Tác động của 'hormone yêu thương' tới tình cảm con người

  • Bob Holmes
  • BBC Future

Getty Images

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Khi trong người lâng lâng với tình yêu, điều gì xảy ra trong não? Trong nhiều năm, các nhà sinh vật học trả lời rằng 'Oxytocin!'.

Protein nhỏ này - chỉ dài 9 axit amin - đôi khi được gọi là 'hormone yêu thương' vì nó có liên quan tới việc kết đôi, tình mẫu tử và các hành vi xã hội tích cực khác, trong đó có sự yêu thương.

Nhưng gần đây, các nhà thần kinh học đã thay đổi suy nghĩ về oxytocin.

Làm sâu đậm thêm cảm xúc

Các thí nghiệm với chuột và các động vật thí nghiệm khác cho thấy thay vì kích hoạt hành vi kết nối xã hội, phân tử này có thể đơn giản chỉ làm sâu đậm thêm cảm nhận về các tín hiệu xã hội, nhờ đó, chuột học được cách tác động vào hành vi xã hội chính xác hơn.

"Hóa ra nó không đơn giản và rõ ràng kiểu 'oxytocin là tình yêu'," ông Gül Dölen, nhà thần kinh học tại Đại học Johns Hopkins, nói.

Nếu điều đó cũng đúng ở người, thì ngoài những tác dụng khác, nghiên cứu sâu về hệ oxytocin có thể giúp ích cho nỗ lực điều trị các rối loạn xã hội như tự kỷ.

Các nhà thần kinh học từ lâu đã tin rằng việc giải phóng oxytocin trong não có thể được kích hoạt bởi tương tác xã hội giữa những cá thể nhất định, chẳng hạn như giữa cha mẹ với con cái, hoặc giữa những bạn tình với nhau, là đối tượng có vai trò quan trọng đối với chúng ta và các loài khác.

Khi các nhà nghiên cứu thử chặn hoạt động của oxytocin, chuột mất khả năng nhận ra các cá thể quan trọng về mặt xã hội. Điều này cho thấy phân tử này đóng vai trò trung tâm trong học tập xã hội - nhưng các nhà nghiên cứu vẫn chưa biết chính xác oxytocin hoạt động như thế nào.

Điều này đang thay đổi nhờ những tiến bộ trong kỹ thuật khoa học thần kinh, vốn trong những năm gần đây cho phép các nhà nghiên cứu xác định và ghi lại hoạt động của từng neuron tạo oxytocin nằm sâu trong não. Và những kết quả được ghi lại này cho thấy những điều khác với quan điểm cũ - một cách tinh tế nhưng quan trọng.

Ví dụ như trong trung tâm chính về mùi của não chuột, số liệu đo được cho thấy oxytocin ức chế sự tung ra các tế bào thần kinh một cách ngẫu nhiên, ào ạt, do đó cho phép các tín hiệu thần kinh của mùi nổi bật hơn. (Nó làm điều này theo kiểu đảo chiều, bằng cách làm hưng phấn tế bào hạt, là loại tế bào thần kinh ức chế các tế bào thần kinh khác.)

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Oxytocin có thể giúp não chúng ta tập trung vào tín hiệu quan trọng nhất và loại bỏ tiếng ồn

Robert Froemke, nhà thần kinh học từ Trường Y Grossman thuộc Đại học New York, so sánh nghe tiếng trẻ nhỏ khóc giữa tiếng ồn xung quanh với sự hình thành oxytocin trong não chúng ta.

"Tôi có hai con nhỏ," ông nói. "Ngay cả khi tôi đang ngủ sâu ở phòng bật điều hoà nằm cách con tới hai phòng, hễ em bé bắt đầu khóc và ngay lập tức tôi thức dậy và sang trông con, đồng tử giãn ra."

Phản ứng hệ tưởng thưởng

Oxytocin cũng tăng cường phản ứng của hệ thống tưởng thưởng của não, Yevgenia Kozorovitskiy, nhà thần kinh học tại Đại học Northwestern nói. Hiệu ứng này có thể khiến động vật ngưng tìm kiếm những điều mới trong môi trường để hướng tới tập trung vào phần thưởng xã hội.

Ở chuột đồng thảo nguyên chẳng hạn - vốn thu hút các nhà nghiên cứu về tập tính sinh hoạt 'một vợ một chồng', điều hiếm gặp ở các loài gặm nhấm - thay đổi này giúp kết đôi dễ dàng hơn.

Trong số những tác dụng khác, một số tế bào nhạy với oxytocin liên kết mùi của bạn tình với hệ thống tưởng thưởng. "Kết đôi giống như nghiện bạn tình," Young nói. "Bạn tình tự thân có giá trị phần thưởng."

Các loài lăng nhăng, chẳng hạn như chuột và chuột đồng đồng cỏ, thì không có thụ thể oxytocin, nhưng điều đáng kinh ngạc là thứ này lại có trong não người, cho thấy con người chúng ta có thể phản ứng giống như chuột đồng thảo nguyên hơn là chuột. (Phân tử cùng họ với Oxytocin, vasopressin, cũng có vai trò trong việc kết đôi).

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Giống như các loài chuột thảo nguyên, việc kết đôi có thể khiến chúng ta 'nghiện' bạn tình của mình, giảm các hành vi lăng nhăng

Có sự phức tạp nữa ở đây, và nó quan trọng: nếu vai trò thực sự của oxytocin là làm rõ nhận thức cảm thụ liên quan đến xã hội chứ không chỉ thúc đẩy tính xã hội, thì nó có thể có tác dụng khác nhau trong bối cảnh khác nhau. Ví dụ, Young lưu ý, oxytocin tăng cường tình mẫu tử ở chuột - rõ ràng là hành vi xã hội - nhưng nó cũng làm tăng sự hung hăng của chuột mẹ trước kẻ lạ.

Hơn nữa, chuột đồng thảo nguyên cái có phản ứng khác nhau với oxytocin, tùy vào việc chúng đã kết đôi hay chưa, theo phát hiện của Young và các đồng sự.

Ở con cái chưa kết đôi, oxytocin làm giảm độ nhiễu trong hệ tưởng thưởng, cho phép chúng học cách thích mùi của bạn tình tiềm năng. Ở những con cái đã kết đôi, oxytocin tăng cường hệ tưởng thưởng để làm bạn tình có giá trị hơn, do đó làm giảm bớt sự hung hăng của chúng với bạn tình.

Ở con người cũng xảy ra điều tương tự. Trong một nghiên cứu từ năm 2012, 30 đàn ông có quan hệ một vợ một chồng khi được xịt oxytocin vào mũi sẽ giữ ý, duy trì khoảng cách xã hội lớn hơn một chút trước một phụ nữ lạ hấp dẫn so với khi dùng giả dược. Hiệu ứng này không thấy ở nhóm 27 đàn ông độc thân.

Sự phụ thuộc vào bối cảnh của oxytocin có thể làm phức tạp nỗ lực sử dụng hormone này để điều trị rối loạn về tự kỷ. Một số nhà trị liệu đã dùng cách xịt oxytocin lên mũi để điều trị những người tự kỷ, dựa trên lý thuyết hormone này sẽ tăng cường phản ứng trước các kích thích xã hội.

Tuy nhiên, kết quả từ một thử nghiệm lâm sàng lớn mới đây cho thấy việc này không chứng minh được là có đem lại tác dụng gì.

Điều này không gây ngạc nhiên, Young nói, bởi vì thử nghiệm không kiểm soát bối cảnh bệnh nhân được xịt mũi.

Ví dụ, nếu một đứa trẻ bị bắt nạt ở trường, đề xuất điều trị theo cách này rất có thể không có tác dụng tích cực mà thay vào đó có thể khuếch đại trải nghiệm tiêu cực ở đứa trẻ, ông lưu ý. Young cho rằng bất kỳ liệu pháp oxytocin nào cũng cần phải áp dụng cẩn thận để đảm bảo an toàn trị liệu.

Các nhà thần kinh học cũng lưu ý dù oxytocin rõ ràng đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh hành vi xã hội như kết đôi và tình mẫu tử, nhưng nó không phải nhân tố duy nhất.

"Yêu là trải nghiệm cả tâm hồn lẫn thể xác," Kozorovitskiy nói. "Nó có các yếu tố cảm thụ và yếu tố nhận thức, và trí nhớ rất quan trọng. Oxytocin có phải là một trong nhiều yếu tố điều khiển tất cả những thay đổi đó không? Chắc chắn có. Nhưng liệu có thể đặt hết lên oxytocin không? Chắc chắn đó là đơn giản hóa quá mức."