Hòa giải dân tộc nhìn từ cách đối xử với người đã mất trong chiến tranh

Chủ Nhật, 13 Tháng Mười Một 20228:00 SA(Xem: 1496)
Hòa giải dân tộc nhìn từ cách đối xử với người đã mất trong chiến tranh
rfa.org

Hòa giải dân tộc nhìn từ cách đối xử với người đã mất trong chiến tranh

2022.11.07

Ở phần trước, PGS. TS. Alex Thái Võ chia sẻ về chính sách hòa giải của hai chính phủ Việt Mỹ, về góc nhìn của ông đối với con đường hòa giải dân tộc, và ở phần 3, ông chia sẻ quan niệm và những hành động cụ thể của mình về hòa giải thông qua các ứng xử văn minh với người đã khuất trong chiến tranh. 

1. Nghĩa tử là nghĩa tận 

RFA: Cách đây gần hai mươi năm, phía Mỹ tìm thấy một chiếc máy bay rơi trong chiến tranh Việt Nam, trong đó họ tìm thấy khoảng 81 hài cốt quân nhân Việt Nam Cộng Hòa và bốn hài cốt người Mỹ. Họ mang hài cốt binh sỹ Mỹ về nước và đề nghị Chính phủ Việt Nam nhận những bộ hài cốt của quân nhân VNCH. Nhưng phía Việt Nam không nhận, và Mỹ phải mang về an nghỉ tại Hawaii và sau đó là California. 

Alex Thái Võ: Mình nghĩ rằng Nhà nước Việt Nam ngày nay với tư cách là bên thắng cuộc, họ tiếp quản mọi thứ thuộc về VNCH và họ có trách nhiệm với cả những tử sĩ VNCH đã mất. Khi thắng cuộc, họ tiếp quản mọi tài sản của VNCH thì xét về mặt lý thuyết, họ cũng phải có trách nhiệm với cả những người lính VNCH dù xác của những người lính ấy nằm ở đâu. Nhưng đó chỉ là nói về mặt lý thuyết thôi. Còn về mặt thực tế thì họ bối rối vì nhiều câu hỏi: Mang những bộ hài cốt đó về thì chôn cất thế nào? Bia mộ lại phải ghi là VNCH hay sao? Họ đâu phải là lính của chúng ta?... Cho nên họ từ chối cũng là điều dễ hiểu. 

Nhưng mình muốn kể thêm một câu chuyện thế này. Khi làm việc cho Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong dự án tìm hài cốt quân nhân mất tích trong chiến tranh Việt Nam, mình biết là Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã tìm thấy nhiều hài cốt của binh sỹ Cộng sản, dù là họ không thể xác định được đó là binh sỹ Cộng Sản ở Miền Nam nổi dậy hay là quân nhân từ Bắc Việt. Nhưng Chính phủ Việt Nam cũng không chấp nhận mang những hài cốt đó về, dù đó là xác những người đã từng đánh cho mình. Chính họ không nhận về những bộ hài cốt của người bên mình, nên việc họ không nhận hài cốt quân nhân VNCH cũng là điều dễ hiểu. Bây giờ ở trung tâm bên Hawaii vẫn còn giữ hài cốt của quân nhân Cộng Sản mất tích. Đó là những hài cốt chúng tôi xếp vào nhóm “Stateless” (không được quốc gia nào nhận về). Thành ra đó là những hài cốt còn “lang thang”. 

RFA: Tại sao Trung tâm Việt Nam học ở Đại học Kỹ thuật Texas nơi anh đang làm việc hiện đang xây dựng cơ sở dữ liệu về quân nhân mất tích của cả ba bên: Hoa Kỳ, VNCH và VNDCCH? 

Alex Thái Võ: Nếu mà có đủ kinh phí, chúng tôi còn muốn mở rộng cơ sở dữ liệu cho tất cả các bên khác như Hàn Quốc, Úc… kể cả Liên Xô và Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã gửi khoảng 320 ngàn quân nhân vào Việt Nam. Và theo tư liêu mà mình có được thì ở những giai đoạn cao điểm của cuộc chiến, quân nhân Liên Xô và Trung Quốc có mặt ở chiến trường Miền Nam, có mặt ở tận vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Họ có thể là cố vấn quân sự, làm phim tuyên truyền, tình báo,... đều có hết. Họ đi theo các đơn vị VNDCCH, cố vấn cho họ cách tuyên truyền. 

Mình đặt tên cho bài phát biểu của mình tại Hội nghị về hòa giải vết thương chiến tranh ở Viện Hòa Bình Hoa Kỳ là “Reconciliation with the Stateless” (Hòa giải với những người không còn quốc gia). Về lý thuyết như mình đã nói, Chính phủ Việt Nam là bên thắng cuộc thì họ có trách nhiệm kế thừa và có trách nhiệm với mọi thứ nhận từ bên thua cuộc, kể cả hài cốt quân nhân. Nhưng Chính phủ Việt Nam không nhận họ thì họ trở thành “Stateless” (không còn quốc gia). Trong gần 50 năm qua, những người Việt bỏ nước ra đi đã mang quốc tịch nước ngoài, không còn tư cách pháp lý để về nước tìm hài cốt người anh em cũ, còn Nhà nước Việt Nam thì không quan tâm đến họ. Nhưng mình nghĩ bây giờ cuộc chiến đã kết thúc gần 50 năm rồi. Cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ đã củng cố lại được vị trí của họ. Họ có nhiều đại diện trong Quốc hội Mỹ, nhiều người thành công trong quân đội Mỹ, trong kinh tế, công nghệ, giáo dục. Chúng ta với tư cách là người Mỹ có quyền đưa ra tiếng nói yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ có trách nhiệm cả với hài cốt quân nhân VNCH mất tích. Lý do là khi Chính phủ Mỹ lấy tiền thuế của dân để giúp Chính phủ Việt Nam tìm hài cốt quân nhân mất tích, họ lấy tiền thuế đó từ đâu?

RFA: Từ người Mỹ, trong đó có hai triệu rưỡi người Mỹ gốc Việt. 

Alex Thái Võ: Và vì thế, anh lấy tiền thuế đó đi giúp cho những người ngày xưa là kẻ địch nhưng bây giờ là đối tác thì anh cũng phải có trách nhiệm với những quân nhân VNCH, những người hi sinh trong chiến tranh hoặc trong các trại cải tạo, trại tị nạn, có trách nhiệm với cả những người mất mạng ở ngoài biển. 

2. Nhìn nhau như những con người 

RFA: Ở Sài Gòn có những nhà thờ, ngôi chùa đang nuôi dưỡng các cụ già thương phế binh VNCH bây giờ đều đã là bảy tám mươi tuổi, bị tàn tật từ thời chiến. .

Alex Thái Võ: Và trong các chương trình trợ giúp của Chính phủ Mỹ cho Việt Nam thuộc khuôn khổ chính sách hòa giải Mỹ Việt này có cả chương trình giúp đỡ cho thương binh Cộng sản. Trong khi đó thương phế binh VNCH thì sống lê lết gần 50 năm nay rồi thì không ai quan tâm. Họ cụt chân cụt tay. Theo tôi được biết cộng đồng Việt Nam bên này gây quỹ gửi về giúp họ mà đôi khi còn bị làm khó khăn nữa. 

Không phải là mình cứ cố khơi lại chuyện VNCH đâu, mà sự thực là ban tổ chức của hội nghị  về hòa giải chiến tranh của Viện Hòa Bình Hoa Kỳ này đã mời Thái đến và muốn Thái nói về việc tìm hài cốt quân nhân VNCH. Đó là bài nói chuyện được đặt hàng bởi chính Viện Hòa Bình Hoa Kỳ của Chính phủ Mỹ. Thành ra tôi mới đưa ra tiếng nói là Chính phủ Hoa Kỳ phải có trách nhiệm với quân nhân VNCH mất tích. Chính phủ Việt Nam phải có trách nhiệm với quân nhân mất tích của họ. Đó là việc đương nhiên. Nhưng họ cũng có trách nhiệm với cả cộng đồng họ kế thừa sau chiến thắng. Nếu chúng ta không muốn nói đến “trách nhiệm” thì chúng ta hãy nói như chính các vị Đại sứ Phạm Quang Vinh hay Tôn Nữ Thị Ninh đã nói là “humantarian aid” (hỗ trợ nhân đạo). Tất cả những xác người đang còn nằm lại rải rác trên mảnh đất này vì cuộc chiến, dù là “người Cộng sản” hay “người Cộng hòa”, thì trước khi họ thuộc về một thể chế nào thì họ là một con người, có cha có mẹ, có anh có chị có em, có dòng họ, bạn bè. Chúng ta đang muốn tìm một điểm chung để nói chuyện mà, phải không? Nếu tìm điểm chung trong chính trị thấy khó quá, dễ tranh cãi, vậy thì hãy đặt chuyện đó sang một bên. Còn nếu nhìn những xác người còn nằm lại đó từ góc độ con người, góc độ nhân đạo, thì nó xóa đi những khó khăn do vấn đề chính trị tạo ra. 

Hãy nhìn họ như những người đang cần được đưa về với gia đình họ. Đưa họ về với gia đình để khép lại cho gia đình họ, cho chính những người đã hy sinh những đau thương. 

RFA: Chính phủ Việt Nam cũng nói “khép lại quá khứ”?

Alex Thái Võ: Người ta có thể khép lại quá khứ, có thể forgive (tha thứ) nhưng không thể forget (lãng quên). Không thể hòa giải bằng cách lãng quên vì đó là điều bất khả thi. Quá khứ là cái không thể quên vì là cái định hình hiện tại của mỗi bên. Nhưng chúng ta có thể forgive, tha thứ cho nhau, như thế thì có thể đi đến hòa giải cùng nhau. 

Người Nhật, người Đức, người Mỹ đều trải qua những xung đột nội bộ nhưng bên thắng cuộc với lợi thế về mặt quyền lực là bên chủ động hòa giải cùng bên thua nên nước họ thành công. Ở Mỹ bên thua vẫn có những nghĩa trang chôn cất tử sĩ bên mình một cách tử tế. Ngay cả khi người Mỹ bên thắng đã nỗ lực hòa giải với bên thua như vậy nhưng mâu thuẫn đến giờ vẫn còn. Dẫu sao nó cũng không gay gắt như ở Việt Nam.

Mấy năm trước mình làm cho dự án của Bộ Quốc phòng Mỹ tìm quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Sau đó mình làm cho Trung tâm Việt Nam học của Đại học Kỹ thuật Texas. Trung tâm này có dự án tìm quân nhân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mất tích sau chiến tranh. Mình tham gia vào dự án đó vì thấy đây là cơ hội để hàn gắn người Việt với nhau. Mình muốn nhận công việc đó. Nhưng để thể hiện sự tôn trọng với ba mình, mình đã gọi điện cho ba: Bây giờ con sẽ tham gia vào một dự án tìm hài cốt những người lính Cộng sản mất tích. Họ là những người ở phía bên kia chiến tuyến của ba, và sau cuộc chiến thì ba đã bị tù tội sau bảy năm trong nhà tù của họ. Ba nghĩ con có nên nhận công việc này không? Ba suy nghĩ như thế nào? 

Ba tôi trả lời ngay: Nên làm. Con nên làm việc đó. Đó là việc nhân đạo phải làm. 

Một người như ba mình, mất hết những gì mình có trong thời trẻ, khi ba mươi mấy tuổi, lúc qua Mỹ cũng khó mà gầy dựng lại được hết những gì đã mất. Những người như ba đáng lý ra có nhiều uất ức lắm chứ, nhưng họ chịu bỏ qua một bên, khuyến khích con mình tham gia tìm hài cốt của phía bên kia. Chính vì vậy, mình muốn “challenge” (thử thách) Chính phủ Việt Nam lẫn Chính phủ Hoa Kỳ là họ ở vị thế cao hơn, họ cũng có thể làm như vậy được không? 

bienhoagraveyard.jpeg
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink viếng Nghĩa trang Biên Hòa ngày 29/03/18. Courtesy: Facebook Ambassador Daniel J. Kritenbrink

3. Động lực của hòa giải: văn hóa hay thể chế? 

RFA: Đằng sau hành động của ba anh và anh có phải là một nền tảng văn hóa, giáo dục nào đó? 

Alex Thái Võ: Cũng có thể. Như cô Olga Dror ở Đại học Texas A&M đã phân tích trong cuốn sách của cô, so sánh về văn hóa giáo dục hai miền Nam Bắc Việt Nam thời chiến, thì ở miền Nam văn hóa giáo dục tôn trọng bản ngã con người, tính nhân văn, trong khi miền Bắc giáo dục con người để phục vụ hoàn toàn cho cuộc chiến. Về âm nhạc thì nhạc đỏ của miền Bắc cũng rất khác nhạc miền Nam. Mình nghe nhạc đỏ miền Bắc, không dám nói chuyện hay dở, nhưng thấy nó tạo ra sát khí, nó tạo ra “ta” và “địch”, phải giết, phải thắng bằng mọi giá. Mình không nghĩ đó chỉ là âm nhạc, không ảnh hưởng đến tư duy con người. Nếu người ta nghe mấy chục năm nhạc đó trong chiến tranh rồi tiếp tục gần 50 năm sau vẫn nghe liên tục thì ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến suy nghĩ của con người. Âm nhạc miền Nam thì dù nói về người lính hay xã hội thì luôn luôn nhắc đến tính nhân bản, nhắc đến vấn đề con người. 

RFA: Nhạc sỹ Trầm Tử Thiêng, một người của Cục Tâm lý chiến VNCH, sáng tác “Kinh khổ” năm 1967, kêu gọi “thù hằn anh em… bỗng nhìn nhau gọi nhau thật đậm đà”.

Alex Thái Võ: Đó là một dòng văn hóa âm nhạc nhìn con người như là con người. Tuy nhiên, mặc dù văn hóa rất quan trọng và ảnh hưởng lớn đến tư tưởng con người, nhưng mình nghĩ dù là bên nào đi nữa, xét đến cùng, ai cũng có nền tảng là tính người giống nhau. 

Họ chỉ khác nhau ở giới tuyến. Giới tuyến thì ảnh hưởng đến văn hóa, dẫn đến người ta dễ chấp nhận để chúng ta có hành động nhân bản hơn, nhưng trong công việc của mình, mình cũng tiếp xúc với những người phía bên kia, có con em đi lính và chết. Họ cũng bị tuyên truyền để nghĩ này khác. Nhưng khi mình liên hệ và nói thưa cô, thưa chú, chúng cháu muốn cùng nhau để tìm lại hài cốt những người đã mất của tất cả các bên trong cuộc chiến thì họ cũng bình tâm nghĩ lại mà nói: Đúng rồi, chúng ta không nên vì cuộc chiến đó mà phân biệt gì nữa hết. Phải tìm cách để tìm được hài cốt của những người đã mất của nhau. 

Như vậy ta thấy dù bên nào thì ai cũng có cái nền tảng nhân bản của con người hết. Ngay cả một số loài thú còn biết đối xử với hài cốt của đồng loại đã mất một cách tử tế nữa huống chi chúng ta là con người. Nhưng cái cản trở ở đây là cái cản trở do tính chất của hệ thống. Hệ thống làm lãnh đạo họ sợ, họ nghi ngờ. Họ sợ nhiều quá nên họ tạo ra rào nhiều rảo cản, rồi ấn cái rào cản đó xuống hệ thống. Trong hệ thống không có cá nhân nào dám làm một cái gì thực chất để hòa giải cả.

Vì vậy, văn hóa rất quan trọng? Đúng. Giáo dục rất quan trọng? Đúng. Nhưng nếu chúng ta chỉ đơn thuần quy mọi thứ về cho văn hóa, rồi dẫn đến miền này thế này miền nọ thế nọ thì chúng ta hạ thấp con người quá. 

Mà suy cho cùng văn hóa cũng là do hệ thống mà ra. Nếu đổ hết cho văn hóa thì con đường hòa giải sẽ trở nên mù mờ. Với kinh nghiệm của Thái thì về mặt con người, chúng ta không khác biệt nhau quá xa đâu. 

Mặc dù cả hai bên đều có những người không chấp nhận phía bên kia, không chấp nhận lẫn nhau, nhưng Thái nghĩ những người đó không nhiều. Chúng ta không nên quá bận tâm đến những thái cực đó. Nhưng chúng ta vẫn nên tôn trọng sự cực đoan của họ. Đó là sự lựa chọn của họ và chúng ta không nên phải chỉ trích làm gì. Tại sao mình dùng từ “tôn trọng”? Bởi vì mình không trực tiếp trải qua những đau thương mất mát lớn lao mà họ, ở cả hai bên, đã trải qua. Họ đã trực tiếp phải chôn cất anh em, đồng đội, hoặc bị trực tiếp bắn vào tay vào chân, trải qua những đau thương không thể tả bằng lời. Cho nên theo mình đừng nên khuyên ai “bỏ qua” quá khứ. Có thể nói họ hãy “forgive” (tha thứ). “Tha thứ” là quyền của người ta. Còn “bỏ qua” thì có phần ép buộc họ. Chúng ta không biết, không trải qua những gì họ đã chịu đựng. Chúng ta không thể đặt mình vào vị trí của họ rồi nói tại sao không “bỏ qua” đi. Không nên làm điều đó vì điều đó chỉ làm hại mình và hại họ thôi. Bạn đã phải ngồi tù tám năm sau cuộc chiến chưa? Bạn đã phải ôm con mình lết vào bờ khi thuyền của bạn bể làm đôi ngoài biển và bao nhiêu người chết chưa? Bạn có vượt biên để rồi chết hết tất cả chỉ còn mình sống sót hay chưa? Nếu chúng ta chưa trải qua những điều đó thì chúng ta không thể ngồi đây phán họ “bảo thủ” hay “tại sao không chấp nhận lẫn nhau”. 

Như cô Đại sứ Tôn Nữ Thị Ninh trong hội nghị về hòa giải tại Viện Hoa Bình Hoa Kỳ, cô ấy đại diện cho Nhà nước Việt Nam đi kêu gọi “reconciliation” (hòa giải) mà cô ấy lại đổ cho việc không thể hòa giải được lên đầu cộng đồng Việt Nam ở Mỹ, là do có một số người “bảo thủ.” Nói về hòa giải Việt Mỹ thì sao cô không nói về một số người Mỹ, vì cũng có những người Mỹ không chấp nhận Mỹ đi giúp Việt Nam như vậy. Nhất là trong hiện tại, Việt Nam vẫn đang có những vấn đề về “human rights” (nhân quyền) cho nên rất nhiều cựu quân nhân Hoa Kỳ không đồng ý Hoa Kỳ hòa giải với Việt Nam. Nhưng cô Tôn Nữ Thị Ninh chỉ nhìn vấn đề trong mối quan hệ với đối tác Mỹ, còn với cộng đồng người Mỹ gốc Việt thì cô chỉ nhìn theo kiểu họ không có ích gì cho mình. Nhưng Nghị quyết 36 cho thấy là Nhà nước Việt Nam nhìn người Việt ở nước ngoài như là một khối tài nguyên. Khối này mỗi năm gửi về Việt Nam hơn chục tỷ đô la, ngay cả trong những năm COVID thì vẫn không giảm. Cô Ninh với tư cách là người đại diện cho Nhà nước khi nói như vậy là vô trách nhiệm. Đang đi kêu gọi tình thương của nhau nhưng lại xoáy vào nỗi đau của người ta thì làm sao nhìn vào mặt nhau mà cười? Vì vậy mình hơi tiếc vì cô Ninh vốn là người giàu kinh nghiệm, và chính cô nói cô có một người em trai là cựu quân nhân VNCH. 

4. Lịch sử và hiện tại  

RFA: Triết gia Pháp thế kỷ 19 Renan có nói: sứ mệnh của khoa học lịch sử là tìm ra sự thật trong quá khứ. Nếu không thừa nhận sự thật thì không tạo ra được nhận thức lịch sử chung, do đó cũng không hòa giải được. Nhưng khi làm rõ sự thật thì sự thật đó phá vỡ những truyện kể lịch sử có tính tuyên truyền của hệ thống chính trị để tạo ra một “bản sắc quốc gia” có lợi cho nó. Như thế nó phá hỏng cái “nationhood” (tính chất như một dân tộc) mà hệ thống đó đang xây dựng, do đó nó sẽ ngăn cản. Đó là một nghịch lý. Làm sao để nghiên cứu lịch sử nói chung vượt lên nghịch lý này? 

Alex Thái Võ: Trong công việc của mình, Thái đã chuyển từ công việc của Bộ Quốc phòng ở Hawaii, đi tìm hài cốt quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh, sang một công việc khác, là xây dựng cơ sở dữ liệu về quân nhân mất tích của tất cả các bên. Đó cũng là một hành động hướng đến sự hài gắn. Tôi là con em của một cựu quân nhân VNCH, biết là cha mẹ mình đã bị như thế, anh chị em mình đã bị nhiều thiệt thòi. Nếu tôi suy nghĩ theo kiểu, ôi, đó là xác của mấy ông Cộng sản, những người đã hại cha, hại mẹ mình, hại anh em mình, thì sẽ không bao giờ hàn gắn được hết. Đối với mình, mỗi lần tìm được một hài cốt dù của người đã mất của bên nào thì cũng là tìm thấy được lịch sử. Tìm được cái lịch sử chung đó là có thể tạo ra được sự hàn gắn.

Chính phủ Việt Nam ngày nay nói là họ còn ít nhất khoảng 300 ngàn quân nhân mất tích. Phía Mỹ thì nói là họ còn khoảng một ngàn rưỡi. Ít nhất họ còn biết con số tương đối. Nhưng không ai biết còn bao nhiêu quân nhân VNCH mất tích mà chưa được đem về. 

Chúng tôi lập một cơ sở dữ liệu về những người tử sỹ, những liệt sỹ của tất cả các bên đã hi sinh, tức là về hoàn cảnh họ bị chết, rồi tập hợp lại, để sau này phân tích để tìm vị trí hài cốt của họ. Phải có nền tảng dữ liệu này thì chúng tôi mới có thể yêu cầu Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam hành động. 

Trung tâm Việt Nam học chỗ chúng tôi hiện có trên 30 triệu tài liệu, trong đó có hơn 260 ngàn hồ sơ trong thời chiến mà quân nhân VNCH và đồng minh đã thu thập được khi những người Cộng sản hi sinh hoặc bỏ lại khi chạy trốn. Dựa vào những thông tin đó, chúng tôi có thể phân tích, ví dụ như chỗ này có thể có bao nhiêu người chết, chỗ kia có thể có người được chôn cất. Chẳng hạn như cuốn nhật ký này được lấy ở tọa độ này thì chúng tôi biết ít nhất là ở tọa độ này đã từng có một xác chết có thể được chôn ở khu vực đó. Chúng ta không có tư liệu nói rõ ràng theo kiểu xác chết của người này nằm đúng vị trí kia. Chúng ta chỉ có thể phát hiện thông qua phân tích tư liệu. Chẳng hạn nhật ký này có vết máu thì tọa độ nơi lấy được nhật ký có thể có xác chết để tìm. Nếu mà biết được cuốn nhật ký đó liên quan đến đơn vị nào thì có thể liên lạc với những người còn sống để hỏi. Chẳng hạn nếu có được câu trả cụ thể kiểu như “tôi biết người đó chết ở đâu nhưng lúc đó không mang đi được” thì càng dễ tìm hơn. Hoặc chúng ta có thể phỏng vấn quân nhân VNCH có liên quan đến trận đánh để khảo sát kỹ hơn. 

Đại khái, trung tâm chúng tôi bây giờ đang tìm để xây dựng một cơ sở dữ liệu để tìm hài cốt quân nhân mất tích của tất cả các bên. 

Và chúng tôi cần sự giúp đỡ của người Việt Nam cả trong nước và khắp thế giới. Khi đã có cơ sở dữ liệu là có bao nhiêu người mất, bao nhiêu người mất tích, thì trên nền tảng đó chúng tôi sẽ tiến tới bước đi tìm trực tiếp. Sau cuộc chiến này thì hầu như gia đình nào cũng có người mất mà chưa tìm được. Nếu họ nhập dữ liệu người đã mất vào hệ thống của chúng tôi, như họ tên, ngày sinh, năm sinh, nhập ngũ khi nào, đơn vị là gì, cấp bậc là gì, năm mất tích là gì… Cho chúng tôi những thông tin đó thì chúng tôi có thể tìm và khảo sát.  

RFA xin trân trọng cảm ơn PGS. TS. Alex Thái Võ đã dành cho độc giả chúng tôi cuộc trò chuyện này.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn