Cliff Venzon - Khả năng tồn tại của liên minh Mỹ-Philippines

Thứ Ba, 19 Tháng Năm 20209:00 CH(Xem: 3253)
Cliff Venzon - Khả năng tồn tại của liên minh Mỹ-Philippines
Các nhà ngoại giao và quan chức quân sự ở cả Mỹ và Philippines đang tìm cách cứu vãn Thỏa thuận Các lực lượng thăm viếng (VFA) với lo ngại rằng khoảng trống an ninh do thoả thuận trên để lại có thể sẽ tạo cơ hội để Bắc Kinh tăng cường củng cố quân đội và bành trướng hơn nữa ở Biển Đông.

2%252815%2529
Hình minh họa
An ninh ở Biển Đông là trọng tâm của những nỗ lực cứu vãn VFA.
Vào giữa tháng 3 vừa qua, các quan chức quân sự Philippines và Mỹ đã họp tại trại Aguinaldo ở Manila nhằm giải quyết vấn đề nan giải nhất mà liên minh của họ đang phải đối mặt: Phải làm gì sau ngày 9/8 tới? Đó là thời điểm chính thức đánh dấu việc huỷ bỏ VFA, 180 ngày sau khi Manila đưa ra thông báo chấm dứt thoả thuận trên với đồng minh hiệp ước phòng thủ duy nhất của mình.
Phát biểu trong một diễn đàn thảo luận về thoả thuận trên, ông Renato De Castro, chuyên gia an ninh khu vực, giáo sư trường Đại học De La Salle (Philippines) cho biết “việc đơn phương chấm dứt VFA đã châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng lớn trong liên minh này”. Một quan chức quân đội Philippines phát biểu với tờ Nikkei Asian Review rằng các nhà ngoại giao và quan chức quân sự ở cả hai quốc gia đang tìm cách cứu vãn hiệp định mang tính sống còn này, với lo ngại rằng khoảng trống an ninh do thoả thuận trên để lại có thể sẽ tạo cơ hội để Bắc Kinh tăng cường củng cố quân đội và bành trướng hơn nữa ở Biển Đông.
Nhưng phép thử mới nhất cho mối quan hệ đồng minh kéo dài suốt 70 năm qua xuất hiện trong bối cảnh Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte đang ngày càng ngả về phía Trung Quốc, trong khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tiếp tục tỏ ra miễn cưỡng trong việc chi tiêu nhiều hơn vào “chiếc ô an ninh” cho các đồng minh châu Á. Trước đó, tức giận trước việc Mỹ chỉ trích chiến dịch chống ma túy bạo lực đã giết chết hàng nghìn nghi phạm ở Philippines, Duterte đã đe dọa từ bỏ VFA. Nhưng theo người phát ngôn của ông Duterte, Salvador Panelo, sự kiện phía Mỹ hủy cấp thị thực cho Thượng nghị sỹ Phillipines Rolando dela Rosa, một người bạn thân thiết và là đồng minh chính trị thân cận của ông Duterte, người đã lãnh đạo cuộc chiến chống ma túy với tư cách là cảnh sát trưởng quốc gia năm 2016 và 2017, là “giọt nước tràn ly”. (Duterte cho biết ông cũng đã từng bị Mỹ từ chối cấp thị thực khi ông dự định đi thăm một người bạn gái thời đại học).
Tháng 2/2020, phản ứng trước động thái của Duterte, Trump cho biết: “Tôi thực sự không hề để tâm nếu họ muốn làm vậy. Điều này sẽ giúp tiết kiệm được rất nhiều tiền. Quan điểm của tôi không giống với những người khác”.
Các bộ trưởng của hai nước đều mong muốn duy trì thoả thuận trên. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mark Esper cho biết việc Malina hủy bỏ thỏa thuận VFA là điều đáng tiếc và gọi đó là một hướng đi sai lầm, trong khi Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Teodoro Locsin Jr. mong muốn tiến hành một đánh giá toàn diện thay vì quyết định hủy bỏ thỏa thuận này.
Thoả thuận VFA năm 1998 nới lỏng các quy định cho phép binh lính và khí tài Mỹ vào Philippines trong gần 300 cuộc tập trận quân sự hàng năm, trong đó có các lĩnh vực phản ứng với thảm hoạ, chống khủng bố, an ninh biển và những chiến dịch khác. Trong một hội nghị trực tuyến hồi tháng 2 vừa qua, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ đảm trách các vấn đề chính trị-quân sự Clarke Cooper nhận định rằng “việc không có một VFA sẽ gây rủi ro cho các vấn đề như các cam kết hợp tác hay các cuộc tập trận”.
Thoả thuận VFA là một phần không thể tách rời của Hiệp ước phòng thủ chung năm 1951, vốn quy định Washington có trách nhiệm bảo vệ Manila trong tình huống bị cuộc tấn công từ bên ngoài. Quan chức quân sự cấp cao Philippines cho biết “VFA có vai trò tăng cường năng lực phối hợp tác chiến với quân đội Mỹ. Nó giống như là giai đoạn chuẩn bị cho trường hợp cần áp dụng Hiệp ước phòng thủ chung”. Đối với lực lượng quân đội “thèm khát được đầu tư” của Philippines, VFA cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ có thêm trang thiết bị.
Trong một cuộc điều trần trước Thượng viện Philippines vào tháng 2 vừa qua, ông Locsin đã trình bày những lợi ích đa dạng của việc duy trì liên minh an ninh với Mỹ. Ông Locsin cho biết trong giai đoạn 2016-2019, nửa đầu nhiệm kỳ kéo dài 6 năm của ông Duterte, khoản tài trợ quân sự mà Washinton dành cho Manila đã lên tới 554 triệu USD, trong đó dành 267 triệu USD để mua sắm trang thiết bị quốc phòng. Trong giai đoạn 2020-2021, Washington lên kế hoạch chi hơn 200 triệu USD mua sắm máy bay, huấn luyện và trang bị khí tài cho Philippines, đồng thời viện trợ hơn 45 triệu USD nữa.
Tuy nhiên, Duterte, người vừa ra lệnh tăng lương gấp đôi cho quân đội và phê duyệt các khoản mua sắm máy bay chiến đấu phản lực và khinh hạm, cho biết đã đến lúc cắt đứt quan hệ đồng minh với Mỹ. Trong một chương trình truyền hình vào tháng 2, ông Duterte đặt câu hỏi với các lực lượng vũ trang rằng: “Liệu chúng ta có thể tồn tại mà không cần đến Mỹ hay không? Chúng ta có cần đến Mỹ để tồn tại với tư cách là một quốc gia hay không? Chúng ta có cần vũ khí của họ hay không?.” Vị tổng thống này cho rằng nếu câu trả lời là không, thì “chúng ta có thể lựa chọn trở thành một vùng lãnh thổ của Mỹ hoặc trở thành một tỉnh của Trung Quốc”. Đó tất nhiên là một câu hỏi tu từ, nhưng những người chỉ trích Duterte tin rằng ông đã lựa chọn phương án thứ hai - trở thành một tỉnh của Trung Quốc.
Kể từ sau khi trở thành tổng thống, Duterte đã “xoay trục” sang Trung Quốc và hạ thấp mức độ nghiêm trọng của việc Bắc Kinh bành trướng ở Biển Đông để đổi lấy hàng tỷ USD từ các khoản đầu tư của Trung Quốc. Tổng thống Philippines đã nhiều lần tới Bắc Kinh và tuyên bố rằng: “Tôi chỉ yêu Chủ tịch Tập Cận Bình”. Trong khi đó, ông gọi Mỹ là “kẻ thô lỗ” và tuyên bố không đến thăm nước này. Tuy nhiên, quân đội của ông Duterte không phải lúc nào cũng có cùng quan điểm xoay trục sang Bắc Kinh. Giới lãnh đạo quân sự đã âm thầm ngăn chặn các dự án đầu tư của Trung Quốc mà họ nghi ngờ ẩn chứa những rủi ro về an ninh, chẳng hạn như nỗ lực của các công ty Trung Quốc mua lại nhà máy đóng tàu phá sản Hanjin ở vịnh Subic, một căn cứ hải quân trước đây của Mỹ ở Biển Đông. Khi báo chí đưa tin về việc ông Duterte ra lệnh xoá bỏ VFA, Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Delfin Lorenzana đã gọi đó là tin giả.
Đối với nhiều người, việc Manila hủy bỏ VFA đã gợi nhớ đến sự kiện lính Mỹ bị trục xuất khỏi Philippines vào năm 1991. Theo chuyên gia phân tích quốc phòng và lịch sử quân sự Jose Antonio Custodio, vào năm đó, Thượng viện Philippines, chỉ với cách biệt một phiếu, đã phản đối việc gia hạn Thoả thuận Căn cứ quân sự - một tàn dư của thời kỳ Chiến tranh Lạnh - buộc các lực lượng Mỹ dần rời các căn cứ ở Philippines từ năm 1992 cho đến khi lính Mỹ hoàn toàn rút khỏi nước này vào năm 1995.
Custodio cho biết: “Cũng chính năm 1995, Trung Quốc đã chiếm đá Vành Khăn. Trung Quốc đã quyết định lợi dụng khoảng trống do Mỹ để lại”. Giận dữ trước việc Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa, Philippines đã quyết định hiện đại hoá quân đội - ở thời điểm đó chỉ tập trung vào cuộc chiến chống phiến quân và lực lượng Hồi giáo ly khai ở miền Nam nước này. Nhưng tình trạng tham nhũng và cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990 đã cản trở công cuộc hiện đại hoá tốn kém này. Custodio bình luận rằng: “Công cuộc hiện đại hoá đã thực sự chết yểu. Nếu không vì sự kiện Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, thì tôi ngờ rằng sẽ không có VFA”.
Môi trường an ninh kể từ đó đã thay đổi. Trung Quốc - với nền kinh tế và quân sự hùng mạnh hơn – trên thực tế đã chiếm quyền kiểm soát Biển Đông bằng việc cải tạo 7 hòn đảo nhân tạo thành các tiền đồn quân sự. Năm 2012, Bắc Kinh chiếm bãi cạn Scarborough sau nhiều tháng đối đầu với Manila.
Duterte, người từng nêu ý tưởng thiết lập liên minh với Trung Quốc và Nga, đã hưởng ứng lập trường của Bắc Kinh rằng các nước không nằm trong khu vực như Mỹ có nguy cơ gây ra xung đột trên Biển Đông. Năm 2019, một trong những cuộc tập trận quân sự gần vùng biển tranh chấp liên quan đến nội dung huấn luyện chiếm lại sân bay. Theo chuyên gia phân tích an ninh De Castro, “quy mô và bản chất của cuộc tập trận quân sự trên có lẽ đã thức tỉnh Tổng thống Duterte”.
Albert del Rosario, cựu Bộ trưởng Ngoại giao dưới thời Tổng thống Benigno Aquino, đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về khả năng việc kết thúc VFA có thể sẽ là tiền đề cho việc hủy bỏ Thoả thuận tăng cường hợp tác quốc phòng (EDCA) năm 2014 - một thoả thuận cho phép Mỹ điều động binh lính đồn trú luân phiên và xây dựng các cơ sở ở Philippines - và cuối cùng là chấm dứt Hiệp ước phòng thủ chung. Trong một diễn đàn hồi tháng 2, ông del Rosario đã gọi động thái chấm dứt VFA là một “thảm hoạ quốc gia”, cho rằng “trên thực tế, điều này sẽ đặt dấu chấm hết cho quan hệ đồng minh Philippines-Mỹ như chúng ta đã biết”.
Nhưng các chuyên gia phân tích cho rằng việc huỷ bỏ Hiệp ước phòng thủ chung sẽ khiến các mối quan hệ đối tác an ninh khác của Philippines trở nên phức tạp, như quan hệ với Nhật Bản và Úc - hai đồng minh lớn của Mỹ.
Một số quan chức quân sự thừa nhận rằng VFA có tính thiên lệch. Binh lính Mỹ ra vào Philippines mà không cần phải có thị thực và các quan chức quân sự Washington có quyền giám hộ những binh lính phạm tội hình sự, như trường hợp một lính Mỹ bị Tòa án Philippines truy tố về tội giết người vì đã giết một người Philippines chuyển giới vào năm 2014. Vụ việc đó đã thổi bùng lên những lời kêu gọi huỷ bỏ VFA, tương tự với trường hợp một lính Mỹ bị bắt trong một vụ hiếp dâm hồi năm 2005.
Tuy nhiên, quân đội Mỹ và Philippines có mối quan hệ sôi nổi vượt ngoài khuôn khổ VFA, trong đó có hợp tác chia sẻ tình báo. Năm 2017, các lực lượng Mỹ đã hỗ trợ Philippines tiêu diệt thủ lĩnh của Maute, một nhóm phiến quân có liên hệ với tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) từng bao vây thành phố Marawi ở phía Nam nước này trong nhiều tháng.
Người dân Philippines cũng coi Mỹ là một đối tác nước ngoài đáng tin cậy nhất. Ngược lại, Trung Quốc nằm trong số những đối tác đáng ngờ nhất. Thượng viện Philippines, từng có tư tưởng bài Mỹ vào năm 1991, đã thách thức đề xuất huỷ bỏ VFA của ông Duterte bằng việc đề nghị Toà án tối cao ra phán quyết về việc Thượng viện phải có tiếng nói đối với số phận của thoả thuận VFA.
Walter Lohman, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu châu Á thuộc Viện an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại Davis, tin rằng quan hệ Mỹ-Philippines đủ mạnh để vượt qua cơn bão này. Lohman phát biểu với Nikkei rằng: “Tôi nghĩ thời kỳ hậu Duterte - thậm chí có lẽ từ trước khi ông rời đi hoặc trước khi thời kỳ chuyển tiếp kết thúc - chúng tôi sẽ tìm ra cách tiếp tục. Chúng tôi đã đưa mối quan hệ này vượt qua các giai đoạn khó khăn trong quá khứ”.
Cuộc họp giữa Philippines và Mỹ vào giữa tháng 3 vừa qua ở Manila nhằm lên kế hoạch cho các hoạt động vào năm tới cũng nhấn mạnh mong muốn của quân đội hai nước trong việc tiếp tục triển khai các cuộc tập trận. Vị sĩ quan cấp cao phát biểu với Nikkei rằng “chúng tôi đang cố gắng tách quân đội khỏi đời sống chính trị”. Bất chấp thông báo về việc chấm dứt thỏa thuận trên, các lực lượng Mỹ và Philippines vẫn sẽ triển khai một cuộc tập trận quân sự lớn vào tháng 5 tới có tên gọi Balikatan, có nghĩa là “vai kề vai”. Theo lời vị sĩ quan kể trên, cuộc tập trận trên sẽ diễn ra trừ khi bị đại dịch COVID-19 cản trở.
Ít nhất là cho đến trước khi Duterte điều động binh lính để triển khai lệnh phong toả kéo dài một tháng đối với đảo Luzon với dân số 57 triệu người, người ta vẫn mong đợi số binh lính tham gia cuộc tập trận Balikatan năm nay sẽ nhiều hơn so với năm ngoái.
Quân đội Mỹ rõ ràng không muốn rời đi. Trong một hội nghị trực tuyến mới đây, Đô đốc hải quân Mỹ, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương John Aquilino bày tỏ: “Có chút thất vọng khi điều đó xảy ra vào thời điểm chúng tôi coi trọng quan hệ đồng minh với Philippines như hiện nay, chúng tôi tiếp tục hợp tác với Hải quân Philippines và sẽ chờ xem câu chuyện này đi đến đâu”.
Giới ngoại giao cũng đang nỗ lực cứu vãn VFA. Ngày 28/2 vừa qua, Đại sứ Philippines tại Mỹ Jose Romualdez cho biết ông và người đồng cấp Mỹ ở Manila, Sung Kim, đã cố gắng tìm ra phương hướng và giải pháp để đưa ra điều gì đó tương tự. Nhưng vào ngày 1/3, Panelo - người phát ngôn của Duterte - cho biết lập trường của Tổng thống Philippines sẽ không thay đổi.
Khi được hỏi liệu liên minh Mỹ-Philippines có thể sống sót qua thời điểm này hay không, vị sĩ quan cấp cao kể trên trả lời rằng: “Lịch sử cho thấy mối quan hệ liên minh đó có thể sống sót”.
Cliff Venzon 
Minh Anh (gt)
* Cliff Venzon là nhà báo tại Nikkei. Bài viết được đăng trên Nikkei Asian Review.
(Nghiên Cứu Biển Đông)
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn