Canh bạc Luang Prabang: Quân bài lật ngửa Sanakham

Chủ Nhật, 31 Tháng Năm 20209:00 SA(Xem: 3363)
Canh bạc Luang Prabang: Quân bài lật ngửa Sanakham
Ngày 11.05.2020, Ủy hội sông Mekong (MRC) ra thông báo về việc Chính phủ Lào sẽ tiến hành Tham vấn trước cho dự án thủy điện Sanakham. Ngày bắt đầu chính thức của sáu tháng thực hiện thủ tục Tham vấn trước dự kiến sẽ được quyết định tại cuộc họp của nhóm công tác gồm đại diện của Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam ngày 16.6.2020.
 
da30b16b-3284-4a3b-b9a8-d6ec661ef016
Thêm thủy điện Sanakham, dòng chính sông Mekong càng "nghẽn mạch".
Ba năm và sáu con đập chặn dòng Mekong
Dự án thủy điện Sanakham nằm trên dòng chính hạ nguồn sông Mekong, cách thủ đô Viêng Chăn (Lào) khoảng 155 km về phía hạ lưu, cách bờ biển vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thuộc Việt Nam khoảng 1.737 km. Dự án này có công suất 684 MW với tổng vốn đầu tư ước tính 2,073 tỷ USD. Dự kiến việc khởi công xây dựng dự án sẽ được thực hiện trong năm 2020 và hoàn tất để đưa vào vận hành năm 2028.
Điện năng sản xuất ra từ thủy điện Sanakham chủ yếu được bán sang Thái Lan [i].
Chủ đầu tư dự án Sanakham là Công ty thủy điện Datang Sanakham (Lào). Đây là công ty con của China Datang Corporation (CDT), một trong năm công ty phát điện lớn nhất Trung Quốc. CDT là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập năm 2002 và được trực tiếp quản lý bởi Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc [ii].
Tính đến thời điểm giữa tháng 5.2020, Sanakham là con đập thủy điện thứ sáu được Lào trình ra MRC để thực hiện thủ tục Tham vấn trước. Đã có hai con đập gồm Xayaburi và Don Sahong lần lượt được đưa vào vận hành từ tháng 10.2019 và tháng 01.2020. Hai dự án dù chưa xây dựng nhưng đã vượt qua thủ tục Tham vấn trước, gồm Pak Beng và Pak Lay lần lượt hoàn tất tháng 06.2017 và tháng 04.2019.
Dự án thứ năm là Luang Prabang bắt đầu Tham vấn trước từ tháng 10.2019, lẽ ra sẽ hoàn tất vào tháng 04.2020. Nhưng do đại dịch COVID-19, cuộc họp của Ủy ban liên hợp bốn quốc gia Mekong để thảo luận tuyên bố chung của dự án Luang Prabang đã được hoãn lại đến ngày 04.6.2020.
Chuỗi đập [thuỷ điện] này làm gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với những mất mát về đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản, năng suất nông nghiệp và sinh kế người dân.
Như vậy, chỉ trong vòng ba năm qua, đã có hai con đập được đưa vào vận hành, bốn con đập khác đang được ráo riết chuẩn bị để hiện thực hóa trong vòng tám năm tới. Dòng chính hạ nguồn sông Mekong đang dần “nghẽn mạch”, như cảnh báo của bác sỹ - nhà văn Ngô Thế Vinh, người đã vượt hành trình dài 4.800 km dọc dòng Mekong từ Tây Tạng xuống Biển Đông [iii].
Báo cáo đánh giá tác động tích lũy của 11 đập thủy điện trên dòng chính hạ nguồn Mekong (2017) [iv] và Nghiên cứu về quản lý và phát triển bền vững lưu vực Mekong (2019)[v] do MRC chủ trì thực hiện đã nhận định rằng những tác động tích lũy kinh tế - xã hội - môi trường do chuỗi đập này gây ra với Việt Nam là vô cùng nghiêm trọng. Theo đó, chuỗi đập này làm gia tăng mức độ tổn thương của cư dân ĐBSCL do hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún đất, xói lở bờ sông và ven biển, cùng với những mất mát về đa dạng sinh học, nguồn lợi thủy sản, năng suất nông nghiệp và sinh kế người dân.
9fe680e2-909d-450f-b513-191dc6eb22a2
Vị trí, hiện trạng và công suất các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong đến tháng 5.2019. Nguồn: Tác giả cập nhật từ bản đồ gốc của International Rivers (2017) và ICEM (2010)
Cửa bán điện của Luang Prabang càng hẹp
Trong 6 con đập đang và sẽ tạo ra sự “nghẽn mạch” của dòng Mekong, có sự tham gia tích cực của một doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. Đó là Công ty Điện lực Dầu khí (PV Power), người tiên phong phát triển dự án thủy điện Luang Prabang bằng việc ký kết một thỏa thuận với Chính phủ Lào từ tháng 10.2007.
Dự án Luang Prabang có công suất 1.460 MW, quy mô lớn thứ hai nhưng đã chiếm hơn 15% tổng công suất trong tổng số chín dự án thủy điện được quy hoạch trên dòng chính Mekong thuộc lãnh thổ Lào. Một doanh nghiệp đã được lập ra để đóng vai trò chủ đầu tư dự án Luang Prabang là Công ty TNHH Năng lượng Luang Prabang (LPCL). PV Power nắm 38% cổ phần của LPCL, hai cổ đông khác gồm Công ty TNHH PT (Lào) nắm 37% cổ phần và Chính phủ Lào nắm 25% cổ phần [vi].
Với vị trí địa lý và thị trường điện trong khu vực, dự án Luang Prabang chỉ có hai thị trường chủ yếu là Thái Lan và Việt Nam. Như đã phân tích trong bài “Canh bạc Luang Prabang - Bài 1: Hiệu quả tài chính còn để ngỏ” [vii], do đặc điểm kỹ thuật của dự án Luang Prabang, ước tính giá bán điện sang Thái Lan phải trong khoảng 7,5 - 8,6 UScent/kWh và về Việt Nam phải trong khoảng 8,6 - 9,6 UScent/kWh thì dự án này mới có hiệu quả về mặt tài chính.
Nếu bán sang Thái Lan, giá điện của Luang Prabang sẽ cao hơn từ 14% đến 30% so với giá điện của Xayaburi. Nếu bán về Việt Nam, giá điện của Luang Prabang sẽ cao hơn từ 1,8 đến 2 lần so với khung giá phát điện do Bộ Công thương ban hành, vốn đang duy trì ở mức 4,8 USCent/kWh.
Chính ông Hồ Công Kỳ, Chủ tịch HĐQT của PV Power, phát biểu trên Báo Đầu tư ngày 24.6.2019 rằng “dự án tốt” khi bán điện về Việt Nam với giá là 9,38 UScent/kWh. “Tuy nhiên, để triển khai dự án này, PV Power sẽ phải xây dựng cơ chế đặc thù trình Thủ tướng Chính phủ và có thể phải xin ý kiến Quốc hội. Quan điểm của PV Power là không hiệu quả sẽ không đầu tư”, ông Kỳ nói [viii].
Theo tính toán của tác giả bài này, nếu Việt Nam chấp nhận giá điện 9,38 UScent/kWh như PV Power mong đợi, thì ngân sách để bù giá điện là 4,6 USCent/kWh. Với lượng điện năng thương phẩm 6.231 GWh/năm, thì ngân sách hàng năm phải chi ra để bù giá cho Luang Prabang lên đến trên 285 triệu USD.
Tính trong tối thiểu 30 năm chu kỳ dự án, khoảng bù giá này là 8,6 tỷ USD.
Lưu ý rằng PV Power nắm 38% cổ phần trong dự án, Chính phủ và doanh nghiệp Lào cùng nắm 62% cổ phần dự án. Do đó, trong khoảng bù giá nêu trên, PV Power sẽ nhận được 3,3 tỷ USD, còn Chính phủ và doanh nghiệp Lào sẽ được nhận 5,3 tỷ USD.
Với Thái Lan, chính phủ nước này đã thu hẹp quy mô nhập khẩu điện từ Lào xuống còn 3.500 MW đến năm 2037. Nghĩa là bảy dự án Pak Beng, Luang Prabang, Pak Lay, Sanakham, Pak Chom, Ban Khoum và Phou Ngouy trên lãnh thổ Lào với tổng công suất đến 8.000 MW phải khốc liệt cạnh tranh nhau để bán điện cho Thái Lan. Chỉ tính riêng bốn dự án đã, đang và chuẩn bị Tham vấn trước, gồm Pak Beng (912 MW), Pak Lay (1.320 MW), Luang Prabang (1.460 MW), và Sanakham (684 MW) thì tổng công suất đã lên đến 4.376 MW, dư ra đến 876 MW công suất chưa biết bán cho ai. Hơn thế nữa, dự án Luang Prabang cũng có vị trí bất lợi nhất để bán điện sang Thái Lan trong số bốn dự án đó, do có khoảng cách truyền tải điện năng xa nhất.
Vì vậy, có thêm dự án Sanakham, cửa bán điện của dự án Luang Prabang sang Thái Lan ngày càng hẹp. Trong khi đó, nếu chấp nhận mua điện của Luang Prabang, Việt Nam sẽ phải mở đường cho việc chi ra hàng tỷ USD ngân sách từ tiền đóng thuế để hỗ trợ cho PV Power, cho Chính phủ và doanh nghiệp Lào.
Vì sao Sanakham nộp hồ sơ tham vấn sau Luang Prabang?
Ngày 31.7.2019, Chính phủ Lào thông báo cho Ban thư ký của MRC về ý định Tham vấn trước cho dự án thủy điện Luang Prabang. Chưa đầy hai tháng sau, ngày 09.09.2019, Lào gởi tiếp thông báo về ý định Tham vấn trước cho dự án thủy điện Sanakham, ngay sau khi hồ sơ Tham vấn trước dự án Luang Prabang được đệ trình đến MRC. Vì muốn tập trung vào việc Tham vấn trước cho Luang Prabang, nên MRC phải hoãn lại việc thông báo về thủ tục Tham vấn trước cho Sanakham đến ngày 11.05.2020 [ix].
Việc tham vấn liên tiếp hai dự án này có mối quan hệ gì với nhau?
Có luồng ý kiến chủ đạo cho rằng Việt Nam nên chủ động đầu tư vào Luang Prabang để “chủ động tham gia từ khâu thiết kế”, vì “Trung Quốc sẵn sàng nhảy vào đầu tư và chi phối các hoạt động của thủy điện ở Lào”[x]. Nghĩa là, vì một nỗi sợ vô hình về việc “Trung Quốc nhảy vào” nên Việt Nam “cần chọn cái dở ít nhất trong những cái dở” như ý kiến của ông TS Tô Văn Trường bằng việc khuyến khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang?
Theo Hồ sơ tham vấn trước của dự án thủy điện Sanakham do chủ đầu tư Datang chuyển cho MRC[xi] thông qua Ủy ban sông Mekong quốc gia Lào, điều đáng chú ý nhất là toàn bộ tài liệu đều ghi thời hạn lập tháng 10.2018. Đặc biệt, còn có một tài liệu ghi là Hội thảo Tham vấn & Khởi động (PNPCA Consulting & Opening Workshop) ngày 30.10.2018. Như vậy, Datang đã sẵn sàng mọi tài liệu để trình lên MRC và có thể bắt đầu thủ tục Tham vấn trước từ cuối tháng 10.2018. Điều gì khiến họ không làm điều đó mà phải chờ đến gần một năm để Luang Prabang thực hiện tham vấn trước, rồi ngay lập tức “lật ngửa quân bài”, gởi hồ sơ đệ trình dự án Sanakham lên MRC?
Không loại trừ khả năng đây là một tính toán chiến thuật của Công ty thủy điện Datang Sanakham. Vào thời điểm sẽ diễn cuộc họp của Ủy ban liên hợp các quốc gia Mekong để xem xét hồ sơ Tham vấn trước dự án Sanakham khoảng hơn sáu tháng tới, mọi thảo luận và quyết định của ủy ban này đối với dự án Luang Prabang đều sẽ được thông báo công khai. Lúc ấy, nếu Việt Nam quyết định ủng hộ PV Power đầu tư vào Luang Prabang, sẽ không còn một cơ hội nào cho Việt Nam phản đối Sanakham.
Trong khi còn chưa thấy một doanh nghiệp Trung Quốc (tưởng tượng) nào đó “nhảy vào” Luang Prabang, thì đã lù lù một công ty “bằng xương bằng thịt” là CDT xuất hiện để tích cực thúc đẩy dự án Sanakham. Việc khuyến khích PV Power đầu tư vào Luang Prabang bất chấp hậu quả và việc Datang lật con bài tẩy Sanakham nói lên điều gì?
Mặc dù Hiệp định Mekong 1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ quyết đối với các dự án được đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều đó không có nghĩa bất cứ một quốc gia nào cũng có thể thực hiện các dự án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc gia khác.
Một là, kiên quyết yêu cầu PV Power rút ra khỏi dự án Luang Prabang, tổng hợp thông tin về những thiệt hại của ĐBSCL do các dự án thủy điện đã vận hành gây ra để bằng mọi cách về ngoại giao và pháp lý nhằm yêu cầu Lào (và Trung Quốc) tuân thủ quyền sử dụng nguồn nước công bằng và hợp lý trên dòng Mekong.
Hai là, ủng hộ PV Power, chuẩn bị ngân sách để hỗ trợ PV Power, Chính phủ Lào và doanh nghiệp Lào đồng thời chối bỏ quyền phản đối của Việt Nam đối với tất cả các dự án thủy điện trên dòng chính Mekong.
Việt Nam sẽ chọn gì: kiên định với lập trường cách đây gần 10 năm, hay làm ngược lại với những gì đã nói?
Ngày 19.04.2011, trong Thông cáo báo chí của MRC về việc các nước hạ nguồn Mekong đưa quá trình Tham vấn trước về dự án Xayaburi lên cấp Bộ trưởng, Việt Nam đã bày tỏ các mối quan ngại sâu sắc về việc thiếu các đánh giá thỏa đáng, đầy đủ và toàn diện về các tác động xuyên biên giới và lũy tích mà dự án này có thể gây ra cho khu vực hạ nguồn, đặc biệt là vùng ĐBSCL. Việt Nam đề nghị trì hoãn dự án này và các dự án đề xuất xây dựng đập thủy điện khác trên dòng chính sông Mekong ít nhất là 10 năm.
“Việc trì hoãn nên được nhìn nhận một cách tích cực là một cách để có thêm thời gian cần thiết để chính phủ các nước ven sông tiến hành các nghiên cứu toàn diện và mang tính định lượng cụ thể hơn về tất cả các tác động lũy tích có thể có,” Tiến sỹ Lê Đức Trung, trưởng đoàn Việt Nam, phát biểu[xii].
Mặc dù Hiệp định Mekong 1995 không cho phép một quốc gia nào có quyền phủ quyết đối với các dự án được đề xuất trên dòng chính Mekong, nhưng điều đó không có nghĩa bất cứ một quốc gia nào cũng có thể thực hiện các dự án của họ mà bất chấp quyền lợi của các quốc gia khác. Việc thực hiện bất kỳ dự án nào mà không có sự đồng thuận của Ủy ban liên hợp thuộc MRC sau khi kết thúc quy trình Tham vấn trước đều vi phạm Hiệp định Mekong 1995. Điều này từng xảy ra với Xayaburi và Don Sahong khi Lào cho phép các chủ đầu tư hai dự án này tiến hành thi công dù không có bất cứ đồng thuận nào sau khi kết thúc Tham vấn trước [xiii].
Về nguyên tắc, khả năng khởi kiện chính phủ Lào ra các tòa án quốc tế về việc vi phạm Hiệp định Mekong 1995 vẫn còn để ngỏ cho các quốc gia Campuchia, Thái Lan và Việt Nam [xiv]. Việc Campuchia ra quyết định hoãn phát triển các đập thủy điện mới trên sông Mekong trong 10 năm tới [xv], gồm Stung Treng và Sambor, không chỉ là một bước đi đúng đắn về việc chuyển đổi sang các nguồn năng lượng thân thiện môi trường hơn mà còn có thể tạo điều kiện cho những hành động pháp lý quyết liệt hơn của quốc gia này đối với các dự án thủy điện trên lãnh thổ Lào.
Nguyễn Đăng Anh Thi
Chuyên gia Năng lượng và Môi trường (Canada)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn