác Vịnh Bắc bộ mở rộng”; hướng đến cân bằng trong cán cân thương mại; tăng đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam...”. Cách viết này, của một “chuyên gia” thuộc Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, cho thấy một điều: quan hệ kinh tế Việt Nam với Trung Quốc còn được “hòa tan” vào quan hệ chính trị, liên quan đến vấn đề thể chế và chính sách đối ngoại “đặc biệt”. Nó giúp phần nào giải thích được những bất thường nói ở trên.

 

Cần nhắc lại, cách đây chỉ vài tháng, vào tháng 9-2018, khi tiếp Triệu Lạc Tế - Ủy viên Bộ Chính trị-Trưởng ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói rằng quan hệ Việt-Trung “đang ở thời điểm tốt đẹp nhất trong lịch sử”! Trước đó, tháng 1-2017, trong chuyến công du Trung Quốc sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12, Nguyễn Phú Trọng cùng Tập Cận Bình cũng đã ra thông cáo chung, xác định hai quốc gia “đều là nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, có chế độ chính trị tương đồng, con đường phát triển gần gũi, có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung”; khẳng định quan điểm hai bên là “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” trên tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

 

Bắc Kinh có là “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt” của Việt Nam? Chắc chắn là không. Hà Nội đang trở thành gì đối với Trung Quốc? Dựa vào các phát biểu và tuyên bố chung chỉ có thể định tính được phần nào mối quan hệ hai nước, nhưng dựa vào những con số cụ thể thì có thể thấy rõ, Việt Nam đang lệ thuộc nghiêm trọng vào Trung Quốc. 40 năm sau khi thâm nhập biên giới Việt Nam bằng quân sự, Trung Quốc đang đổ bộ kín mít đất nước Việt Nam bằng những đoàn quân kinh tế hùng hậu. 40 năm sau khi Việt Nam đánh đuổi quân xâm lược Trung Quốc, Việt Nam vẫn rất khó khăn tấn công sâu vào lãnh thổ nước này bằng con đường kinh thương. Việt Nam liên tục nhập siêu từ Trung Quốc. Con số mới nhất (11 tháng đầu năm 2018) là 21,6 tỷ USD (xuất sang Trung Quốc 38,1 tỷ USD trong khi nhập lại 59,7 tỷ USD).

 

Năm 1979, Hà Nội đã có thể dạy lại Bắc Kinh bài học mà Trung Quốc muốn dạy cho Việt Nam, nhưng sau 40 năm, Hà Nội dường như chẳng học được thêm gì cả, ngoài việc trở thành “đồng chí tốt” của kẻ thù. Sau 40 năm, Việt Nam chẳng là gì so với sức mạnh kinh tế lẫn quân sự mà Trung Quốc đang sở hữu. Biển Đông đang bị gặm nhấm lần mòn. Chủ quyền biên cương đang bị đe dọa. Cả “chủ quyền” kinh tế cũng bị thao túng. Thật chẳng tự hào gì khi Việt Nam đang là con nợ của Bắc Kinh. Trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn (3-9-2018), tác giả Vũ Quang Việt cho biết, ước tính nợ Việt Nam đối với Trung Quốc, tính đến năm 2018, (có thể) là hơn 6 tỷ USD. Bắc Kinh đang nắm Hà Nội trong lòng bàn tay? Riêng với cái nhìn của người dân Việt Nam, có vẻ như Hà Nội chẳng nắm được gì của Bắc Kinh cả! Với thực trạng này, ước vọng thoát Trung của người dân Việt xem ra là rất xa vời. Điều này có đáng để nghĩ và lo lắng cho số phận quốc gia?

 

MẠNH KIM

 

"Mạnh Kim là nhà báo độc lập với hơn 20 năm trong nghề chuyên mảng thời sự chính trị quốc tế, cộng tác với nhiều tờ báo trong nước lẫn hải ngoại. Vài năm gần đây, anh tập trung vào các vấn đề thời sự Việt Nam trong tình hình đất nước có nhiều biến động gay gắt.

Ý kiến bạn đọc
Thứ Sáu, 29 Tháng Ba 20193:09 CH
Khách
Viet nam la gi cua trung cong ? la bay toi cua trung cong.
Viet nam la gi cua trung hoa ? Tu ngan xua,trung hoa la ke thu cua dan Viet.
Sap toi ngay quoc han,tuong lai dat nuoc dang u am,ai ai con co chut long deu da len tieng canh tinh dan tinh trong va ngoai nuoc......tieng hac trong dem.... Moi lan ai do noi len tam trang co huong va hoai bao hoi huong,thi su bat luc ,uat han lai troi len bao trum.... The chien quoc,the xuan thu.Gap thoi the,the thoi,thoi phai the. Bac Nhon oi ! buon vao hon khong ten
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn