Nữ nhi điêu tàn theo mệnh nước, Lê Thị Đàn…!!

Chủ Nhật, 01 Tháng Mười Hai 20195:00 SA(Xem: 4969)
Nữ nhi điêu tàn theo mệnh nước, Lê Thị Đàn…!!

Ấu Triệu Lê Thị Đàn

Quốc dân nô lệ xé lòng đau
Nhi nữ chen vai chẳng khác nào…
Giọng yến kiên trung… môi phượng vỹ
Nét xuân dũng cảm… má anh đào
Trắng dây một dải… theo người trước…!!
Đỏ máu mấy dòng… chạnh kẻ sau…!!
Hậu duệ Trinh Nương gương nguyệt mãn
Quần thoa lẫm liệt… sánh anh hào…

ADVERTISEMENT

Nguyễn Minh Thanh cẩn tác

1 – Lược sử bà Ấu Triệu Lê Thị Đàn

Ấu Triệu (? – 1910) tên thật Lê Thị Đàn, là một anh thư trong Duy Tân hộiPhong Trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu.

Vì nhiệm vụ bí mật, ít ai biết về bà. Song, trong tác phẩm “Việt Nam nghĩa liệt sĩ” cụ Phan Bội Châu có kể lại sự việc cộng tác của Bà nên đời sau mới biết và lưu truyền.

Với lại, vào năm 1926, khi cụ Phan bị giặc Pháp an trí ở Bến Ngự ( Huế ), năm 1927, cụ đã lập ngôi miếu nhỏ trong góc khu vườn, biển đề “Ấu Triệu Bi Đình” cạnh miếu có tấm bia khắc sơ lược truyện về bà Ấu Triệu. Tại đây, Cụ làm nơi hương khói… tưởng niệm vị nữ nhi anh kiệt…

Ấu Triệu Lê Thị Đàn, người làng Thế Lại Thượng, nay thuộc xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Sinh trưởng trong gia đình Nho giáo, được đi học. Bà nổi tiếng là người nết na đức hạnh, có biệt tài văn thơ…

Vào tuổi trưởng thành, gia đình bà lâm cảnh ngặt nghèo: mẹ mất sớm, các em còn nhỏ dạị, cha bị giặc Pháp bắt giam, gia sản bị tịch thu. Vì cha bà có chân trong Phong Trào Cần Vương.

Khi đó, có người tên Hinh, làm thông ngôn ở tòa Khâm sứ Trung kỳ, nói với bà, nếu bà chịu làm vợ ông, thì ông sẽ xin tha cho cha bà…

Bà Lê Thị Đàn đồng ý. Nhưng, một thời gian ngắn, ông Hinh phải đổi về Sài Gòn, Lê Thị Đàn vì cha già, em dại… không đi theo. Gần nhà bà có ông Võ Bá Hạp, bạn thân cụ Phan Bội Châu, qua lời giới thiệu của ông Hạp, Lê Thị Đàn được cụ Phan kết nạp vào Duy Tân hội, và được phân công làm liên lạc.

Từ năm 1904 – 1909, trải qua biết bao hiểm nguy, gian khổ trên tuyến đường hoạt động Trung – Bắc, mọi việc của Duy Tân Hội, như chuyển tài liệu, tiền bạc; hoặc là đưa rước người trong Phong Trào Đông Du đều nhờ vào tay bà.

Năm 1909, giặc Pháp ra sức đàn áp Phong Trào, nhiều người bị tù đày, bị chém hoặc phải tự sát. Ông Đặng Thái Thân, một đồng đội thân thiết của bà ở Nghệ An vừa mới tuẫn tiết, khiến bà Lê Thị Đàn vô cùng đau xót và căm phẫn bọn giặc.

Căm gan, không dằn lòng được, bà Lê Thị Đàn ngang nhiên chửi rủa bọn giặc. Bà bị chúng bắt giam vào tháng 3 năm 1910. Tên Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, đời vua Duy Tân, tay sai đắc lực của giặc Pháp là Trương Như Cương, được giao việc xét hỏi. Hắn dụ dỗ, cực hình tra tấn… Bà vẫn kiên quyết không khai báo chi cả…

Cảm nhận, không thể thoát và không thể sống được nữa, bà giả vờ chịu cung khai, nếu được tên Cương cho nghỉ ngơi một ngày…

Tin lời bà, tên Cương chấp thuận. Ngay đêm hôm ấy, bà đã cắn ngón tay lấy máu viết lên tường nhà lao ba bài Tuyệt Mệnh Thi chữ̃ Nho. Sau đó bà dùng dải (dây) thắt lưng bằng lụa trắng treo cổ. Bà tuẫn tiết tại nhà lao Quảng Trị, vào ngày 16 tháng 3 âm lịch năm Canh Tuất, tức ngày 25 tháng 4 năm 1910. Phần mộ bà bị thất lạc…!!

Do tính khí can trường, kiên trung, bất khuất trước giặc, cụ Phan Bội Châu lấy gương Bà Triệu Thị Trinh trong lịch sử Việt Nam đặt cho Lê Thị Đàn là Ấu Triệu, với ý nghĩa Bà Triệu Nhỏ.

2 – Mộ phần bà Ấu Triệu…

Mãi 98 năm… sau khi tuẫn tiết, năm 2008 người nhà mới có được hài cốt anh thư Ấu Triệu Lê Thị Đàn, do nhà ngoại cảm Nguyễn Thị Ngọc Lan ở Hải Phòng tìm thấy. Và hài cốt bà đã đưa về an táng nơi Nghĩa trang mang tên Phan Bội Châu. Nghĩa trang nầy, do chính Cụ Phan thành lập từ trước tại Huế, để làm nơi an táng các chí sĩ…

3 – Tuyệt Mệnh Thi của Ấu Triệu

Dưới đây là Tuyệt Mệnh Thi của Ấu Triệu Lê Thị Đàn viết bằng máu trên tường nhà lao Quảng Trị. Bài do ông Đặng Thái Mai dịch. Rất tiếc chữa tìm được nguyên bản chữ Nho.

Thơ Tuyệt mệnh

I. Lạnh lùng cảnh ngục lúc quyên sinh
Biển rộng đồng không mình biết mình.
Chết với nước non em tốt số,
Chạnh lòng tủi hổ lũ trâm anh!

II. Suối vàng gạt lệ gặp bà Trưng
Máu thắm hồn quyên khóc thảm thương.
Lạy Phật thân này còn hóa kiếp,
Tay xin nghìn cánh, cánh nghìn thương.

III. Huyết lệ dầu khan, giận chửa sờn
Chiều hôm tê tái nước sông Hương
Đảng ta khi quét xong quân giặc,
Trước nấm mồ em đốt bó nhang…

Đặng Thái Mai dịch

4 – Thơ & câu đối của cụ Phan

Thơ Đề bia Ấu Triệu

Lọ là các cậu, lọ là ông,
Ai bảo rằng thư chẳng phải hùng.
Miệng có chào lòng quên sấm sét,
Gan đành bỏ mạng tiếc non sông.
Dây lưng một dải bền hơn sắt,
Nét máu nghìn thu đậm với hồng.

Ai biết hỏi chăng thời chớ hỏi,
Hỏi hòn đá nọ biết hay không?

Phan Bội Châu

Ấu Triệu Lê Thị Đàn
Ấu Triệu bi đình tại nhà lưu niệm Phan Bội Châu, Huế. (Ảnh: Wikipedia)
Câu Đối ca tụng gương lẫm liệt Ấu Triệu của cụ Phan:

Tấm thân trót gả giang san Việt,
Tấc dạ soi chung nhật nguyệt trời!!

Tơ nhân sợi nghĩa dây lưng trắng,
Dạ sắt lòng son nét máu hồng!!

Phần kết

Ấu Triệu Lê Thị Đàn, một nữ nhi anh kiệt tuyệt vời. Ngoài đời, bà đã tận tâm, tận lực hoàn thành mọi công việc được phó thác do Duy Tân Hội… Khi sa cơ, chốn lao ngục, bà đã thiết thạch tấc lòng không khai báo một lời. Và dũng cảm tuẫn tiết…!!

Nhờ thế, tổ chức của bà, những người liên hệ với bà được an toàn vô sự.

Hậu sinh kính cẩn xưng tụng bà qua câu đối:

Ngoài thế đời tận tụy công cuộc, lòng sắt son tính toan… sống vì nước!!
Trong lao ngục trung trinh vụ việc, dạ thiết thạch lẫm liệt… chết vị nòi!!

Trong bài “Quá Linh Đinh dương” của Văn Thiên Tường, câu kết :

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Xưa nay ai sống mà không chết,
Để tấm lòng son rạng sử xanh.

Vâng, bà Ấu Triệu đã “Để tấm lòng son rạng sử xanh”. Bà tự chọn cho mình chỗ nằm long trọng tôn nghiêm. Chỗ nằm trong lòng dân tộc. Chỗ nằm được tẩm bởi hoa phong lan hương thơm dìu dặt…

Hương thơm trường cửu mãi thiên thu…

– chứa chan trong tâm khảm đồng bào,

– tan toả như sương lam trên những dãy núi,

– luân lưu theo mạch nước dòng sông… của nòi giống Việt Nam… và rọi truyền khí thiêng Lạc Hồng bất khuất…

Đôi dòng bi cảm:

Thảm sầu nữ kiệt tinh anh
Nửa đêm cắn máu… trời xanh ngậm ngùi…!!

Khách xứ giữa khuya, hậu sinh kính bút.

Nguyễn Minh Thanh biên soạn

Thu về trên lá, GA, 2019

Phụ chú:

Dưới đây là nguyên văn bài:

Quá Linh Đinh dương

Tân khổ tao phùng khởi nhất kinh
Can qua liêu lạc tứ châu tinh
Sơn hà phá toái phong phiêu nhứ
Thân thế phù trầm vũ đả bình
Hoàng Khủng than đầu thuyết hoàng khủng
Linh Đinh dương lý thán linh đinh
Nhân sinh tự cổ thùy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh

Văn Thiên Tường

Qua biển Linh Đinh

Cay đắng kinh qua lắm cảnh tình
Bốn năm xiêu lạc lụy đao binh
Tả tơi mành gió đau hồn nước
Tan tác bèo mưa xót phận mình
Thác Hoàng Khủng trập trùng khủng khiếp
Biển Linh Đinh lai láng linh đinh
Xưa nay ai sống mà không chết
Để tấm lòng son rạng sử xanh…!!

Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch

Hoàng Khủng: tên thác nước ở Giang Tây

Linh Đinh: tên biển ở cửa sông Châu, Quảng Đông

Nguồn:

Trang Web: Ấu Triệu, Văn Thiên Tường…

TNĐT – Danh Nhân Từ Điển, GS. Trịnh Vân Thanh

Đăng lại từ tạp chí Thất Sơn Châu Đốc (thatsonchaudoc.com)

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
Chủ Nhật, 15 Tháng Mười Hai 20198:00 SA
Thứ Bảy, 14 Tháng Mười Hai 20192:00 SA