Ukraine – Châu chấu đá xe (1,2 3 )

Thứ Ba, 15 Tháng Mười Một 20228:00 SA(Xem: 2064)
Ukraine – Châu chấu đá xe (1,2 3 )
**************

Ukraine – Châu chấu đá xe (Phần 1)

AdminTD

Dũng Vũ, lược thuật

12-11-2022

Ngày 24-2-2022, quân đội Nga xâm lược Ukraine. Toàn thế giới bất ngờ nhìn thấy đất nước Ukraine tan hoang. Nạn nhân chính là thường dân. Khắp nơi, quân Nga đã bắn phá, thả bom bừa bãi vào nhà dân, bệnh viện, trường học, vườn trẻ. Đường sá, cầu cống, điện nước cũng bị tàn phá. Phụ nữ bị lính Nga hãm hiếp, thường dân bị sát hại nằm la liệt trên đường phố hay bị vùi lấp tạm bợ dưới những mồ chôn tập thể. Hàng triệu người Ukraine phải chạy lánh nạn khắp Âu châu.

1-6-300x172
Nhà dân bị trúng đạn pháo kích của Nga tại Kyiv ngày 14-3-2022. Ảnh: Wikipedia / CC BY 4.0

Vì sao một đất nước yếu đuối, hiền hòa như Ukraine lại bị một đội quân Nga hùng mạnh có vũ khí tối tân và vũ khí nguyên tử ngang nhiên xâm lược?

Tổng thống Putin của Nga biện luận: Nga phải tiến hành một “chiến dịch quân sự đặc biệt”:

1. Để loại trừ quân quốc xã Ukraine đang đàn áp người nói tiếng Nga và diệt chủng dân Nga tại vùng Donbass, đặc biệt là bảo vệ các nước Cộng hòa Nhân dân tự xưng Luhansk và Donetsk nơi có nhiều dân Nga và người nói tiếng Nga sinh sống.

2. Để giải trừ một chính phủ quốc xã, tay sai Tây phương.

3. Để giải giới Ukraine đang làm chủ “vũ khí hủy diệt hàng loạt” và muốn chế tạo vũ khí nguyên tử.

4. Để lập lại một “nước Nga mới” như thời đế chế Sa hoàng vì Ukraine vốn thuộc về Nga, chỉ là những “người Nga nhỏ” chưa bao giờ có nhà nước hoặc quốc gia.

5. Mặt khác, phải bảo vệ nước Nga vì Tây phương muốn kết nạp Ukraine vào NATO, tiếp tục mở rộng về phía Đông để tiêu diệt Nga.

Đó là những lý do chính để Putin xua quân xâm lược Ukraine, vi phạm chủ quyền nước láng giềng, bất chấp luật pháp quốc tế, thế nhưng, những lý lẽ của Putin có phải là sự thật hay chỉ là sự giả dối hoặc những ý nghĩ vĩ cuồng?

Để hiểu câu chuyện chúng ta hãy tìm hiểu sơ về lịch sử Ukraine.

***

Nước Ukraine

Nước Ukraine ngày nay từng là thuộc địa của hơn 10 nước, đặc biệt là Vương quốc Ba Lan-Litva, Đế chế Nga, triều quân chủ Habsburg (Áo) và Liên Xô. Vì thế mà Ukraine thường không được hiểu là một quốc gia có nguồn gốc và phát triển một cách độc lập liên tục, chẳng hạn như Pháp. Tuy nhiên không chỉ Ukraine mà nhiều quốc gia khác cũng thế, ví dụ như Ý, Đức và cả Việt Nam.

Suốt lịch sử xây dựng đất nước, người Ukraine đã bị nhiều quốc gia có thế lực làm khó dễ, đặc biệt là Ba Lan và Nga, từ xưa cho đến nay ít nhiều đã phủ nhận sự tồn tại của “quốc gia Ukraine”. Đối với sử học tựa vậy: Việc mô tả về Ukraine luôn luôn bị thách thức bởi những cách diễn giải khác biệt về lịch sử Ukraine từ phía Ba Lan và Nga.

Cái tên Ukraine có nghĩa là “vùng biên giới”; biên giới giữa những vùng thảo nguyên mênh mông, biên giới giữa người bản xứ và dân du mục. Đây là nơi sinh sống của người Cossack được ví như tiền nhân của nguời Ukraine. Theo cách hiểu hiện đại, Ukraine đã xuất hiện như một vùng đất giao thoa giữa Đông và Tây, giữa Chính Thống Giáo và thế giới Công Giáo La Mã. Nhà thờ St. Sophia ở Kyiv với những bức tranh khảm Byzantine bên trong và phong cách Baroque bên ngoài đã nói lên ý nghĩa này.

1-7-300x181

Nhà thờ St. Sophia ở Kyiv Federica Leone. Nguồn: https://whc.unesco.org

Khoảng 95% lãnh thổ Ukraine là vùng đồng bằng phía Đông Âu châu, dường như không có ranh giới tự nhiên ngoài bờ Biển Đen ở phía Nam và rặng Carpathians hiểm trở ở phía Tây. Phía Đông và Bắc giáp với Nga, Belarus và Ba Lan, gần như để mở. Chính vì thế mà đây là chốn giao lưu của giới lái buôn, đồng thời là bãi chiến trường của những cuộc xung đột đẫm máu.

Đất đai Ukraine chia thành nhiều vùng dựa vào thiên nhiên và lịch sử. Tây Ukraine có vùng Galicia, Bắc Bukovina và Carpathian-Ukraine. Volhynia, Podolia và vùng giữa Dnepr bao gồm thủ đô Kyiv, trung tâm Ukraine. Nam Ukraine là Bắc Biển Đen có hải cảng Odessa và bán đảo Crimea. Các vùng nhỏ miền Đông Ukraine là Donbass (Donetsk), Sloboda Ukraine (Kharkiv) và vùng hạ lưu Dnieper (Dnipropetrovsk). Những con sông khá quan trọng, nhất là sông Dnepr, chia cắt Ukraine. Từ đầu thời Trung Cổ, nó đã là một “con đường thương mại” tấp nập chạy từ Baltic xuống Biển Đen, băng qua thành phố Kyiv.

Hầu hết mọi miền đều có đất đen màu mỡ, rất tốt cho những loại cây lương thực (lúa mì, bắp, hoa hướng dương). Khí hậu ôn đới cũng góp phần, mặc dù vùng thảo nguyên tương đối ít mưa. Tài nguyên dồi dào nhất là những mỏ than ở lưu vực Donets (Donbass) và mỏ sắt ở hạ lưu Dnepr. Vì lý do này, Đế chế Nga đã muốn biến nơi này thành khu kỹ nghệ.

Đế chế Kyivan Rus: tiền thân của nước Ukraine

Vào thời xa xưa, miền Nam Ukraine ngày nay là nơi các dân tộc thảo nguyên từ Á châu di cư sang Âu châu sinh sống. Dọc bờ Biển Đen, người Hy Lạp và người La Mã đã thiết lập những vùng thuộc địa của mình. (Nghĩa là ngay từ đầu, Ukraine đã là vùng đất đa dân tộc). Cuối thế kỷ thứ 9, các chiến binh Norman và lái buôn người Rus đã thành lập bên sông Dnepr một “tập đoàn thống trị” được đặt tên theo họ Rus và lấy Kyiv làm kinh đô. Đế chế Kyiv là một trung tâm thương mại. Văn hóa Chính Thống Giáo (hội họa, văn chương, kiến ​​trúc) đã trải qua một thời hưng thịnh với tu viện “Đức Mẹ Thăng Thiên” Kyiv nổi tiếng.

Người Rus là một tập thể lỏng lẻo gồm nhiều công tước dưới triều đại Ryurikid, đứng đầu là hoàng tử Kyiv. Trong nửa đầu thế kỷ 13, toàn lãnh thổ Rus bị quân Mông Cổ “Kim Trướng hãn quốc” (Goldene Horde) chiếm đóng, nhiều thành phố bị thiêu hủy. Kyiv thất thủ vào năm 1240.

Lãnh thổ Kyivan Rus là những gì ngày nay gọi là Ukraine, Nga và Belarus. Lịch sử Kyivan Rus được coi như huyền thoại đã khai sinh ba nhà nước ấy. Ukraine và Nga vẫn tranh giành nhau cái di sản chung ấy cho đến tận bây giờ. Tự sự quốc gia Ukraine thì nói “Kyiv thuộc về Ukraine” và là “thực thể nhà nuớc” thời sơ khai của Kyiv. Nhưng tự sự Nga thì nói ngược: Đế chế Kyiv là tiền thân của đế chế Nga và nhà nước Moscow, nghĩa là Kyiv thuộc về Nga chứ chẳng phải thuộc về Ukraine. Nói cách khác, trong khi Ukraine chủ yếu khẳng định các lý lẽ về lãnh thổ và coi mình là nguồn gốc của Nga, thì phía Nga chủ yếu đề cập đến thực tế rằng, các sa hoàng Nga cho đến cuối thế kỷ 16 cũng là hậu duệ trực tiếp của Kyiv Ryurikid.

Sự cãi cọ lại bùng lên trong những năm gần đây và tổng thống Nga Putin cũng lên tiếng. (Vấn đề bất đồng ý kiến về dân tộc là một trong những yếu tố dẫn đến cuộc chiến xâm lược Ukraine mà Putin đang tiến hành, với luận điệu như thể Ukraine vốn thuộc về Nga và bây giờ phải đem quân lấy lại). Tóm lại, lịch sử đã ghi chép người Rus là tổ tiên của người Ukraine. Và người Nga cũng giành phần “Rus là tổ tiên của mình”.

Ukraine: thuộc địa của Vương quốc Ba Lan-Litva thế kỷ 14-18

Sau khi Kyivan Rus bị người Mông Cổ chinh phục, người Rus chia thành 3 nhóm sắc tộc: Nga, Ukraine và Belarus. Trong khi người Nga vẫn bị người Mông Cổ cai trị, thì người Ukraine và người Belarus trở thành thần dân của xứ Litva và Ba Lan. Vào thế kỷ 14, các Đại công tước của Litva lãnh quyền thừa kế Kyivan Rus và cai quản hầu hết lãnh thổ Ukraine bao gồm cả Kyiv. Hai thế kỷ sau, toàn thể Ukraine được hợp nhất vào Vương quốc Ba Lan.

Ba bốn thế kỷ kế tiếp, mọi nơi có người Ukraine sinh sống đều thuộc về Ba Lan-Litva. Vào lúc này Ukraine chịu ảnh hưởng của Tây phương qua trung gian Ba Lan. Nhà tư tưởng chính trị người Ukraine Mykhailo Drahomanov (1841–1895) đã viết: “Hầu hết sự khác biệt về quốc gia giữa Ukraine và Đại công quốc Moscow có thể giải thích được theo thực tế là, cho đến thế kỷ 18, tức là lúc Nga bắt đầu cai trị Ukraine, thì Ukraine đã gắn bó với Tây Âu nhiều hơn là với Nga“. Những ý kiến ​​như vậy là bằng chứng được lấy làm lý do cho việc tái ký kết với EU hôm nay. Nói ngắn gọn, trong lịch sử, miền Tây và trung tâm Ukraine bị Litva và Ba Lan đô hộ lâu hơn Nga nhiều.

Người Cossack Ukraine

Vào thế kỷ 16, khi xảy ra xung đột với người Tatars ở Crimea, quân đội Cossack đã ra đời từ những nhà nông và những nhà thám hiểm đang trốn chạy. Phần lớn các nhóm chiến binh nằm ngoài vòng kiểm soát của nhà vua và giới quý tộc. Họ tự tổ chức một nề nếp “quân sự-dân chủ” riêng theo “chủ nghĩa bình đẳng”. Những phe nhóm và hội đồng người Cossack bầu ra người lãnh đạo: Hetman hoặc Ataman. Người Cossack phục vụ vua Ba Lan với tư cách là lính biên phòng và lính đánh thuê, đồng thời tổ chức những cuộc đột kích chống lại người Ottoman Hồi Giáo.

Năm 1648, quân Cossack dưới sự lãnh đạo của Hetman Bohdan Khmelnytskyi (1595-1657) đã khởi xướng một phong trào quần chúng chống lại ách thống trị của Ba Lan. Quân Cossack đã giải phóng gần hết Ukraine và thiết lập một tập đoàn thống trị độc lập gọi là Hetmanate, có chính quyền quân sự riêng theo mô hình Cossack; nông dân được tuyên bố là người Cossack tự do; giáo hội Chính Thống Giáo được hưởng nhiều đặc quyền.

1-8-245x300
Huy hiệu Hetman người Cossack. Ảnh: Wikimedia CC-BY-SA-3.0

Suốt cuộc chiến giành độc lập chống lại Ba Lan (1654), Khmelnytskyi và Zaporozhian Cossacks đã đứng về phía Nga và được Sa Hoàng giúp đỡ. Trong khi người Cossack coi Nga như một “ân nhân” tạm thời giúp đỡ mình thì Sa hoàng Nga lại coi đó là sự phục tùng Nga.

Những cách diễn giải trái ngược nhau vẫn tồn tại cho đến ngày nay. Bản tự sự quốc gia-Ukraine đã nhấn mạnh sự độc lập của Hetmanate, nghĩa là lãnh thổ dưới sự cai trị của người Cossack là quốc gia đầu tiên của Ukraine, nhưng theo tự sự của Nga, Nga coi thỏa thuận Pereiaslav đã ký kết với quân Cossacks vào năm 1654 là giai đoạn đầu trong việc “tái thống nhất” nước Nga từ cuộc xâm lăng của Mông Cổ, đã tách rời Ukraine ra khỏi nước Nga.

Năm 1667, sau một cuộc chiến kéo dài, hai nhà nước Nga và Ba Lan-Litva đã chia cắt Ukraine: Phần Hetmanate ở tả ngạn Dnepr bao gồm Kyiv thuộc về Nga, phần kia ở hữu ngạn vẫn thuộc về Ba Lan.

Nửa đầu thế kỷ 18, Hetmanate mất dần quyền tự chủ và cuối cùng cũng bị Nữ sa hoàng Catherine II (người gốc Đức) giải tán. Huyền thoại Cossack ngày nay vẫn còn nhiều ảnh hưởng, cụ thể gần đây nhất là đối với cuộc “Cách Mạng Cam” Maidan (Kyiv). Quốc ca Ukraine kết thúc với điệp khúc: “Душу й тіло ми положим за нашу свободу,  покажем, що ми, браття, козацького роду.” (“Chúng tôi sẽ cống hiến linh hồn và thể xác vì tự do của mình, và chúng tôi sẽ chứng tỏ rằng chúng tôi, những người anh em, thuộc giống nòi Cossack“).

Ukraine là thuộc địa của Đế chế Nga trong thế kỷ 19

Đế chế Nga trong thế kỷ 18 là một cường quốc đã không ngừng xâm chiếm các nước láng giềng yếu ớt theo chiến thuật “bóc vỏ cam”. Qua ba lần chia cắt Ba Lan (1772, 1793, 1795), miền Tây Hetmanate ngày trước đã rơi vào tay Nga, trong khi vùng Galicia rơi vào tay Áo. Sau nhiều lần đánh nhau với Đế quốc Ottoman (Thổ), Nga chiếm được vùng thảo nguyên phía Bắc Biển Đen và Crimea. (Hiện tại, Crimea bị sáp nhập vào Nga kể từ năm 2014).

1-9-300x192
Bản đồ Crimea năm 2014. Ảnh: Wikipedia / Maximilian Dörrbecker (Chumwa)

Crimea là một bán đảo nằm ở cực Nam Ukraine giữa Biển Đen và Azov:  Từ thời cổ đại người Tauri và Cimmeria đã có mặt tại đây. Sau khi Hy Lạp chiếm vùng Biển Đen làm thuộc địa, người Scythia cũng di cư tới nơi này. Lần lượt Crimea thuộc quyền cai trị của Đế quốc La Mã (63 TCN–341), người Goth (250), người Huns (376), người Bulgars (thế kỷ 4-8), người Khazars (thế kỷ 8). Đến thời trung cổ thì có Đế quốc Byzantine, Kievan Rus, Trebizond , Venetians, Genovese.

Vào giữa thế kỷ 10, miền Đông Crimea bị Hoàng tử Sviatoslav I của đế chế Kyiv chinh phục và trở thành một phần của công quốc Tmutarakan thuộc Kievan Rus (tiền thân Ukraine). Kievan Rus đã giành được bán đảo này từ tay người Byzantine. (Như vậy, Crimea đã từng thuộc về Ukraine).

Đến đầu thế kỷ 13, quân Mông Cổ “Kim Trướng hãn quốc” (Goldene Horde) đánh Kievan Rus. Đế chế Kyiv mất Crimea. Mùa Hè năm 1238, Batu Khan tàn phá bán đảo Crimea rồi tiến đánh Kyiv, năm 1240. Quân Mông Cổ chiếm đóng Crimea hai thế kỷ liền (1239-1441).

Tới thời Hãn quốc Krym (1443–1783), Crimea bị người Hồi giáo Tatar thống trị, rồi cả người hồi giáo Ottoman và Cossack (tổ tiên người Ukraine). Thuở đầu người Tatar từ Crimea thường tấn công vào “Cánh đồng hoang” (Wild fields) miền Nam Ukraine để bắt nô lệ đem bán. Vào những năm 1553–1554, vị Hetman (Cossack) Dmytro Vyshnevetsky đã quy tụ nhiều nhóm Cossack tấn công người Tatar và người Thổ Ottoman. Năm 1774, Nữ sa hoàng Catherine II đánh bại Đế chế Ottoman, chiếm Crimea và sáp nhập vào Đế chế Nga vào năm 1783.

Sau chiến thắng của Hồng quân phe Bolshevik (của Lenin) trong cuộc nội chiến Nga (1917-1923) chống lại Bạch quân của phe Đế chế Nga cũ, Crimea bị sáp nhập vào Nga Xô (nước Cộng hòa Liên bang Xô viết Xã hội chủ nghĩa Nga) thuộc Liên bang Xô viết trong 5 năm. Thế chiến thứ hai bùng nổ, Đức chiếm Crimea. Năm 1944, Stalin cho Hồng quân tái chiếm bán đảo này. Crimea mất quyền tự trị và trở thành một tỉnh của Nga Xô. Năm 1954, Khrushchev sáp nhập Crimea vào Cộng hòa Xô viết Ukraine. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Crimea vẫn thuộc về Ukraine. Tóm lại từ xa xưa, trước khi người Nga tới bán đảo Crimea, nó đã từng thuộc về nhà nước Kyivan Rus, tiền thân của Ukraine.

Vùng Nam Ukraine, tên hành chính Nga gọi là “Nước Nga mới”, truớc đó ít người ở, từ từ trở thành chốn an cư lạc nghiệp của những người nông dân Ukraine và Nga cùng với giới “thực dân” từ Đức, Romania và miền Nam Slavs. Một số dân quý tộc là chủ nhân của nhiều vùng đất đai rộng lớn, có đầy tớ người Ukraine. Vùng đất màu mỡ miền Nam Ukraine là vựa lúa quan trọng nhất của Đế chế Nga, đã góp phần vào việc xuất cảng ngũ cốc. (Năm 2014 Putin đã hồi sinh cái tên “Novorussia” (“Nước Nga mới”) nhằm tô điểm thêm cho các tuyên bố chủ quyền của Nga đối với miền Đông và miền Nam Ukraine).

Vùng Đông Nam Ukraine ngày nay chỉ mới phát triển vào cuối thế kỷ 19. Trên nền đất giàu mỏ than tại Donbass và mỏ sắt nằm giữa đoạn Dnepr, những khu kỹ nghệ mọc nhanh như nấm, đã trở thành động lực chính trong cuộc kỹ nghệ hóa của Sa hoàng Nga. Đất lành chim đậu, công nhân Nga đổ xô về khu kỹ nghệ này lập nghiệp. (Điều này cắt nghĩa tại sao khu phía Đông Ukraine có nhiều cư dân người Nga và Putin muốn chiếm lãnh vùng này). Kỹ nghệ tập trung tại đây nhưng hành chính và thương mại thì tập trung tại Kyiv. Nhiều tuyến đường sắt nối nhiều thành phố lớn và trung tâm nước Nga. Ba trong số 10 đại học của Đế chế Nga nằm ở Kharkiv, Kyiv và Odessa.

Miền Nam và miền Đông Ukraine với dân cư đa sắc tộc đã trải qua một cuộc đô thị hóa và hiện đại hóa nhanh chóng trong thế kỷ 19. Tuy nhiên quá trình hiện đại hóa Ukraine đã diễn ra hầu như không có người Ukraine, phần lớn vẫn là những nông dân nghèo, chất phác. Khoảng 87% người Ukraine cuối thế kỷ 19 sống nhờ nghề nông. 68% nam giới trên mười tuổi không biết đọc và phụ nữ thậm chí là 95%. Đại đa số không có ruộng đất. Đất đai hầu hết nằm trong tay giới quý tộc người Nga, Ba Lan, Do Thái, Đức. Đất đai ngày càng bị thu hẹp khi kỹ nghệ mọc lên và dân số gia tăng từ sự nhập cư mà đa số là người Nga. Nhiều nông dân Ukraine không cạnh tranh nổi với người Nga, phải bỏ xứ đi tới những vùng đất Nga xa xôi phía Á châu sinh sống.

Theo thống kê dân số, năm 1897 tại những thành phố lớn, người Nga, Do Thái, Ba Lan chiếm đa số, người Ukraine chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ: 26% ở Kharkiv, 22% ở Kyiv và 9% ở Odessa. Hầu hết người Ukraine tại thành thị thuộc giới lao động nghèo khổ; một số ít vươn lên được thường bị Nga hóa. Mặt khác, phần lớn người Nga, Do Thái, Ba Lan đứng đầu bảng trong giới thượng lưu, quý tộc; người Nga gốc Ukraine đứng chót.

Stuttgart, ngày 1-11-2022

(Còn nữa)


*************

Ukraine – Châu chấu đá xe (Phần 2)


Dũng Vũ, lược thuật

Người Nga nhỏ (1860–1917)

Chính quyền Nga và xã hội Nga không muốn “Người Nga nhỏ” (tức người Ukraine, như tên gọi chính thức) có một quốc gia riêng mà chỉ muốn họ là một phần tử thuộc về quốc gia “Chính Thống Giáo toàn Nga” bao gồm “người Nga lớn” (người Nga), “người Nga nhỏ” (người Ukraine) và “người Nga trắng” (người Bạch Nga (Belarus)). Tiếng Ukraine chỉ được xem như một phương ngữ Nga, lịch sử Ukraine chỉ là một phần của lịch sử Nga.

Năm 1863, nhà công luận Nga Mikhail Katkov (1818–1887) đã ngạo mạn khẳng định: “Ukraine chưa bao giờ có lịch sử riêng, chưa bao giờ có nhà nước riêng, dân tộc Ukraine luôn là một dân tộc thuần Nga. Nếu không phải vậy thì dân tộc Nga không thể như bây giờ“.

Bất cứ phong trào dân tộc Ukraine nào vừa thành hình, chính phủ Nga đã thẳng tay ngăn chặn sự ly khai của “người Nga nhỏ” khỏi người Nga. Năm 1863 và 1876, hai sắc lệnh cấm phát hành các tác phẩm viết bằng tiếng Ukraine, cấm trường học tiếng Ukraine, cấm trình diễn sân khấu và diễn thuyết.

Trong nửa sau của thế kỷ 19 thời Đế chế Nga, các phong trào đối lập tự do và xã hội chủ nghĩa nở rộ đã thu hút quần chúng Ukraine và giới lãnh đạo (thường là người Nga hoặc người Ukraine theo Nga và người Do Thái). Tột đỉnh của các phong trào là cuộc cách mạng năm 1905. Nông dân nổi dậy, công nhân kỹ nghệ đình công. Chế độ Sa hoàng đứng bên bờ vực thẳm;  Sa hoàng Nicholas II buộc phải nhượng bộ, tuy vậy, vẫn ương ngạnh và độc đoán. Tháng 2 năm 1917: Đế chế Sa hoàng Nga sụp đổ.

Chiến tranh, Cách mạng và Cộng hòa Nhân dân Ukraine

Năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ, Ukraine đứng về phe Áo-Hung/Nga. Chiến tranh đã làm sụp đổ cả hai đế chế này. Tháng 2 năm 1917, một cuộc cách mạng đã quét sạch Sa hoàng. Vào tháng 3, một tổ chức mệnh danh là “Hội đồng trung ương” (Central Rada) dựa vào mô hình Cossack, do Hrushevsky làm chủ tịch, đã nhóm họp tại Kyiv và vào tháng 6, đòi hỏi Ukraine được quyền tự trị. Năm 1917, một cuộc cách mạng nông nghiệp đã diễn ra tại Ukraine và nông dân đã chiếm đoạt đất đai của giới quý tộc. Sau cuộc Cách mạng tháng 10 của Lenin, người Bolshevik lên nắm quyền, thành lập chính phủ Xô Viết tại Kharkiv và chuẩn bị chinh phục Kyiv. Ngày 12-1-1918, “Hội đồng trung ương” tuyên bố Cộng hòa Nhân dân Ukraine là nước độc lập.

Tháng 2 và tháng 3 năm 1918, quân đội Đức, Áo-Hungary chiếm Ukraine và dựng nên tại Kyiv một chính phủ dưới quyền của Pavlo Skoropadskyj (1873–1945), vị Hetman cuối cùng của Ukraine. Nhiệm vụ chính của nhà nước (gọi là Hetmanate) là cung cấp ngũ cốc cho Đức và Áo-Hungary. Nhưng chế độ bảo thủ này không được lòng dân. Theo Hòa ước Brest-Litovsk 1918, chính phủ Liên Xô của Lenin phải công nhận nền độc lập của Ukraine. Sau sự thất bại của các cường quốc Trung tâm, Cộng hòa Nhân dân Ukraine một lần nữa lại được tuyên bố độc lập tại Kyiv dưới sự điều hành của một hội đồng quản trị gồm có nhà dân chủ xã hội ôn hòa Symon Petlyura (1879–1926) một người rất được tín cậy. Gần như cùng lúc đó, một nước Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraine cũng tuyên bố độc lập nhưng không thể chống lại quân đội Ba Lan. Vùng Galicia (cộng thêm vùng phía Tây Volhynia) lại bị Cộng hòa Ba Lan chiếm đóng. Đồng thời quân Romania chiếm Bukovina, quân Tiệp Khắc chiếm Carpatho-Ukraine.

Hội đồng quản trị Cộng hòa Nhân dân Ukraine bắt đầu xây dựng một nhà nước nhưng tình hình quân sự quá bấp bênh, không thể kiểm soát hết Ukraine. Liên Xô không còn công nhận nền độc lập của Ukraine. Hồng quân đã chiếm đóng Kyiv nhiều lần vào năm 1919 và 1920. Rồi một cuộc chiến đẫm máu đã xảy đến. Cuối cùng Hồng quân Nga chiến thắng, biến Ukraine thành một xứ Cộng hòa Xô viết. Rốt cuộc người Ukraine đã thất bại trong việc xây dựng một nhà nước bền vững sau Thế chiến thứ nhất.

Cộng hòa Xô Viết Ukraine: đói và khủng bố

Năm 1921, sau khi quân Bolshevik kết thúc cuộc chiến với Ba Lan và củng cố quyền lực, họ đã xây dựng một nhà nước Xô viết (Liên Xô) vào năm 1922 dựa vào ngôn ngữ và dân tộc. Theo đó, Ukraine gồm những vùng có đa số dân cư người Ukraine đã trở thành một nước gọi là “Cộng hòa Xô viết Ukraine” thuộc về Liên Xô. Mặc dù quyền lực của nhà nước chư hầu Ukraine vẫn còn hạn chế và phải phục tùng sự cai trị của đảng, nó vẫn là “hạt nhân” của mô hình “quốc gia-nhà nước” ngày nay. Trong nước “Cộng hòa Xô viết Ukraine”, tiếng Ukraine trở thành ngôn ngữ chính và ngôn ngữ học đường. Thế nhưng đến thời Joseph Stalin, các nước chư hầu Cộng hòa thuộc Liên Xô bị kiểm soát chặt chẽ; tiếng Nga trở thành ngôn ngữ chính, tiếng Ukraine lại bị coi là ngôn ngữ phụ. Giống thời Đế chế Sa hoàng, người Ukraine muốn vươn lên, phải chấp nhận bị Nga hóa.

Các cuộc thanh trừng của Stalin đã diễn ra vào thập niên 1930 và giới tinh hoa mới bị tiêu diệt. Đa số người Ukraine và người Ba Lan sống ở Ukraine đã trở thành nạn nhân (nhiều hơn so với người Nga). Cuộc thanh trừng bắt đầu với làn sóng đàn áp người bị coi là theo chủ nghĩa dân tộc tư sản. Tiếp theo là “Cuộc khủng bố lớn”  kinh hoàng vào những năm 1937-1938. Hàng triệu người Ukraine đã bị Stalin tống vào tù và trại lao động khổ sai gọi là Gulag. It nhất 500.000 người đã thiệt mạng.

Nền nông nghiệp bị tập thể hóa chỉ trong vòng vài năm. Stalin muốn kiểm soát nông dân và cưỡng bức họ gia tăng sản xuất ngũ cốc. Ruộng đất bị quốc hữu hóa và nông dân biến thành những nhà nông bần cùng trong các nông trường tập thể. Nhiều nông dân Ukraine đã chống lại các biện pháp cưỡng chế và đã bị hành quyết hoặc bị tống giam vào nhà tù Gulag. Nhà nước đã thi hành một cách tàn nhẫn việc cưỡng bức giao nộp ngũ cốc và cướp hết kho hàng, hạt giống của nông dân. Kết quả là một nạn đói khủng khiếp đã giết chết khoảng 3 triệu nông dân Ukraine chỉ trong hai năm 1932-1933. Dù nạn đói cũng hoành hành tại những nơi khác của Liên Xô nhưng hơn một nửa tổng số nạn nhân lại là người tại Ukraine.

1-10-300x153
Nông dân chết đói trên đường phố Charkiw 1933. Nguồn: Wikimedia / Alexander Winerberger

Ngày nay sự giải thích về nạn đói (Holodomor) vẫn còn nhiều bất đồng ý kiến. Tại Liên Xô, nó đã bị giấu kín. Mãi đến cuối thập niên 1980, tấm áo choàng im lặng mới được vén lên. Giới sử học xác nhận nạn đói đó là do Stalin gây ra. Phần lớn các nhà sử học công nhận chính sách không tin tưởng của Stalin đối với nông dân Ukraine đang chết đói là vô cùng tàn nhẫn. Thế giới chính thức gọi đó là tội ác diệt chủng người dân Ukraine và hiện tại vẫn mãi là chủ đề của các cuộc tranh cãi lịch sử – chính trị giữa Ukraine và Nga. Nga vẫn chối bỏ trách nhiệm. Gần đây, 19.10.2022, sau khi chiếm được thành phố Mariupol, quân Nga đã phá bỏ đài tưởng niệm nạn đói Holodomor.

Ukraine trong Thế chiến thứ hai

Ukraine là một trong những sân khấu chính của Thế chiến thứ hai với những đau khổ khôn lường. Khoảng 6,5 đến 7,5 triệu người Ukraine đã chết, hơn 1/5 tổng dân số; số thương vong của thường dân cao gần gấp đôi số quân nhân.

Mùa Thu năm 1939, theo hiệp ước Hitler-Stalin, Hồng quân Liên Xô được chiếm đóng miền Đông Ba Lan (gồm Đông Galicia và Tây Volhynia). Mùa Hè 1940, Romania bị Liên Xô buộc nhượng lại phía Bắc Bukovina. Mọi khu đều bị sáp nhập vào Liên Xô.

Sự kiện Đức xâm lược Liên Xô có nghĩa là vào tháng 11 năm 1941, toàn cõi Ukraine đã bị quân Đức và Romania chiếm đóng. Một nhóm rất nhỏ người theo chủ nghĩa dân tộc Ukraine (OUN) đã lợi dụng thời cơ, ngả theo Đức với hy vọng thành lập một nhà nước Ukraine độc ​​lập. Họ lập ra “Quân đội nổi dậy Ukraine” (UPA) để chống Liên Xô và cả cư dân Ba Lan ở phía Tây Volhynia và Galicia. (Từ đây Putin đã viện cớ Ukraine xưa nay là vùng đất người theo chủ nghĩa dân tộc chống Nga, điển hình là nhóm chiến binh cực hữu Asov bây giờ, cho nên phải đánh Ukraine, tiêu diệt họ. Chưa hết, Putin còn đổ thừa chính quyền Ukraine theo chủ nghĩa dân tộc và cần phải diệt trừ)

Chính sách chiếm đóng của Đức quốc xã ngay lập tức đã làm mọi hy vọng thành lập một nhà nước Ukraine tan thành mây khói. Ukraine được Đức “giao nhiệm vụ” của một xứ thuộc địa là phải đem lại lợi ích cho nền kinh tế Đức trong thời chiến. Erich Koch, Ủy viên Quốc hội tại Ukraine, tuyên bố vào tháng 8 năm 1942: “Không có cái gọi là Ukraine tự do. Ukraine được phép làm một điều là “cung cấp những gì Đức thiếu. Phải thực hiện nhiệm vụ này mà không được kể đến tổn thất …”, “Trình độ học vấn của người Ukraine phải được giữ ở mức thấp …”, “Bằng mọi cách phải đè bẹp tỷ lệ sinh sản …”. Lãnh tụ Đức đã đưa ra kế hoạch thực hiện các biện pháp đặc biệt này.

Hơn 2 triệu người Ukraine đã bị chở tới Đức để lao động khổ sai. Hàng trăm ngàn người Ukraine đã chết dưới sự giam cầm của Đức. Hầu hết người Do Thái ở Ukraine không thể chạy trốn vào Liên Xô, đã bị nhóm mật vụ SS Đức tàn sát. Vụ giết hại hơn 30.000 người Do Thái trong khe núi Babyn Jar ở Kyiv vào ngày 29 và 30.09.1941 đã trở thành một biểu tượng thảm sát tiêu biểu. Hầu hết người dân Ukraine không hợp tác với kẻ chiếm đóng ngoài sự chịu đựng những khổ đau. Hàng triệu người Ukraine đã chọn đứng về phía Hồng quân Liên Xô để chống lại Đức.

Sau khi Hồng quân Liên Xô tái chiếm Ukraine kể từ tháng 8 năm 1943 cho đến tháng 10 năm 1944, tất cả mọi nơi có người Ukraine sinh sống đã được thống nhất thành một nhà nước gọi là “Cộng Hòa Xô Viết Ukraine”. Những vùng phía Tây Ukraine lần đầu tiên trở thành vùng đất do Nga thống trị. Sự kiện này được Nga ca ngợi là “sự thống nhất” của nhân dân Ukraine. Một chương trình “thanh lọc sắc tộc” cũng được thực hiện. Hầu hết người Ba Lan được đưa về tái định cư tại Ba Lan và 500.000 người Ukraine từ Ba Lan trở về Ukraine. Khoảng 200.000 người ở miền Tây Ukraine bị coi như không đáng tin cậy về mặt chính trị đã bị trục xuất đến vùng Tây Bá Lợi Á đầy băng giá.

Thế chiến thứ hai hôm nay đã thuộc về những bãi chiến trường của ký ức lịch sử. Tại Nga, chính quyền vẫn ca ngợi tối đa, chiến thắng của Liên Xô chống Đức Quốc xã là một huyền thoại quốc gia, một “cuộc chiến Vệ quốc Vĩ đại” của người Nga. Ngược lại, một số người ở miền Tây Ukraine coi Thế chiến thứ hai là cuộc chiến giải phóng chống Liên Xô và tôn vinh những người lãnh đạo của họ chẳng hạn Bandera là “người hùng”. Đây chính là cái cớ để Nga tuyên truyền bôi nhọ, rằng chính phủ Ukraine năm 2014 là “phát xít”.

Ukraine sau Thế chiến thứ hai

Năm 1945, Ukraine bị tàn phá gần hết. Việc làm cần gấp là tái thiết những thành phố, nền kỹ nghệ và nông nghiệp. Người dân đã đổ máu nhiều vì chiến tranh nay tiếp tục sống trong cảnh đói nghèo cay đắng. Những vùng phía Tây Ukraine cuối cùng cũng bị đưa vào “vòng trật tự” của nhà nước Xô viết. Nông nghiệp được hợp tác xã hóa, kỹ nghệ và hệ thống trường dạy tiếng Ukraine được xây dựng. Năm 1946, Giáo hội Công Giáo Hy Lạp bị buộc phải giải tán và chỉ có thể tồn tại bí mật trong nhóm di dân.

Sau cái chết của Stalin, người lãnh đạo mới của đảng Cộng sản Liên xô, Nikita Khrushchev (1894–1971), từng là Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Ukraine gần mười năm, tiếp tục nắm quyền trong những năm 1920. Dân Ukraine giờ đây may mắn có được những người Ukraine mạnh mẽ nằm trong các cơ quan đảng và nhà nước và có thể vươn lên các vị trí lãnh đạo. Sự thất sủng Stalin ít nhiều đã làm giảm áp lực chính trị và trả tự do cho hầu hết các tù nhân. Những cố gắng phát triển nhà nước phúc lợi, thúc đẩy kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng và nhượng bộ nông dân dần dần đã đem lại một mức sống cao hơn. Sân chơi văn hóa cũng rộng rãi hơn và giới trí thức Ukraine được nhiều cơ hội hoạt động để phát huy ngôn ngữ Ukraine. Những nỗ lực này ngày càng gia tăng suốt những năm 1960, thậm chí còn được sự ủng hộ của người lãnh đạo đảng Cộng sản Ukraine lúc bấy giờ là Petro Schelest (1908-1996). Song đến đầu thập niên 1970, ông đã bị chỉ trích về đường lối quá cởi mở đối với dân Ukraine và bị khai trừ. Volodymyr Shcherbytskyi (1918–1990), người kế nhiệm ông lên thay. Một cuộc “thanh trừng” đã nổ ra nhắm vào đảng viên và giới trí thức. Xu huớng Nga hóa trong các trường học và sách vở gia tăng trở lại. Người dân ở các thành phố Ukraine kể từ đó nói tiếng Nga là chính, tiếng Ukraine chỉ còn thấy ở vùng quê và miền Tây Ukraine.

Sự Nga hóa mãi tiếp diễn là lý do khiến phe đối lập tại Ukraine lên tiếng. Giới trí thức thành thị đòi hỏi cải thiện tình trạng người Ukraine, đồng thời chống lại quan điểm thống trị của phe nhóm “dĩ Nga vi trung” về lịch sử. Ngoài mối quan tâm về văn hóa còn có thêm những đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền. Mặc dù đó chỉ là những nhóm đối lập nhỏ, chính quyền vẫn thẳng tay đàn áp; nhiều người bị bắt giam.

Perestroika và phong trào độc lập

Sau khi Mikhail Gorbachev khởi sự cuộc “Đổi mới” (Perestroika) Liên Xô vào năm 1985, thì tại Ukraine chẳng thấy thay đổi gì mấy. Sau thảm họa nhà máy điện nguyên tử Chernobyl (phía Bắc thủ đô Kyiv) vào đầu năm 1986, nhiều nhóm lớn mới bắt đầu rục rịch. Chỉ đến khi hệ thống Liên Xô sụp đổ vào cuối thập niên 1980, các phong trào đối lập chính trị mới thực sự thành hình. Đầu tiên là những người đến từ miền Tây Ukraine. Năm 1989, nhiều nhóm đối lập khác nhau đã tập hợp lại thành một “Phong trào Nhân dân” do cựu tù nhân chính trị Vyacheslav Chornovil (1937–1999) lãnh đạo. “Phong trào Nhân dân” đã huy động một cuộc xuống đường khổng lồ gồm hơn 400.000 người tham dự từ Kyiv đến Lviv vào năm sau.

Phong trào đối lập lúc này đang chuyển dần thành “phong trào độc lập dân tộc”, đứng đầu là Leonid Kravchuk, đại diện đảng Cộng sản, được bầu làm Chủ tịch quốc hội. Cùng với hầu hết các nước Cộng hòa Liên Xô khác, Cộng hòa Ukraine tuyên bố chủ quyền vào tháng 7 năm 1990. Ngày 24.08.1991, một cuộc đảo chính đã xảy ra tại Moscow và thất bại. Ukraine tuyên bố độc lập và rời bỏ Liên bang Xô viết. Ngày 01.12.1991, trong một cuộc trưng cầu dân ý, 90% dân số đã bỏ phiếu ủng hộ, bầu Kravchuk với 61% làm Tổng thống Ukraine. Ngày 08.12.1991, ông cùng với hai vị đồng cấp là Yeltsin (Nga) và Shushkevich (Belarus) ký Hiệp định Belovezh: “kết thúc sự tồn tại của Liên Xô”.

1-11-300x198
Lễ ký Hiệp định Belovezh kết thúc sự tồn tại của Liên Xô. Nguồn: Wikimedia / U. Ivanov/Ю. Иванов

***********

Ukraine – Châu chấu đá xe (Phần 3)


Dũng Vũ, lược thuật


Quốc gia Ukraine độc lập

Liên Xô sụp đổ, Ukraine trở thành một quốc gia độc lập kể từ tháng 12 năm 1991.

Ukraine rộng 603.628 km2, lớn thứ hai Âu châu sau Nga, hình thể giống hệt nước Cộng hòa Xô viết Ukraine thời Liên Xô. Thủ đô là Kyiv với 2,81 triệu dân (2012).

Ukraine là một nước Cộng hòa theo Tổng thống chế có nghị viện, gồm 24 khu vực hành chính. Cộng hòa tự trị Crimea giữ một vị thế đặc biệt.

Năm 2020, dân số Ukraine là 44,13 triệu người. Theo thống kê cũ năm 2001 (khi Crimea chưa bị Nga sáp nhập), dân cư đông nhất là người Ukraine (77,8%), kế đến là người Nga (17,3%). Tại vùng Donetsk và Luhansk, người Nga chiếm 40% dân số, và tại Crimea thậm chí 58%. Khoảng 1/2 dân số nói tiếng Ukraine; 1/2 còn lại nói tiếng Nga. Tuy vậy hầu hết đều nói hai ngôn ngữ, vì thế Ukraine được ví như một quốc gia song ngữ. Tiếng Ukraine là ngôn ngữ chính của quốc gia.

Ngôn ngữ và dân tộc bỗng trở thành vấn đề vào năm 2014, khi Nga biện minh cho việc chiếm báo đảo Crimea của Ukraine là để bảo vệ “đồng bào” Nga khỏi “những kẻ phát xít” Kyiv theo chủ nghĩa dân tộc đã đàn áp tiếng Nga và người nói tiếng Nga. Nhưng luận điệu này không đúng. Không thể có vấn đề ngược đãi người nói tiếng Nga hoặc sự phân biệt đối xử đối với tiếng Nga vì năm 2012, quốc hội Ukraine đã thông qua đạo luật cho phép giới thiệu “ngôn ngữ chính của địa phương”, gồm cả tiếng Nga, nếu tỷ lệ người bản ngữ nói ngôn ngữ này hơn 10% tại địa phương đó. Điển hình đã có 9 địa phương tiếng Nga đã trở thành ngôn ngữ chính. Mọi cố gắng bãi bỏ luật này vào năm 2014 đều thất bại. Hơn nữa, yếu tố dân tộc và ngôn ngữ không dính dáng gì tới chính trị. Trên thực tế đa số người Ukraine gốc Nga nói tiếng Nga là những công dân trung thành và đa số họ, theo mọi cuộc thăm dò, luôn phản đối việc sáp nhập nơi họ đang sinh sống vào nước Nga.

Ukraine là quốc gia nghèo thứ hai Âu châu, GDP khoảng 4862$/người (2021). Những ngành kỹ nghệ quan trọng là khai thác than ở Donbass và quặng sắt tại lưu vực Dnepr hoặc chế tạo vũ khí, sản xuất thép, phân bón, hóa chất. Hàng xuất cảng cũng gồm có máy bay, xe tăng và hỏa tiễn nhưng quân đội của họ lại bị lơ là. Chi tiêu cho quân sự chỉ bằng khoảng 5% của Nga. Về năng lượng cũng phụ thuộc vào dầu lửa và khí đốt nhập cảng từ Nga. Chính vì vậy mà Nga thường dễ gây áp lực với Ukraine, đe dọa ngừng cung cấp khí đốt.

Ukraine là một nước nông nghiệp, xuất cảng lúa mì đứng đầu thế giới và được ví như “cái nôi ngũ cốc của Âu châu”. Ngoài ra còn có bắp, củ cải đường, hoa hướng dương.

Giống hầu hết các nước hậu Liên Xô khác, nền kinh tế Ukraine đã sụp đổ vào những năm 1990; mức lương trung bình hàng tháng chỉ độ khoảng 66 Euro. Trong bảy năm đầu sau 2000, kinh tế Ukraine dần dần khá lên và gần như đã bù đắp được những mất mát trong thập niên 1990. Ngày nay tuy kinh tế có khá hơn xưa nhưng cuộc sống nhiều người lao động vẫn còn bấp bênh. An sinh xã hội và y tế còn kém. Tham nhũng phổ biến và có mặt khắp nơi trong giới kinh doanh, cảnh sát, tư pháp, và thậm chí trong hệ thống y tế và giáo dục.

Ukraine độc ​​lập, văn hóa thoát khỏi xiềng xích của chủ nghĩa “hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Văn chương Ukraine nói riêng đã vươn lên và lần đầu tiên trong lịch sử Ukraine đã gây được tiếng vang trên thế giới. Các tác phẩm của Yuri Andrukhovych, Oksana Zabushko và Serhii Shadan đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ngoài ra còn có tiểu thuyết và truyện ngắn viết bằng tiếng Nga của Andrei Kurkov.

Tình hình chính trị Ukraine giai đoạn 1991-2013

Năm 1994, Ukraine đã ký kết giác thư Budapest, cùng với Belarus và Kasachstan chịu từ bỏ vũ khí hạt nhân, đổi lại, Mỹ, Anh và Nga cam kết tôn trọng chủ quyền của Ukraine. Năm 1997 Ukraine cũng ký kết một hiệp định hữu nghị với Nga, theo đó hai nước bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của nhau. (Vậy mà giờ đây Nga lại đem quân xâm lược Ukraine và đổ thừa Ukraine muốn chế tạo vũ khí nguyên tử).

Trong 20 năm, nền chính trị của Ukraine tương đối bình lặng. Nhiều cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống đã diễn ra một cách minh bạch, có tự do báo chí.

Sự phát triển chính trị được định hình qua nhiều đời tổng thống: tích cực có, tiêu cực cũng có.

Tổng thống đầu tiên Kravchuk (1991-1994) nổi lên như một người đại diện cho lợi ích quốc gia Ukraine. Kế tiếp là giám đốc Kỹ nghệ Leonid Kuchma (1994-2004), người đã cải thiện quan hệ với Nga và đưa ra những cải cách thị trường tự do. Về mặt đối ngoại, ông theo đuổi đường lối “đa phương” nhằm tạo sự cân bằng giữa Nga và EU. Tuy nhiên trong nhiệm kỳ thứ hai, ông cai trị ngày càng trở nên độc đoán, đặc biệt là vướng vào những vụ bê bối tham nhũng làm dân chúng bất mãn.

Trong cuộc bầu cử tổng thống mới, Kuchma ủng hộ Viktor Yanukovych, cựu thủ tướng kiêm thống đốc vùng Donetsk, thân Nga. Ngược lại, đối thủ của ông là Viktor Yushchenko, cựu chủ tịch ngân hàng quốc gia, lại chủ trương dân chủ hóa và thân Tây phương. Đầu tháng 9 năm 2004, Yushchenko bị đầu độc. Ngày 21 tháng 11, Yanukovych đắc cử tổng thống nhưng kết quả bị làm giả. Hậu quả là dân chúng đã xuống đường phản đối. Hàng trăm ngàn người đã đổ về quảng trường Độc lập Maidan (Kyiv), đòi tổ chức lại cuộc bầu cử. Sự kiện này được gọi là cuộc Cách mạng Cam. Cuối cùng Yushchenko thắng cử. (Trong vụ này, người ta nghi ngờ Nga đã đầu độc Yushchenko và ngụy tạo kết quả bầu cử để nhân vật Yanukovych thân Nga được đắc cử).

Tuy nhiên, hai nhân vật chính của cuộc Cách mạng Cam, tổng thống Yushchenko và thủ tướng Yulia Tymoshenko đã sớm đánh mất uy tín chính trị của mình khi mãi lo tranh giành quyền lực thay vì tiến hành các cuộc cải cách cần thiết. Hậu quả, họ đã trả giá đắt: trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2010, Yanukovych đã thắng Tymoshenko sít sao sau lần bỏ phiếu thứ hai.

Tổng thống Yanukovych đã cấp tốc mở rộng quyền lực, hạn chế các quyền dân chủ và đàn áp phe đối lập, đặc biệt là Tymoshenko đã bị ông bắt bỏ tù. Yanukovych cũng lợi dụng thế lực để làm giàu cho bản thân và gia đình. Đối với Nga, ông đã cải thiện được mối quan hệ vốn dĩ đã xấu đi dưới thời Yushchenko. Tuy nhiên tổng thống Putin đã không thuyết phục được ông gia nhập Cộng đồng Kinh tế Á-Âu được tạo ra để cân bằng với EU. Yanukovych muốn tiếp tục đưa Ukraine xích lại gần EU hơn. Sau các cuộc đàm phán kéo dài, một “hiệp định liên kết” với EU dự tính sẽ được ký kết vào ngày 28-29.11.2013 tại thủ đô Vilnius, Litva. Nhưng một tuần trước đó, dưới áp lực của Nga, Yanukovych đã rút lại cam kết của mình. Điều này lại làm dân chúng giận dữ và lại biểu tình.

Euro Maidan

Một cuộc biểu tình phản đối quyết định này được gọi là “Euro Maidan” lại nổ ra trên quảng trường Độc lập Maidan (Kyiv) vào tối cùng ngày 24 tháng 11. Hàng chục ngàn người đã xuống đường và con số đã tăng lên hàng trăm ngàn vào những ngày 1 và 8 tháng 12. Euro Maidan là phong trào xã hội dân sự quần chúng lớn nhất Âu châu kể từ cuộc cách mạng năm 1989.

1-12-300x160
Người dân biểu tình trên Quảng trường Độc lập Maidan ngày 24-1-2013 ở Kyiv vì Tổng thống Ukraine Yanukovych không muốn ký Hiệp định liên kết EU đã được đàm phán. Nguồn: Wikimedia CC BY 2.0/ Nessa Gnatoush

Các cuộc biểu tình mới đầu ôn hòa rồi trở nên bạo động. Cảnh sát đã ra tay tàn bạo. Nhưng người dân vẫn tràn xuống đường chống lại Yanukovych và chế độ độc tài của ông ta. Biểu tình từ từ lan rộng sang các thành phố khác. Giữa mùa Đông lạnh giá, hàng trăm ngàn người đã tụ tập tại Maidan (Kyiv). Họ được người dân cung cấp thực phẩm, trà nóng và thuốc men.

Nhà cầm quyền không lùi bước, đã ban hành luật khẩn cấp nhưng làn sóng chống đối càng dữ dội. Các cuộc đụng độ vũ trang đạt đến tột đỉnh vào hai ngày 19 và 20 tháng 2 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 100 người, trong đó có 16 cảnh sát viên. Kết quả của sự kiện bạo động khiến phe chính phủ yếu đi và bị phe đối lập giành được đa số trong quốc hội. Nhiều đơn vị cảnh sát, quân đội và một số thương gia giàu có đứng về nhóm Maidan. Qua trung gian của các bộ trưởng bộ Ngoại giao Đức, Ba Lan và Pháp, một thỏa hiệp đã đạt được giữa Yanukovych và các nhà lãnh đạo ba đảng đối lập. Tuy nhiên nhóm Maidan đã không chấp nhận. Cuối cùng Yanukovych đã bỏ cuộc và trốn sang Nga. (Sự việc này dĩ nhiên làm Putin thất vọng vì Tống thống Yanukovych thân Putin bị dân Ukraine bất tín nhiệm).

Ngày 21.02.2014 quốc hội Ukraine cách chức Yanukovych, và sau đó, ngày 21 tháng 3, Ukraine đã ký kết phần chính trị của hiệp định liên kết với EU. Yêu cầu chính của cuộc cách mạng Euro Maidan đã được thỏa mãn. Tuy vậy phần lớn người dân ở miền Đông và miền Nam đã không tham gia và vẫn còn lưỡng lự. (Điều này dễ hiểu vì ở đây có nhiều người Nga hoặc người thân Nga sinh sống).

Nga đã giận dữ lên án “thỏa thuận liên kết” với EU lẫn phong trào Euro Maidan và cho rằng sự thay đổi quyền lực tại Kyiv là một “cuộc đảo chính của chính quyền phát xít”, một âm mưu của Tây phương nhằm chống lại Nga. Những tuyên bố này dĩ nhiên là vô cớ nhưng đã bộc lộ sự mất lòng tin của thổng thống Putin đối với EU và NATO. Ông đổ thừa sự bành trướng của Tây phương về phía Đông tới biên giới Nga là sự đe dọa lợi ích an ninh của Nga. Thế nhưng có lẽ lý do quan trọng nhất cho sự can thiệp của Nga là lo sợ các sự kiện Maidan có thể trở thành “tấm gương” cho phe đối lập trong nước vốn dĩ đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình lớn hai năm trước. Vì thế cần phải ngăn chặn điều “Ukraine đã thành công trong việc trở thành một quốc gia dân chủ theo Âu châu”. Nga giả vờ nói, họ phải bảo vệ “đồng bào” mình ở Ukraine khỏi sự đàn áp của chính quyền mới tại Kyiv. Đây là lý do biện minh cho một cuộc can thiệp vũ trang đã nhanh chóng biến thành một cuộc chiến tranh Nga-Ukraine không báo truớc.

***********

Ukraine – Châu chấu đá xe (Phần cuối)


Dũng Vũ, lược thuật


Sáp nhập Crimea – Chiến tranh ở Donbass

Mục tiêu đầu tiên của Putin là bán đảo Crimea, vùng đất Ukraine duy nhất có đa số người Nga sinh sống từ thời Cộng hòa Xô viết Ukraine. Cuối tháng 2 năm 2014, nhiều binh lính không mang huy hiệu đã chiếm đóng quốc hội, trụ sở chính quyền và sân bay tại thủ phủ Simferopol. Ngày 6 tháng 3, một chính phủ mới được dựng nên, báo trước rằng Crimea sẽ được sáp nhập vào Nga. Vài ngày sau, ngày 17 tháng 3, một cuộc “trưng cầu dân ý” giả tạo đã được Nga tổ chức vội vã và đã gây nhiều phẫn nộ. Ngày 20-3-2014 , bán đảo Crimea của Ukraine bị sáp nhập vào Nga.

Qua sự sáp nhập Crimea, chính phủ Nga đã vi phạm luật pháp quốc tế và những hiệp ước công nhận sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine đã ký kết. Lần đầu tiên sau Thế chiến thứ hai, một quốc gia Âu châu (như Nga) đã chiếm đoạt lãnh thổ của một quốc gia láng giềng. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đã lên án Nga.

Tuy nhiên Nga còn mở rộng ảnh hưởng đến miền Đông Ukraine bằng cách cung cấp nhiều vũ khí cho quân ly khai. Lực lượng này chiếm đóng các thành phố quan trọng nhất của vùng Donbass và dựng nên một chế độ cai trị độc đoán. Ngày 11.05.2014, các “nước Cộng hòa Nhân dân có chủ quyền” Donetsk và Luhansk tuyên bố độc lập qua một cuộc trưng cầu dân ý giả tạo. Trong số các thủ lĩnh phe ly khai có nhiều người Nga vốn là thành viên của các tổ chức dân tộc chủ nghĩa. Phe ly khai tự cho họ là những người chiến đấu cho “Nước Nga mới” – một khái niệm có từ thời Sa hoàng bao gồm toàn thể miền Nam và miền Đông Ukraine.

Sự can thiệp quân sự của Nga đi kèm với lời tuyên truyền vô lý. Chính phủ Ukraine bị bôi nhọ là phát xít, theo chủ nghĩa dân tộc, là tay sai của Tây phương. Cuộc chiến xâm lược Ukraine của Putin đã được dàn dựng như một phần tiếp theo của “Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại” chống lại Đức quốc xã. Thông tin sai lệch bao gồm cả những lời nói dối liên tục được phổ trên đài truyền hình Nga. Phần lớn người dân Nga tin vào lời tuyên truyền này và Putin càng nổi tiếng.

Có thực sự rằng chính phủ Ukraine theo chủ nghĩa dân tộc?

Kết quả bầu cử quốc hội Ukraine ngày 26.10.2014 cho thấy các đảng ủng hộ Âu châu đã giành chiến thắng. Đảng Svoboda theo chủ nghĩa dân tộc đã bất ngờ giành được 10% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 2012, nhưng lần này không đạt được ngưỡng 5% để lọt vào quốc hội và không còn đại diện trong chính phủ.

Kỳ bầu cử quốc hội Ukraine kế tiếp diễn ra vào ngày 21.07.2019. Do sự việc Nga sáp nhập Crimea vào tháng 3 năm 2014 và việc quân ly khai chiếm đóng Donetsk và Luhansk, chỉ có 424 ghế của “Hội đồng tối cao” (Verkhovna Rada, tương đương quốc hội) có thể được bầu và khoảng 12% công dân đủ điều kiện không thể tham gia bầu cử. Theo luật bầu cử hiện hành, 225 thành viên của “Hội đồng tối cao” được bầu ra bởi một hệ thống đại diện tỷ lệ trên toàn quốc theo chỉ tiêu “5%” và 199 ghế còn lại trong các khu vực bầu cử theo hệ thống “đa số tương đối”.

Kết quả: Đảng “Sluha Narodu” (“đầy tớ nhân dân”) thân Tây phương của tổng thống Volodymyr Zelenskyj được 43,2%, đảng “Oppositionsplattform” thân Nga được 13,0%, các đảng của cựu thủ tướng Yulia Tymoshenko (“Tổ quốc”, 8,2%) và cựu tổng thống Petro Poroshenko (“Đoàn kết châu Âu”, 8,1%). Ngoài ra còn có “Holos” của nhạc sĩ nhạc rock Sviatoslav Vakarchuk với 5,8%. Không một đảng cực hữu nào đạt được 5% để vào được quốc hội, ví dụ “Swoboda” (1,4%), “NationalenKorps” (0,2%).

Từ kết quả trên, tổng thống Putin không thể xa rời thực tế mà nói chính phủ Ukraine theo chủ nghĩa dân tộc để mà phải diệt trừ.

Trong cuộc chiến giành lại lãnh thổ, quân đội Ukraine không được trang bị đầy đủ. Họ thiếu khả năng chống lại lực lượng ly khai do Nga hậu thuẫn với nhiều binh sĩ và vũ khí hạng nặng. Có vũ khí tối tân trong tay, phe ly khai thân Nga thích thử nghiệm. Ngày 17.07.2014, họ đã bắn nhầm một máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines, khiến tất cả 298 người thiệt mạng.

Quân Ukraine liên tục bị tấn công. Bị thất bại, Ukraine buộc phải đàm phán, nhưng sau đó chiến tranh lại tái diễn. Thủ tướng Đức Angela Merkel và tổng thống Pháp François Hollande phải làm trung gian hòa giải và rồi cũng không đi tới đâu. Việc Nga sáp nhập Crimea không được nhắc tới; cả vấn đề quan trọng là kiểm soát biên giới Nga-Ukraine cũng bị hoãn lại. Donbass hầu như không bao giờ bình yên.

Cuộc chiến của Putin càng làm Ukraine ngả về phía Tây phương. Ukraine mong sớm được gia nhập NATO và EU. Thế nhưng thủ tướng Merkel không ủng hộ vì sợ mất lòng Putin. Bà lập luận Ukraine cần có thời gian để tiến hành dân chủ hóa và giải quyết nạn tham nhũng. Đối với Nga, bà Merkel muốn giữ một thái độ “dĩ hòa vi quý” có lợi cho kinh tế Đức, cụ thể là gia tăng xuất cảng qua Nga và mua được khí đốt giá rẻ từ Nga sau khi hoàn tất đường dẫn khí khổng lồ Nord Stream 2 bất chấp lời khuyên của Mỹ và đồng minh rằng Đức sẽ bị lệ thuộc vào Putin.

Kiểm chứng lý lẽ của Putin

Sau khi đọc lại lịch sử Ukraine, chúng ta thấy những lý lẽ tổng thống Putin đưa ra để đánh Ukraine là những lời nói dối:

– Chính quyền Ukraine hiện tại tuy có huynh hướng thân Tây phương nhưng không phải là phát xít, không theo chủ nghĩa dân tộc, không đàn áp người nói tiếng Nga và diệt chủng dân Nga tại vùng Donbass.

– Ukraine không làm chủ “vũ khí hủy diệt hàng loạt”. Suốt cuộc chiến với Nga hôm nay, Ukraine luôn thiếu vũ khí và phải nhờ Tây phương viện trợ. Ukraine cũng không chế tạo vũ khí nguyên tử, vì đã cam kết loại trừ vũ khí này theo giác thư Budapest.

– Tây phương không kết nạp Ukraine vào NATO và đe dọa Nga như Putin khắng định.

– “Ukraine chưa bao giờ có nhà nước hoặc quốc gia” là điều không đúng. Trong quá khứ Ukraine từng bị Nga đô hộ hoặc thuộc về khối Liên Xô, nhưng ngày nay Ukraine là một quốc gia độc lập, có chủ quyền hợp pháp, Nga phải tôn trọng.

Kết quả của cuộc chiến Nga-Ukraine tính đến nay

“Cuộc chiến chớp nhoáng” của Putin thất baị. Putin dự tính, xua quân đánh Ukraine sẽ chiếm được thủ đô Kyiv trong vòng vài ngày và Ukraine sẽ đầu hàng vô điều kiện nhưng cho tới nay, tháng 11 năm 2022, cuộc chiến đã kéo dài 9 tháng mà vẫn chưa kết thúc. Quân Nga đang bị đẩy lùi trong khi quân Ukraine đang phản công để tái chiếm những phần đất bị quân Nga chiếm đóng chắc chắn sẽ còn kéo dài nhiều tháng. Thiếu vũ khí, Ukraine phải cầu viện Tây phương, ngược lại Nga có vũ khí tối tân và dồi dào, nhưng vẫn không thắng nổi Ukraine, nay Putin còn muốn sử dụng vũ khí hạt nhân để tiêu diệt đối phương.

– Thường dân Ukraine là nạn nhân chính. Vô số người bị thương, bị giết chết, phụ nữ bị hãm hiếp, hàng triệu người phải rời bỏ quê hương đi lánh nạn. Quân Nga đã dội bom, pháo kích bừa bãi vào thành phố. Khắp nơi, nhà dân, chung cư, trường học, vườn trẻ, nhà thương, cơ sở hạ tầng: điện nước, cầu cống, đường sá, mọi thứ cần thiết cho đời sống người dân bị tàn phá. Đất nước Ukraine tan hoang trong khi đất nước Nga còn nguyên vẹn.

– Nga bị tổn thất nặng nề. Hơn 70.000 binh sĩ thiệt mạng. 10 tướng tử vong trong khi đánh Afghanistan 9 năm không nghe nói có tướng Nga nào tử trận. Tổn thất nặng khiến Putin phải động viên thêm 300.000 quân, bất kể tù nhân nguy hiểm, có tội hình sự, nghiện ngập hoặc mắc bệnh nặng. Động viên bừa bãi khiến dân chúng Nga bất mãn, nhiều người không ủng hộ chiến tranh của Putin đã chạy qua các nước láng giềng trốn quân dịch. Ngoài ra Nga còn trưng dụng lính đánh thuê nổi tiếng tàn bạo của công ty quân sự tư nhân Wagner và quân Hồi giáo Chechens hiếu chiến từng bị Putin xem là khủng bố.

– Nga đã chiếm 4 tỉnh Luhansk, Donetsk, Zaporizhzhia and Kherson của Ukraine và ngang nhiên sáp nhập vào nước Nga bằng một cuộc trưng cầu dân ý giả tạo.

– Cách xử sự thiếu lương thiện và sự dối trá của chính quyền Putin chỉ làm mất sĩ diện người Nga: chiếm nhà máy điện nguyên tử Ukraine để tống tiền, ăn cắp ngũ cốc của nông dân Ukraine, gây khó dễ không cho xuất cảng, đe dọa dùng vũ khí nguyên tử, dựng kịch vụng về để vu khống đối phương (Ukraine phá hoại đập nước gây lụt lội, dùng “bom bẩn phóng xạ”, v.v…).

Thái độ của thế giới và Tây phương

Hành động Nga xâm lược Ukraine và sáp nhập những vùng chiếm đóng vào nước Nga đã vi phạm trắng trợn chủ quyền của Ukraine và luật pháp quốc tế. Thực tế đã chứng minh, cuộc xâm lược của Nga đã làm hại thường dân Ukraine là chính. Hầu hết các nước trên thế giới phẫn nộ và lên án Putin. Tuy nhiên vẫn có một ít quốc gia thân Nga đã bỏ phiếu ủng hộ Nga, hoặc bỏ phiếu trắng, không lên án Nga, trong đó có Việt Nam.

Hành động Nga xâm lược Ukraine cũng đã vi phạm giác thư Budapest phải bảo vệ và tôn trọng chủ quyền Ukraine. Kể cả Anh và Mỹ cũng vi phạm vì không làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Ukraine. EU và NATO cũng đứng nhìn. Suốt trận chiến, thế giới chỉ thấy Putin tự do đánh Ukraine, các nước Âu châu hầu như chỉ đứng nhìn, không muốn để bị liên lụy. Ukraine như “châu chấu đá xe”, một mình chống lại một gã khổng lồ để sống còn.

Vì lòng ích kỷ, người ta có thể bỏ mặc người cô thế. May mắn thay Ukraine vẫn còn vài người giúp đỡ, đặc biệt là Mỹ. Chỉ có điều, một trận chiến kéo dài có thể sẽ làm “nản lòng” những “mạnh thường quân” và Ukraine sẽ bị bỏ rơi và ngã gục. Đến lúc đó, cánh cửa phía Đông Âu châu hở toang, đoàn Hồng quân Nga sẽ thênh thang bước vào Âu châu; thế giới sẽ được dịp nhìn thấy dân Âu châu phải thay thế người lính Ukraine cầm cây súng để tự bảo vệ lấy mình chăng?

Kết luận

1. Putin đã nói dối và xua quân xâm lược nước láng giềng Ukraine, bất chấp luật pháp quốc tế. Cuộc chiến thật tàn khốc. Nhà nước Ukraine bị mất ổn định vĩnh viễn và mất quyền kiểm soát một phần đáng kể lãnh thổ của mình. Kinh tế bị tàn phá, vô số người thiệt mạng. Hàng triệu người Ukraine phải rời bỏ nhà cửa đi lánh nạn khắp Âu châu. Vùng Donbass và phía Nam đang bị phá hủy nặng nề và thảm họa con người rất lớn.

2. Chiến tranh Nga-Ukraine đã củng cố vị thế quyền lực của Putin. Nó kích thích tinh thần yêu nước trong xã hội Nga và ít nhất là vào lúc này, tránh được hiểm họa nước Nga sẽ “du nhập” bài học Maidan của Ukraine. Cuộc chiến đã khiến quan hệ giữa người Nga và người Ukraine xấu đi nhanh chóng. Tuyên truyền của Nga đã mang lại hiệu quả trong giới người Nga ở miền Đông và miền Nam của Ukraine.

3. EU và Mỹ đã cô lập Nga trên bình diện quốc tế và muốn làm suy yếu nước này về mặt kinh tế. Kinh tế Nga bị suy thoái và chắc chắn sẽ trở nên trầm trọng. Tuy nhiên EU và Mỹ hay bất đồng ý kiến và Nga cố lợi dụng điểm yếu này để chia rẽ họ một cách có hệ thống. EU và Mỹ cũng rơi vào khủng hoảng năng lượng và đang bị lạm pháp nghiêm trọng.

4. Mục tiêu của chính phủ Nga trong việc “đánh Ukraine để ngăn Ukraine tiến tới EU” đã không đạt được. NATO cũng không kết nạp Ukraine như Putin lo ngại, nhưng hành động quân sự của Putin đã tạo phản ứng ngược. Các nước như Phần Lan, Thụy Điển vốn dĩ trung lập, nay đã xin gia nhập NATO, nghĩa là vô hình trung, Putin đã giúp NATO mở rộng.

5. Qua trận chiến này, người ta nhìn thấy một Putin đầy mặc cảm và ảo tưởng. Hào quang một đế chế Nga với những vị Sa hoàng “vĩ đại” hoặc một cường quốc Liên Xô đã biến mất. Nước Nga ngày nay thua kém Trung Quốc một trời một vực. Nó cũng thua kém những nước chư hầu cũ của Liên Xô vốn dĩ không có cảm tình với Nga nên đã gia nhập cộng đồng Âu châu. Ukraine tựa vậy, cũng mong muốn gia nhập Âu châu. Điều này làm Putin tự ái, đánh đồng rằng Ukraine bài xích người Nga (dẫu Ukraine là một “người Nga nhỏ”). Đây cũng là một lý do khiến Putin tức giận và muốn “dạy cho Ukraine một bài học”. Mặt khác, cuộc chiến có vẻ như “giận cá chém thớt”. Giận Tây phương mà chém Ukraine để dằn mặt Tây phương.

6. Cũng qua trận chiến này, Mỹ và Âu châu đã nhận thấy thực lực của Nga và con châu chấu Ukraine tuy nhỏ bé nhưng rất kiên cường. Ukraine có thể đánh bại Nga nếu có đầy đủ vũ khí. Chắc chắn EU và NATO đã nhìn thấy Ukraine rất xứng đáng trở thành một “tiền đồn kiên cố” để bảo vệ Âu châu về phía Đông.

Stuttgart, ngày 9-11-2022

(Hết)

_______

Tài liệu tham khảo

Müller, Michael  G.: Die Teilungen Polens – – www.deutsche-digitale-bibliothek.de

Subtelny, Orest: Ukraine – A History. University of Toronto Press, 2000

Kappeler, Andreas: Ungleiche Brüder – Russen und Ukrainer vom Mittelalter bis zur Gegenwart, C.H.Beck, 2017

Edvard Radzinsky: The last tsar. The life and death of Nicholas II. Doubleday, New York, 1992

Winston S. Churchill: Der Zweite Weltkrieg. Stuttgart und Hamburg, Scherz & Goverts, 1949-1954

Michail Gorbatschow: Erinnerungen. Siedler, Berlin, 1995

Paul D’Anieri: Gerrymandering Ukraine? Electoral Consequences of Occupation. Sage Journals, 9. August 2016

Putins “Neurussland” beunruhigt die EU https://www.zeit.de/politik/ausland/2014-08/ukraine-russland-putin-donezk)

https://www.pravda.com.ua/eng/news/2022/10/19/7372573/

http://www.ag-friedensforschung.de/regionen/Ukraine/russland2.html

https://www.rtl.de/cms/ukraine-die-pro-europaeische-partei-sluha-narodu-von-wolodymyr-selenskyj-gewinnt-die-parlamentswahlen-4375195.html

http://www.cvk.gov.ua/pls/vnd2014/wp300pt001f01%3D910.html

https://ukraineverstehen.de/umland-rechtsradikale-parteien-der-ukraine-2019/

https://knoema.de/atlas/Ukraine/Reales-BIP-Wachstum

https://web.de/magazine/politik/russland-krieg-ukraine/ukraine-russlands-blitzkrieg-gescheitert-putins-verheerende-bilanz-monaten-krieg-36804428

https://www.t-online.de/nachrichten/ausland/id_91866488/ukraine-krieg-wladimir-putins-zehn-gefallene-generaele-das-ist-ueber-sie-bekannt.html


************
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn