So sánh thái độ học hỏi nước ngoài của Trung-Nhật

Thứ Hai, 08 Tháng Giêng 201811:00 SA(Xem: 6068)
So sánh thái độ học hỏi nước ngoài của Trung-Nhật

mk_map_of_east_asia

Tác giả: Hư Châu (Trung Quốc) | Biên dịch:  Nguyễn Hải Hoành

Nhật Bản có rất nhiều cái để Trung Quốc học, trong đó thái độ học tập của họ là cái đặc biệt đáng học.

Thái độ học tập khiêm tốn cẩn thận của Nhật Bản không xa lạ gì đối với Trung Quốc. Từ đời Hán trở đi, sự giao lưu văn hóa Trung Quốc-Nhật Bản dần dần tăng cường; thời nhà Tùy, nhà Đường, các sứ thần Nhật Bản nối tiếp nhau vượt biển sang Trường An [kinh đô Trung Quốc thời ấy].

Trước nền văn hóa Hán xán lạn, người Nhật mở to mắt và say sưa học văn hóa Hán. Không những họ bê nguyên xi về Nhật toàn bộ các điển chương, thể chế, văn hóa tư tưởng, phong tục tập quán của Trung Quốc mà cả đến chữ Hán họ cũng cứ thế mà dùng không sai một tý nào – chữ Katakana sau này người Nhật sử dụng tuy có khác với chữ khối vuông [của Hán tự] nhưng thực ra là dùng bộ thủ của chữ khối vuông.

Có thể nói đó là thời kỳ Nhật Bản toàn bộ Hán hóa, không những văn hóa Hán là “dụng”, mà cũng là “thể”. Xã hội Nhật bắt đầu phát triển trên quỹ đạo văn hóa Hán. Bốn đảo hoang dại của nước Nhật [4 hòn đảo lớn Honshu, Hokkaido, Kyushu, Shikoku] làm nên phần lãnh thổ chính của nước Nhât, ra sức học Trung Quốc, một nước lớn văn hóa phong phú đa dạng. Về chuyện người Nhật không ăn Tết Trung thu như người Trung Quốc thì chẳng qua là do Trung Quốc đời nhà Đường còn chưa quy định lấy ngày 15 tháng 8 trăng tròn làm ngày Tết mà thôi. Điều đó chỉ nói lên Nhật Bản nhắm mắt theo đuôi mà học, không cắt xén chút nào. Sách “Thiên công khai vật”[1] thất truyền ở Trung Quốc sau phát hiện thấy ở Nhật là thí dụ chứng tỏ việc Nhật học Trung Quốc cho tới đời nhà Minh vẫn không bỏ sót bất kể thứ gì dù lớn dù nhỏ.

Người thạo học hỏi có một đặc điểm là biết chọn thầy.

Sau hai nghìn năm chuyên tâm học Trung Quốc, Nhật Bản phát hiện ra một ông thầy còn cao minh hơn Trung Quốc – đó là phương Tây.

Điều thần kỳ ở chỗ phương Tây vốn là kẻ thù không mời mà tự đến gõ cửa quốc môn luôn luôn đóng chặt của nước Nhật. “Dĩ địch vi sư” [coi kẻ địch làm thầy] thật là thần kỳ. Điều thần kỳ hơn nữa là trong lần “Dĩ địch vi sư” này, người Nhật học phương Tây với tinh thần hăng hái hơn nhiều so với ngày xưa học Trung Quốc.

Đô đốc Matthew C. Perry chỉ huy hạm đội Mỹ mở toang cánh cổng quốc môn Nhật Bản [năm 1854] chính là người đầu tiên mang văn minh phương Tây đến cho nước này. “Nơi Hạm trưởng Perry lên bờ” trở thành tấm bia kỷ niệm vĩnh viễn.

“Thoát Á nhập Âu” trở thành tọa độ học tập và phương hướng tiến lên của nước Nhật sau khi họ so sánh hai nền văn minh Đông và Tây. Một số người Nhật cực đoan nhất còn cổ súy dân Nhật lấy vợ lấy chồng người Âu Mỹ nhằm thay đổi huyết thống Nhật Bản.[2]

Có thể nói đây là thời kỳ nước Nhật toàn bộ Tây hóa, không những “Tây học vi dụng”, “Tây học vi thể” mà còn làm cho Nhật trở thành một nước phương Tây theo tiêu chuẩn phương Tây. Vì thế tư tưởng, chính trị, kinh tế văn hóa Nhật được cải tạo khá triệt để.

Đảo nhỏ phương Đông vốn dĩ bế quan tỏa cảng này loáng một cái đã trở thành nước lớn phương Tây chen vai thích cánh giữa các cường quốc Âu Mỹ  –  chẳng những là đệ nhất cường quốc châu Á mà còn tranh đua với liệt cường Âu Mỹ, cố tranh lấy ngôi thứ nhất, thực hiện giấc mơ “Phương Tây có Anh Quốc, phương Đông có Nhật Bản”. Trước tiên đánh bại nước Nga trong cuộc chiến tranh Nhật-Nga [1904-1905, trận hải chiến Tsushima 1905, hạm đội Nga bị tiêu diệt], sau đó trong đại chiến II đánh thiệt hại nặng quân đội Mỹ Anh, dàn tư thế cùng nước Đức xâu xé thế giới ở hai miền Đông Tây.[3]

Nhưng Nhật Bản sinh không gặp thời; thời đại chia cắt thế giới đã qua từ lâu. Giấc mơ cùng nước Đức phân chia thế giới bị quân đội Đồng minh đánh cho tan thành mây khói.

Người Nhật giỏi khoản học hỏi chuyến này phát huy tinh thần “Dĩ địch vi sư” lên tới cực điểm, chẳng những tổng kết sai lầm liên minh với Đức tranh bá thế giới mà còn không chút do dự trở lại truyền thống cũ liên kết với Anh Quốc, coi nước Mỹ là thầy tốt bạn hiền, bình tâm tiếp nhận sự chiếm đóng và bản hiến pháp hòa bình của quân đội Mỹ.

Việc ngoan ngoãn học Mỹ đem lại kết quả kinh ngạc: nền kinh tế Nhật nhanh chóng phục hồi và phát triển nhanh. Đứng lên từ đống tro tàn sau thất bại trong đại chiến II, Nhật Bản chỉ dùng thời gian nửa thế kỷ đã vượt qua tất cả các nước lớn châu Âu về sức mạnh kinh tế, trở thành số Hai thế giới chỉ sau Mỹ.

Trong đại chiến II, quân đội Mỹ không chỉ tiêu diệt tinh hoa của quân đội Nhật mà còn ném xuống Hiroshima và Nagasaki hai quả bom nguyên tử duy nhất loài người cho tới nay từng sử dụng. Hiện giờ quân đội Mỹ vẫn đóng trên đất Nhật, tàu chiến Mỹ vẫn đậu tại các cảng Nhật, thế mà Nhật không coi quân đội Mỹ là kẻ chiếm đóng, kẻ xâm lược. Điều đó không phải là do nhu cầu chiến lược cần quan hệ tốt với Mỹ mà là do chiến lược phát triển của Nhật đi theo con đường của Mỹ.

Lão Tử nói: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh, thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường” Nhật Bản vừa có cái sáng suốt của sự tự biết mình [tự tri giả minh], lại có cái khôn ngoan của kẻ hiểu biết người khác [tri nhân giả trí]; trước mặt nước Mỹ, nước Nhật là cậu học trò nhỏ thành kính. “Tự thắng giả cường” [kẻ tự thắng chính mình thì có sức mạnh] đã làm nên kỳ tích Nhật Bản, thực hiện trọn vẹn giấc mơ của họ.

Nhưng dù trải qua nhiều thăng trầm thì Nhật Bản vẫn cứ là Nhật Bản, vẫn mặc bộ Kimono, vẫn trải chiếu hoặc nệm ngủ trên sàn nhà , luyện thư pháp, thưởng thức và bình phẩm trà đạo, dùng chữ Katakano, thăm núi Fuji, không thoát khỏi châu Âu mà trở lại châu Á, là “quả chuối vỏ vàng ruột trắng” chỗ nào cần “trắng” thì đã “trắng”, chỗ nào cần “vàng” thì vẫn cứ “vàng” chứ không biến thành cây kem trắng từ trong ra ngoài.

***

Trung Quốc khác xa Nhật Bản.

Xưa nay tự cho mình là thiên triều thượng quốc, Trung Quốc chưa từng có yêu cầu học tập và quá trình học tập như Nhật Bản.

Các tiểu huynh đệ xung quanh [ý nói các nước nhỏ xung quanh Trung Quốc] quả thật chưa giúp gì lớn cho Trung Quốc: Trương Khiên đến Tây Vực [các nước ở phía Tây Trung Quốc] chẳng qua chỉ mang về được một số giống ngựa tốt, giống rau quả củ hạt mới, và nhạc khí ca múa, chỉ là những thứ thuộc phạm trù vật phẩm sử dụng để thêm thắt cho đời sống hàng ngày chứ không liên quan tới chủ thể văn hóa tư tưởng của quốc gia.

Phật Pháp truyền sang phía Đông, tư tưởng Thích Giáo [tức đạo Phật] do Đường Tăng mang về sau chuyến Tây Du chỉ là một phần bổ sung cho chủ thể văn hóa tư tưởng truyền thống Trung Hoa, tuy có thể thêu hoa trên gấm nhưng chưa đủ khả năng lấn át chủ thể [ý nói Nho giáo của Trung Quốc].

Còn chuyến viễn dương biển Tây của Trịnh Hòa hoàn toàn chỉ là hư trương thanh thế, ngoài việc làm vui lòng các hoàng thân quốc thích và mang về một số của quý vật lạ cho các quan lại quyền cao chức trọng ra thì chẳng có bất kỳ thu hoạch nào, vừa vô ích đối với sự “dụng” cho đời sống lại càng không giúp gì cho cái “thể” của văn hóa tư tưởng.

Nhưng nếu Trịnh Hòa thám hiểm của quý biển xa tay trắng mà về, thì tiếp đó các nhà truyền giáo châu Âu trải qua lễ rửa tội của cuộc Phục hưng Văn nghệ lại nhân thắng lợi của Christopher Columbus cưỡi thuyền vượt biển phát hiện châu Mỹ mà không ngại đường xa muôn dặm đem của báu văn minh phương Tây đến cho Trung Quốc.

Thế nhưng ngoài những thứ lương thực cứu mạng như khoai lang, khoai tây, ngô họ đem đến rồi được trồng rộng rãi ở Trung Quốc và phương pháp tính lịch thiên văn được áp dụng ngay, thì các thứ khác như tư tưởng, văn hóa, thành tựu khoa học của phương Tây đều bị Trung Quốc cấm cửa.

Trung Quốc chỉ dùng ngay, học ngay thứ gì có thể dùng được trong đời sống, nhưng những thứ ấy chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể đối với chủ thể văn hóa tư tưởng của Trung Quốc.

Đến thập niên 40 thế kỷ 19, cánh cổng lớn của nước Trung Hoa bế quan tỏa quốc, ngu muội lạc hậu bị tàu chiến súng lớn của Anh Quốc mở toang. Nguy cơ vong quốc diệt chủng trở thành thanh gươm Damocles treo trên đầu đại đế quốc già nua. Thiên triều thượng quốc xưa nay chưa từng học ai nay buộc phải học tập kẻ thù không đội trời chung.

Nếu cung cách “Dĩ địch vi sư” của Nhật Bản – một nước có nền móng văn hóa tư tưởng nông cạn – là đi theo con đường của “địch”, thì cung cách “Dĩ địch vi sư” của Trung Quốc có truyền thống văn hóa tư tưởng thâm hậu là mượn lực của “địch” để đi con đường cũ của mình.

Cho nên Nhật Bản cảm ơn đô đốc Perry người đầu tiên đặt chân lên nước Nhật; còn Trung Quốc thì căm giận lũ man di người Anh đã mở cánh cửa lớn của mình; cho tới ngày nay Trung Quốc vẫn còn nghiến răng nghiến lợi.

Đây là sự lựa chọn lịch sử. Anh Quốc đúng là kẻ xâm lược Trung Quốc, có thể nói chắc rằng trong chiến tranh không thể tránh được chuyện đốt nhà giết người cướp của. Bắt đầu từ đó Trung Quốc rơi vào cảnh nửa thuộc địa, Trung Quốc có đầy đủ căn cứ để căm thù Anh Quốc.

Song lịch sử ngu dốt lạc hậu của Trung Quốc trì trệ lâu đời cũng bắt đầu hạ màn khi quân đội Anh mở toang cánh cổng lớn của Trung Quốc.

Không có ngoại lực tác động vào mà chỉ dựa sức mạnh của bản thân thì chưa biết đến bao giờ Trung Quốc mới có thể mở được một trang sử mới, tiến sang một cuộc sống mới. Trung Quốc cũng có đầy đủ lý do để cảm ơn nước Anh.

Thực chất của nghịch lý lịch sử này là nên lựa chọn chế độ chuyên chế của hoàng đế hay chọn tiến bộ xã hội? Trung Quốc đã chọn hoàng đế.

Kiểu “Dĩ địch vi sư” của Trung Quốc không phải là sự lựa chọn chiến lược phát triển, đi con đường lịch sử thành công của “địch” để thực hiện phát triển đất nước, bảo đảm nhân dân hạnh phúc; mà là sự lựa chọn thủ đoạn có tính sách lược, đánh bại kẻ địch, vượt qua khó khăn, nhằm mục đích bảo đảm kiên trì và tiếp tục “Pháp thống”, “Đạo thống”, “huyết thống”, “bại thống”.

Kiểu “Dĩ địch vi sư” này chỉ học cái “hình”, không học cái “thực”, học cái “dụng” mà không học cái “thể”, tinh túy của nó là “Trung [Trung Quốc] học vi thể, Tây học vi dụng”.[4]

Do vậy cùng với thời gian, “hình” cũng học, “dụng” cũng học, nhưng do không học “thực” chất, không học “thể” chế của quốc gia, dù cách mạng thế nào, dù cải cách ra sao, phát triển đi, phát triển lại, nhà nước và nhân dân cứ mãi mãi ở dưới sự kiềm chế của cá nhân kẻ thống trị hoặc tập đoàn kẻ thống trị, cứ mãi bị chi phối bởi lợi ích của bọn chúng.

Cuộc cải cách của vương triều Mãn Thanh rồi Cách mạng Thái Bình Thiên Quốc là thế. Lòng yêu nước của Nghĩa Hòa Quyền[5] là như vậy, các cuộc cách mạng và cải cách của các nước cộng hòa[6] sau Cách mạng Tân Hợi cũng thế cả.

Học đi học lại là học cho thành ta, trở về cái bộ dạng cũ. Trung Quốc luôn luôn oán trách thầy bắt nạt trò, không nhìn thấy những vị học trò [ý nói Trung Quốc] chỉ muốn làm thầy. Cho nên kể từ Phong trào Dương Vụ[7] trở đi, Trung Quốc “dĩ địch vi sư” học phương Tây lâu đến nửa thế kỷ; từ Cách mạng Tân Hợi trở đi, Trung Quốc cũng học như vậy đã ngót 50 năm.

Từ Cải cách mở cửa đến nay học phương Tây lâu tới ba chục năm thế nhưng Trung Quốc vẫn là nước đang phát triển lớn nhất.

Nói làm kinh tế thị trường thế mà tại thị trường rộng 9,6 triệu cây số vuông lãnh thổ cộng 1,3 tỷ dân này nhu cầu trong nước vẫn cứ chưa đủ, lại phụ thuộc nhiều vào thị trường ngoài nước.

Nói kiên trì xã hội chủ nghĩa thế mà lại phát triển thành “đô thị như châu Âu, nông thôn như châu Phi”; phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt.

Nói phát huy dân chủ XHCN mà quyền lực tuyệt đối lại ngày một tuyệt đối, chống tham nhũng càng chống lại càng tham nhũng.

Hữu danh vô thực, cùng tên mà thực chất lại khác, thành tựu chẳng thể nào sánh nổi với Nhật Bản.

Học thái độ học tập “dĩ địch vi sư” của Nhật Bản, có lẽ “dĩ Nhật vi sư” mới thật sự là con đường hữu hiệu giúp ta [tức Trung Quốc] thoát ra khỏi cảnh khó khăn.

“Dĩ Nhật vi sư” không dễ. Trước tiên phải vượt qua hai trở ngại tâm lý:

1) Tâm lý coi thường Nhật hình thành trong lịch sử lâu dài, Đại Nhật Bản tự đánh giá cao trong mắt người Trung Quốc vẫn là Tiểu Nhật Bản [còn có nghĩa khinh bỉ là Nhật lùn].

2) Tâm lý thù ghét Nhật do nước này từng gây ra cho Trung Quốc nhiều đau thương trong chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Nhưng phải hỏi xem sự xâm lược ấy làm cho Trung Quốc ngu dốt lạc hậu bần cùng hay là do tình trạng Trung Quốc như vậy mà bị xâm lược? Nếu là do nguyên nhân sau thì biện pháp tốt nhất tránh tái diễn lịch sử không phải là dẫm đạp kẻ địch mà là phát triển bản thân.

Phải vượt qua hạn hẹp “dĩ địch vi địch”, tiến tới “dĩ địch vi sư” – điều đó rất khó, vì trên cánh đồng hoang tinh thần của Trung Quốc chỉ sẵn có loại cây gai “dĩ hữu vi địch”.

Một thí dụ điển hình là thái độ đối với Mỹ. Trong Thế chiến II Mỹ dẫn đầu các nước hủy bỏ tất cả các hiệp ước bất bình đẳng từng ký với Trung Quốc, ủng hộ đến cùng cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc, việc Mỹ tiêu diệt bộ đội tinh nhuệ của phát xít Nhật đã trực tiếp giúp Trung Quốc kháng chiến thắng lợi, lẽ ra Mỹ nên là đồng minh tin cậy và bạn tốt nhất của Trung Quốc.

Thế nhưng chúng ta đã làm ngược lại. Khi Đại sứ Mỹ muốn liên hệ với chính phủ Tân Trung Quốc [ý nói chính quyền Mao Trạch Đông] thì chúng ta đuổi họ về. Tiếp đó hai chục năm chĩa súng vào nhau “dĩ hữu vi địch”; rốt cuộc buộc phải trở lại hòa hảo với ông bạn bị coi là địch, và coi một ông bạn sống chết có nhau với mình là kẻ thù.[8]

Kiểu suy nghĩ thực dụng hoàn toàn xuất phát từ thủ đoạn sách lược ấy biến hóa khôn lường, thiếu quy hoạch lâu dài về chiến lược phát triển là nguyên nhân căn bản khiến Trung Quốc phạm sai lầm “dĩ hữu vi địch”, cũng là trở ngại lớn cho “dĩ địch vi sư”, đó là thứ trước hết cần được khắc phục trong lần học tập Nhật Bản này.

Ngoài ra cũng cần thấy Nhật Bản chưa phải là hoàn mỹ; ngay thái độ “dĩ địch vi sư” của họ cũng có lệch lạc: Nhật vốn không có truyền thống sáng tạo văn hóa tư tưởng nhưng do nóng ruột đuổi và vượt nên họ thường lấy phát minh sáng chế của người khác về học tập và áp dụng mà thiếu tư tưởng sáng tạo nhận thức thế giới và công nghệ sáng tạo ban đầu, cho dù ngày nay họ đã có nhiều giải Nobel nhưng Nhật vẫn chưa thể có tác dụng quyết định thúc đẩy kinh tế phát triển như các nước Anh Mỹ.

Phương Đông coi trọng tập thể chưa thể so đọ được với phương Tây coi trọng tự chủ của cá nhân. Vấn đề này có tính phổ biến ở Nhật; Trung Quốc cũng không ngoại lệ./.

Nguyễn Hải Hoành  lược dịch và ghi chú từ website “Học thuật Trung Quốc”.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn