Tài liệu: Những trận chiến cuối cùng 30/4/1975 – Từ ngày 10.3.1975 đến ngày 1.4.1975

Thứ Năm, 25 Tháng Ba 20216:28 CH(Xem: 5192)
Tài liệu: Những trận chiến cuối cùng 30/4/1975 – Từ ngày 10.3.1975 đến ngày 1.4.1975

Trong tài liệu tổng hợp của nhiều tác giả dưới đây gồm những tiết mục như sau:

10.3.1975: Cộng Quân tấn công Ban Mê Thuột

11.3.1975: Ban Mê Thuột thất thủ

12.3.1975: Quân Đoàn II tiếp cứu Ban Mê Thuột

13.3.1975: Di tản miền Trung

14.3.1975: Hội đồng An ninh Quốc gia họp tại Cam Ranh

14.3.1975: Di tản Cao Nguyên

14.3.1975: Tổng Thống Thiệu quyết định bỏ Cao Nguyên

15.3.1975: Tử chiến ở Quảng Nam

15.3.1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn II dời về Nha Trang

16.3.1975: Mặt trận Quảng Tín

16.3.1975: Quân Đoàn II triệt thoái

25.3.1975: Quân Khu I rút khỏi Huế

Advertisement
25.3.1975: Trận chiến ở Phú Yên bờ sông Ba

25.3.1975: Lực lượng VNCH rút khỏi Quảng Ngãi

26.3.1975: Kịch chiến ở Phú Thứ

27.3.1975: Trận chiến ở Bình Định

27.3.1975: Phòng tuyến Duy Xuyên, Quảng Nam bị tấn công

27.3.1975: Sư đoàn 10 CSBV tấn công Khánh Dương

29.3.1975: Lâm Đồng thất thủ

30.3.1975: Trận chiến Qui Nhơn

30.3.1975: Cộng quân tấn công phòng tuyến Khánh Dương

31.3.1975: Bình Định thất thủ

1.4.1975: Mặt Trận Khánh Dương

10.3.1975 Cộng Quân (CQ) Tấn Công Ban Mê Thuột

2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba năm 1975, Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào thị xã Ban Mê Thuột, tỉnh lỵ tỉnh Darlac. Khi trận chiến xảy ra, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh là Chuẩn tướng Lê Trung Tường đang chỉ huy mặt trận Pleiku, do đó Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã chỉ định Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 Bộ binh, chỉ huy mặt trận Ban Mê Thuột với sự hợp lực của Tiểu khu trưởng Darlac là Đại tá Nguyễn Trọng Luật.

Cộng quân mở đầu cuộc tấn công bằng những đợt pháo kích vào thị xã, các vị trí quân sự trọng yếu như Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, Bộ Chỉ huy Tiểu khu Darlac, doanh trại của các đơn vị thống thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh. Đến 4 giờ sáng, Cộng quân đã sử dụng mở cuộc tấn công chiếm kho đạn Mai Hắc Đế ở phía Tây thị xã. Đơn vị trú phòng đã bảo vệ được kho đạn. Đến 7 giờsáng Cộng quân ngưng pháo kích, chuyển sang tấn công bằng bộ binh và thiết giáp vào thị xã.Các đoàn chiến xa của Cộng quân đãõ bị các đơn vị của Tiểu khu Darlac đánh chận lại.

Trưa ngày 10/3/1975, Cộng quân mở đợt pháo kích dồn dập vào Bộ Chỉ huy Tiểu khu, bản doanh bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh. 13 giờ 30, Cộng quân tập trung hỏa lực pháo binh bắn vào doanh trại Bộ Chỉ huy Tiểu khu. 2 giờ chiều , Cộng quân tràn ngập vào doanh trại. Vào lúc 18 giờ, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân được thả xuống trong khu vực Bộ Chỉ huy Chi khu Buôn Hô rồi từ địa điểm này, khai triển lực lượng tiến vào thị xã Ban Mê Thuột.

Tại phi trường Phụng Dực, Cộng quân điều động 2 trungđoàn thuộc sư đoàn 320 và 1 tiểu đoàn chiến xa tấn công vào tuyến phòng thủ của Trung đoàn 53 Bộ binh/Sư đoàn 23 Bộ binh. Lực lượng phòng thủ đã ngăn chận được cuộc tấn công của địch quân. Tính đến 6 giờ chiều ngày 10/1975, các đơn vị Quân lực VNCH tại mặt trận Ban Mê Thuột đã loại ra ngoài vòng chiến khoảng 300 Cộng quân, bắn cháy 12 chiến xa T-54.

11.3.1975, Ban Mê Thuột Thất Thủ

Diễn biến chiến sự tại Ban Mê Thuột trong ngày 11-3-1975

-Vào 7 giờ sáng ngày 11/3/1975,Cộng quân bắt đầu nả pháo binh vào Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, một số quân xa đậu ở gần Trungtâm hành quân bị trúng pháo nổ tung ra. Đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Darlac, đi thẳng ra cửa bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh và lên 1 chiếc M 113 để quan sát, ông thấy cách đó 300 mét, hàng chục chiếc T 54 của CQ đang bao vây bộ Tư lệnh. Cùng lúc đó, CQ đang tấn công và bắn trực xạ vào lầu tư dinh Tỉnh trưởng. Trung đội phòng thủ đã bắn cháy 2 chiến xa địch ngay trước cổng bằng súng M72. Ngay sau đó, Trung đội này ra khỏi tư dinh.

-Khoảng 10 giờ sáng, pháo binh CQ ngưng tác xạ. Đại tá Luật nhảy lên pháo tháp của chiến xa M113 quan sát và thấy chiến xa CQ đang chuyển bánh. Ông nhảy vào xe và la lớn: “Sẵn sàng ứng chiến”. Chiến xa đầu của CQ chầm chậm tiến thẳng vào chiếc thiết vận xa M 113.Khi chiến xa địch còn cách 100 mét, Đại tá Luật ra lệnh cho xạ thủ đại bác 106 ly không giựt đặt trên xe khai hỏa. Ông hét lớn”bắn”. Thay vì nghe một tiếng nổ lớn của viên đạn ra khỏi nòng nhưng chỉ có một tiếng “cóc” phát ra. Binh sĩ xạ thủ báo cho ông biết súng bị trở ngại tác xạ. Sau một phút bàng hoàng,Đại tá Luật đã nghĩ ngay đến các phản lực cơ A 37.

Ông liên lạc với phi tuần L 19 quan sát và yêu cầu A 37 dội bom ngay vào cácchiến xa của CQ đang tiến vào bộ Tư lệnh, ông nói với quan sátviên L 19 là chấp nhận nguy hiểm vì chỉ có cách đó thì mới chậnđứng được cuộc tấn công của CQ.

-Hơn 10 giờ sáng ngày 11/3/1975, thình lình mọi người nghe một tiếng nổ ầm thật kinh hoàng. Trung tâm Hành quân Sư đoàn 23 Bộ binh đã bị Không quân ném nhầm. Trung tâm hành quân bịsập và các hệ thống liên lạc đều bị hư hại toàn bộ. Một số lớn sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ chết vàbị thương. Trước tình thế đó, Đại tá Luật bàn với Đại tá Vũ Thế Quang, Tư lệnh phó Sư đoàn 23 BB, kiêm Tư lệnh mặt trận Ban Mê Thuột,nên rút khỏi bộ Tư lệnh Sư đoàn ngayđể bảo toàn lực lượng. Đại tá Vũ Thế Quang đồng ý và ra lệnh rút quân.Lực lượng trú phòng lúc bấy giờ khoảng 100 người mở đường máu rakhỏi hàng rào và hướng về phía Tây tức là suối Bà Hoàng, cách BộTư lệnh Sư đoàn 250 mét.

– 11 giờ 50: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 mất liên lạc với Đại tá Quang và Đại tá Luật.

12.3.1975: Quân Đoàn 2 Tiếp Cứu Ban Mê Thuột

-Ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, quyết định tổ chức cuộc đổ quân tăng viện để tái chiếm Ban Mê Thuột. Theo kế hoạch của bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, lực lượng chính của cuộc phản công là Trung đoàn 45 Bộ binh (BB) và 1 tiểu đoàn của Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB đang phòng ngự tại Pleiku. Về phía Không quân VNCH tham gia cuộc đổ quân, ngoài các phi đoàn của Sư đoàn 6 Không quân mà bộ tư lệnh đặt tại Pleiku, còn có các phi đoàn trực thăng của Sư đoàn 1 Không quân (Đà Nẵng) và Sư đoàn 4 Không quân (Cần Thơ), với hơn 100 trực thăng đủ loại kể cả các loại Chinook.

-Theo lịch trình đổ quân, hai tiểu đoàn của Trung đoàn 45 BB và đại đội Trinh sát Sư đoàn 23 BB được trực thăng vận trước tiên. Tiếp đến, các Chinook móc theo các khẩu đại bác 105 thả xuống khu vực đổ quân của lực lượng đặc nhiệm tại quận lỵ Phước An.

-1 giờ 10 trưa ngày 12 tháng 3/1975, Thiếu tướng Phú rời bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đến Ban Mê Thuột trên một chiếc phi cơ nhỏ để trực tiếp điều quân. Tới Ban Mê Thuột vào khoảng 2 giờ chiều, Tướng Phú đã liên lạc với đơn vị trưởng của các đơn vị đang chiến đấu ở quanh Ban Mê Thuột như trung đoàn 53 BB ở phi trường Phụng Dực, Liên đoàn 21 Biệt Động Quân, các tiểu đoàn Địa phương quân Darlac. Cùng nhảy theo cánh quân cứu viện còn có Đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng 2 Quân đoàn 2, được Tướng Phú chỉ định giữ chức vụ Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Darlac thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Luật được ghi nhận là mất tích. Cùng đi theo Đại tá Tiếu, còn có bộ chỉ huy lưu động của Tiểu khu Darlac vừa thành lập.

-Chiều 12/3, sau khi hoàn tất việc điều động đợt đổ quân đầu tiên, Thiếu tướng Phú giao trách nhiệm chỉ huy trực tiếp các cánh quân tái chiếm Ban Mê Thuột cho Chuẩn tướng Lê Trung Tường, Tư lệnh Sư đoàn 23 BB, rồi ông trở lại Pleiku.

Cũng trong chiều ngày 12 tháng 3/1975, cùng lúc gia tăng áp lực tại chiến trường Ban Mê Thuột, thì tại -Pleiku, từ những đỉnh cao phía Tây Bắc của thị xã này, Cộng quân đã pháo kích bằng hỏa tiễn vào phi trường quân sự Cù Hanh và bộ Tư lệnh Quân đoàn 2. Một binh sĩ tài xế đang ở gần cột cờ Bộ Tư lệnh đã trúng đạn pháo kích và bị tử thương.

13-3-75: Di Tản Miền Trung

Những sự kiện chiến sự xảy ra từ ngày 10-3-1975, ngày Cộng quân mở cuộc tấn công cường tập vào Ban Mê Thuột, đến ngày 30 tháng 4/1975, ngày Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu họp Hội đồng An ninh Quốc gia duyệt xét kế hoạch bỏ 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Định.

-Ngày 13 tháng Ba năm 1975, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 được gọi về Sài Gòn để tham dự cuộc họp mật tại Dinh Độc Lập do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ tọa. Cuộc họp hôm ấy có sự hiện diện các nhân vật cao cấp nhất trong chính phủ gồm có Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng: Đại tướng Trần Thiện Khiêm; Tổng tham mưu trưởng QL.VNCH: Đại tướng Cao Văn Viên; Phụ tá An ninh và Quân sự của Tổng thống: Trung tướng Đặng Văn Quang.

-Tại cuộc họp, Trung tướng Trưởng trình bày trước Hội đồng An Ninh Quốc gia về tình hình tại chiến trường Quân khu 1, sau đó Tổng thống nói chuyện với mọi người bằng một vẻ nghiêm trọng. Tổng thống phân tích tình hình chung và nêu ra những khó khăn mà chính phủ đang gặp phải khi thiếu quân viện. Tổng thống nhìn nhận rằng không hy vọng Không quân Hoa Kỳ sẽ can thiệp trong trường hợp Việt Nam Cộng Hòa bị tổng tấn công. Tổng thống thông cảm với những khó khăn thiếu thốn của các tư lệnh Quân khu. Cho đến giờ phút đó, Tổng thống nhìn nhận rằng dù ông có ra lệnh đi nữa thì lệnh đó khó có thể thi hành được.

-Theo lời kể của Đại tướng Cao Văn Viên, thì trong buổi họp, Tổng thống nói rằng trước tình hình như vậy thì chỉ còn một cách duy nhất là thay đổi chiến lược để giữ vững những nơi hiểm yếu có nhiều tài nguyên quốc gia. Tại Quân khu 1 (có 5 tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi, 2 thành phố Huế, Đà Nẵng), khu vực trù phú cần phải giữ là Đà Nẵng.

-Chi tiết mà Đại tướng Viên kể lại ở trên khác với nội dung lời kể của Trung tướng Trưởng, theo đó, trong buổi họp ngày 13/3/1955, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Tướng Trưởng lập kế hoạch rút toàn bộ lực lượng VNCH khỏi Vùng 1 (Quân khu 1) và rút về tỉnh Phú Yên, VNCH thu gọn từ tỉnh Phú Yên đến Hà Tiên. Như thế lãnh thổ VNCH bị mất 6 tỉnh miền Trung, từ Quảng Trị đến Bình Định.

14-3-1975: Hội đồng An ninh Quốc gia họp tại Cam Ranh

-Trưa ngày 14 tháng 3/ 1975, trong khi Sư đoàn 23 BB đang khai triển các cánh quân để tiến về Ban Mê Thuột, tại Cam Ranh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang-phụ tá An ninh Quân sự của Tổng thống, đã họp mật với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2-Quân khu 2. Tại cuộc họp, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái toàn bộ lực lượng của Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên, di chuyển về các tỉnh duyên hải miền Trung thuộc lãnh thổ Quân khu 2. Về lộ trình rút quân, vị Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đã trình bày với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về tình hình các quốc lộ chính tại Cao nguyên Cao nguyên đã bị Cộng quân kiểm soát, chỉ còn liên tỉnh lộ 7B, con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ ra phía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh Phú Bổn về Phú Yên). Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý kế hoạch chọn liên tỉnh lộ 7B, nhưng cuối cùng Đại tướng Viên cũng không tìm ra một lộ trình nào khác, nên kế hoạch của Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 được chấp thuận.

*Trung tướng Ngô Quang Trưởng tái phối trí lực lượng bảo vệ Huế

Cũng trong ngày 14/3/1975, sau khi nhận chỉ thị của Tổng thống về kế hoạch tái phối trí quân, dù tình hình quân sự tại Quân khu 1 trở nên rất đáng ngại, thế nhưng Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 vẫn muốn giữ Huế và một số vị trí trọng yếu tại Quân khu 1. Sau khi suy nghĩ và phân tích tình hình, tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường dây đặc biệt trình bày ý kiến với đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin với Tổng thống

cho ông được tận dụng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng Tổng Thống chấp thuận. Được sự đồng ý của Tổng thống, Trung tướng Trưởng bay ra Huế họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh phó Quân đoàn 1, chỉ huy bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh phải giữ Huế thật vững vàng.

14.3.1975 Di Tản Cao Nguyên

14-3-1975: Tổng Thống Thiệu Quyết Định Bỏ Cao Nguyên

Loạt bài này được biên soạn dựa theo các tài liệu sau đây: hồi ký của cựu Đại tướng Cao Văn Viên do Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ phổ biến; hồi ký của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc phòng cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa; hồi ký của Trung tướng Ngô Quang Trưởng, một số bài viết của các nhân chứng, từng giữ các chức vụ trọng yếu trong Chính phủ và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và tài liệu riêng của Việt Báo.

*Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh triệt thoái lực lượng VNCH khỏi Cao nguyên Sau cuộc họp với Hội đồng AnNinh Quốc gia tại Dinh Độc Lập ngày 13/3/1975 có sự tham dự củaTrung tướng Ngô Quang Trưởng-Tư lệnh Quân đoàn 1- để bàn về kếhoạch tái phối trí lực lượng trong tình hình mới, sáng ngày 14tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang,Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếutướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2. Tại cuộc họp kéo dài gần 2 giờ, Tổnthống Thiệu ra lệnh cho Tướng Phú phảirút toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 tại hai tỉnh Pleiku và Kontumvề khu vực duyên hải miền Trung (Phú Yên và Khánh Hòa) để táiphối trí lực lượng phản công chiếm lại Ban Mê Thuột.

Khi được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hỏi nên rút quân theo trụclộ nào, Tướng Phú đã trình bày với Tổng thống Thiệu rằng các quốclộ chính nối trong khu vực Cao nguyên đã bị Cộng quân cắt đứt,chỉ còn liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ Quốc lộ 14 rẽ raphía nam cách thị xã Pleiku chừng 32 km, chạy theo hướng đông nam, xuyên qua Hậu Bổn về Tuy Hòa (tỉnh lỵ Phú Yên). Kế hoạchchọn liên tỉnh lộ 7B đã không được sự đồng ý của Đại tướng Viên vì ông cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đườngdài hơn 250 cây số mà không rõ tình hình an ninh là một việc “quásức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Tướng Viên cũng không tìm ra được một con đường nào khác nên kế hoạch của tướng Phú đã đượcchấp thuận.

Một chi tiết đặc biệt về lệnh triệt thoái Cao nguyên: Chủ lưc quân rút, Địa phương quân ở lại…

Trên đường trở lại Pleiku, Tướng Phú đã tâm sự với thiếu tá Phạm Huấn-sĩ quan Báo chí của tư lệnh Quân đoàn 2, là trong buổi họpông đã khẩn khoản xin Tổng thống Thiệu cho ông được tử thủ giữPleiku, nhưng đề nghị của ông đã không được chấp thuận. Một chitiết đặc biệt đã được Tướng Phú kể lại cho Thiếu tá Phạm Huấn vớinội dung như sau: Trong cuộc họp, Tổng thống Thiệu căn dặn tướngPhú rằng lệnh triệt thoái là tối mật, từ cấp tỉnh trưởng/tiểu khutrưởng trở xuống không được biết, có nghĩa là các lực lượng Địaphương quân vẫn ở lại chiến đấu, vẫn tiếp tục làm việc với tỉnhtrưởng, quận trưởng. Chỉ có toàn bộ chủ lực quân gồm Bộ binh,Pháo binh, Thiết giáp, Công binh, Không quân là phải triệt thoái.

Trước quyết định của Tổng thống Thiệu, Tướng Phú đã lo lắng vàhỏi lại: Thưa Tổng thống, nếu Chủ lực quân, Thiết giáp, Pháo binhrút đi, làm sao Địa phương quân chống đỡ nỗi khi Cộng quân đánh?Hơn 100 ngàn dân hai tỉnh Pleiku, Kontum, và gia đình anh em binhsĩ?

Tổng thống Thiệu trả lời: Thì cho thằng Cộng sản số dân dó.Với tình hình nặng nề hiện tại, mình phải lo phòng thủ, giữ được những vùng dân cư đông đúc…mầu mỡ hơn là bị kẹt quá nhiều quân trên vùng Cao nguyên! (Cuộc triệt thoái Cao nguyên, tác giả PhạmHuấn, xuất bản 1987, dòng thứ 1 đến dòng thứ 6, trang 86).

Về phần Đại tướng Cao Văn Viên, khi về đến Sài Gòn, ông đã chomời Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng phòng 3 bộ Tổng Tham Mưu(TTM) và báo cho vị trưởng phòng này về các chi tiết đã được bàntrong buổi họp tại Cam Ranh.

Tham mưu trưởng Bộ TTM là trungtướng Đồng Văn Khuyên lúc ấy đang công tác ở ngoại quốc. Cuộchành quân cũng được giữ bí mật tối đa do chính Tổng thống ra lệnh trực tiếp cho viên tư lệnh chiến trường nên Bộ TTM không đượcquyền ra lệnh làm gì hết, kể cả việc tái phối trí các đơn vịKhông quân và lực lượng tăng phái cho Quân đoàn 2 tại Pleku và Kontum.

Vào thời gian này, tại vùng Kontum và Pleiku chỉ còn 1 tiểu đoàncủa Trung đoàn 44 thuộc Sư đoàn 23 BB, 5 Liên đoàn Biệt Động QuânQK 2, thiết đoàn 21 M 48, hai tiểu đoàn pháo binh 175 mm và cácđơn vị yểm trợ như Liên đoàn 20 Công Binh Chiến Đấu, Liên đoàn231 Yểm trợ Tiếp Vận, kho đạn của Không quân và Lục quân vớikhoảng 20 ngàn tấn đạn, kho tồn trữ nhiên liệu với trữ lượng dùngtrong 45 ngày và nhu yếu phẩm và thực phẩm đủ dùng trong haitháng. Nhiệm vụ của Tướng Phú là làm sao đưa hết được các đơn vịvà tiếp phẩm này về Nha Trang và để từ đó mở cuộc phản công táichiếm lại Ban Mê Thuột.

Cuộc họp của Thiếu tướng Phú về kế hoạch rút quân:

Theo lời ban tham mưu của Tướng Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp tại chiếc bunker của ông, vớithành phần tham dự gồm có: Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân,Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 1(gồm 5 liên đoàn Biệt động quân), Đại tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 & Quân khu 2. Mở đầu cuộc họp đặc biệt này,tướng Phú đã thừa lệnh Tổng thống VNCH gắn cấp Chuẩn tướng choDại tá Phạm Duy Tất. Ngay sau đó, ông trình bày tóm tắt nội dungcuộc họp tại Cam Ranh và chỉ định chuẩn tướng Trần Văn Cẩm và tânChuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy tổng quát cuộc rút quân khỏi Cao nguyên. Kế hoạch cuộc chuyển quân được phổ biến vắn tắt: Tướng Phú và Bộ tư lệnh nhẹ sẽ đi Nha Trang trước bằng trực thăng. Chuẩn tướngTất chỉ huy toàn bộ các đơn vị tham gia cuộc triệt thoái từKontum và Pleiku về Tuy Hòa theo tỉnh lộ 7 B. Đại tá Lê Khắc Lýđược giao trách nhiệm điều động bộ tham mưu quân đoàn và các đơnvị yểm trợ. Toàn bộ cuộc hành quân đặt dưới sự giám sát của chuẩntướng Trần Văn Cẩm.

Theo kế hoạch do Tướng Phú đề ra, Liên đoàn 20 Công binh chiến đấu sẽ cho một đơn vị đi đầu để làm thành phần tiên phong cónhiệm vụ sửa chữa cầu cống, đường sá khi cần thiết. Các đơn vị thiết giáp được giao nhiệm vụ yểm trợ đoàn xe vận tải. Các đơn vị Địa phương quân và Nghĩa quân trong khu vực đoàn quân đi qua chịu trách nhiệm an ninh trục lộ. Đi cuối cùng là hai Liên đoàn Biệt động quân và 1 đơn vị thiết giáp. Các đơn vị cuối cùng này sẽ rờiPleiku vào ngày 19/3/1975.

Do cuộc chuyển quân rầm rộ với nhiều đơn vị và hàng trăm xe vậntải cùng nhiều quân cụ nặng nên thời gian chuẩn bị phải mất hết 4ngày liên tiếp, bắt đầu từ ngày 16 tháng 3/1975. Sau khi họp với các đơn vị trưởng, sáng ngày 15 tháng 3, Thiếutướng Phú cùng với một số sĩ quan được chọn lựa trong ban thanmưu bay về Nha Trang để tái tổ chức lại bộ tư lệnh Quân đoàn ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Cẩm và vài sĩ quan thân cận bayđi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân di chuyển từ Pleiku về. Cũngtrong ngày này, đã có một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo cáctoán nhỏ. Như đã trình bày ở trên, từ khi có cuộc tái phối tríđược nêu ra trong cuộc họp cho đến khi bắt đầu thực hiện, tất cảđều tiến hành một cách bí mật, không một lời nào được tiết lộ, kểcả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.

Tỉnh trưởng Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, còn tỉnh trưởng Kontum thì đến phút chót mới biết được và ông đã tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.

Ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù  liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân chúng biết. Vậy là mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguy hiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…

15-3-1975: Tử Chiến Ở Quảng Nam

*Cộng quân tấn công nhiều khu vực tại phiá Tây tỉnh Quảng Nam

-Ngày 15-3-1975, Cộng quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí đóng quân của lực lượng Địa phương quân, Nghiã quân trên địa bàn các quận Duy Xuyên, Quế Sơn, Đức Dục, Đại Lộc của tỉnh Quảng Nam. Kịch chiến đã diễn ra tại khu vực Gò Nổi, cầu Bà Rén và Nam Phước. Tại Gò Nổi, lực lượng Địa phương quân đã đẩy lùi cuộc tấn công của Cộng quân, loại ngoài vòng chiến hơn 20 Việt Cộng, bắt 2 tù binh, thu gần 20 cây súng.

-Cũng trong ngày 15/3/1975, Liên đoàn 915 Địa phương quân Quảng Nam với sự yểm trợ của 1 chi đoàn thiết giáp thuộc Thiết đoàn 11 Kỵ binh/Sư đoàn 3 Bộ binh, đã giải tỏa áp lực của Cộng quân tại Bà Rén, và một đoạn của Quốc lộ 1 ở phía Nam tỉnh Quảng Nam.

15.3.1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 dời về Nha Trang

-Sáng ngày 15- 3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 cùng với một số sĩ quan trưởng phòng và sĩ quan tham mưu của đã bay về Nha Trang để tái tổ chức Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 tại đây.

-Cũng trong ngày 15-3-1975, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan tham mưu bay đi Tuy Hòa(tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) để chuẩn bị đón đoàn quân của Quân đoàn 2 di chuyển từ Pleiku về. Cũng trong ngày này, một số quân xa bắt đầu rời Pleiku theo các toán nhỏ. Do kế hoạch triệt thoái tiến hành một cách bí mật theo lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, nên không một thông tin nào được tiết lộ, kể cả không cho các tỉnh trưởng của hai tỉnh Kontum và Pleiku biết.Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng tỉnh Pleiku nhờ ở gần bộ Tư lệnh nên được biết trước, còn vị Tỉnh trưởng/Tiểu khu trưởng Kontum, theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, viết cho Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ, thì đến phút chót mới biết được và ông đã tháp tùng theo đoàn quân, nhưng giữa đường thì bị CQ bắn chết.

16.3.1975: Mặt Trận Quảng Tín

Cộng quân mở nhiều cuộc tấn công tại Tây Nam và Tây Bắc tỉnh Quảng Tín

-Trong ngày 16/3/1975, tại miền Trung, lực lượng Cộng quân tại tỉnh Quảng Tín đã tung quân tấn công cường tập khu vực Bình Tú, thuộc quận Thăng Bình và nhiều vị trí đóng quân của Địa phương quân tại khu vực Tây Nam và Tây Bắc của tỉnh Quảng Tín. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh(trách nhiệm chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng; tùy theo tình hình, đảm trách thêm khu vực phía Nam tỉnh Quảng Tín), đã điều động Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 2 Bộ binh tăng cường 1 chi đoàn của Thiết đoàn 11 Kỵ Binh giải tỏa áp lực Cộng quân. (Trước đó, Cộng quân đã tràn chiếm các quận Tiên Phước, Hậu Đức, liên đoàn 916 Địa phương quân của tỉnh Quảng Tín bị tổn thất nặng sau những trận kịch chiến với Cộng quân).

Đoàn quân đầu tiên của Quân đoàn 2 rút khỏi Pleiku

Cũng trong ngày 16 tháng 3, đoàn xe đầu tiên của Quân đoàn 2 khởi hành rakhỏi thị xã Pleiku như đã trù liệu. Nhưng khi chiếc xe cuối cùngvừa rời khỏi bến thì tin này được dân

chúng biết. Mọi người vội vàng bỏ thành phố bằng bất cứ phương tiện nào sẵn có,ngay cả chạy bộ, và mang theo bất cứ thứ gì có thể mang theođược. Sau đó đoàn người từ Kontum cũng nhập vào thành một đoànngười cả quân lẫn dân kéo dài dọc theo liên tỉnh lộ 7B đầy nguyhiểm. Cuộc chuyển quân của Quân đoàn 2 khỏi Pleiku bắt đầu…

-Theo lịch trình, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh, Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểm trợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.

16.3.1975: Quân Đoàn 2 Triệt Thoái

Ngày 16/3/1975: Chuẩn tướng Phạm Duy Tất tổng chỉ huy cuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên.

Ngày 16/3/1975, thi hành quân lệnh của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu đã ban ra tại cuộc họp lịch sử ở Cam Ranh ngày 14-3-1975, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, đã cho lệnh triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi 2 tỉnh Pleiku và Kontum của Cao nguyên Trung phần.

Theo phân nhiệm của Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tân Chuẩn tướng Phạm Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2, được ủy nhiệm tổng chỉ huy toàn bộ các đơn vị triệt thoái.

(Trước đó, vào sáng ngày 15 tháng 3, Thiếu tướng Phú cùng với một số sĩ quan trong Bộ Tư lệnh bay về Nha Trang để tái tổ chức lại Bộ tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 ở đây. Cũng trong ngày này, Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phụ tá Hành quân Tư lệnh Quân đoàn 2 và vài sĩ quan thân cận bay đi Tuy Hòa để chuẩn bị đón đoàn quân triệt thoái từ Pleiku và Kontum về) .

Theo lịch trình triệt thoái khỏi Cao nguyên, ngày 16 tháng 3/1975, một số đơn vị tiếp vận, Pháo binh,Công binh của Quân đoàn 2 di chuyển trên 200 quân xa, với sự yểmtrợ của một đơn vị Thiết Giáp, đã khởi hành ra khỏi thị xãPleiku, đây là lực lượng đi đầu của của đoàn quân triệt thoái.

Sau thành phần đi đầu, lịch triệt thoái của các ngày kế tiếp như sau: vào ngày 17-3. các đơn vị Công binh, Pháo binh còn lại cùng Quân y với trên 250 xe sẽ di chuyển vào ngày 17/3/1975 và cũng do Thiết giáp tháp tùng bảo vệ. Ngày 18/3/1975: Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2, đơn vị Quân cảnh, một phần của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh, cùng khoảng 200 quân nhân của Trung đoàn 44 Bộ binh triệt thoái, và cũng được Thiết giáp đi theo bảo vệ. Ngày 19/3/1975: lực lượng đoạn hậu gồm có Biệt động quân và đơn vị thiết giáp cuối cùng.

3802977789_94097de198_z

Theo lộ trình, đoàn quân sẽ từ Pleiku di chuyển về phía Nam củaQuốc lộ 14 để đến giao điểm QL 14 và Liên tỉnh lộ 7 cách thị xãPleiku khoảng 33 km đường chim bay về phía Nam, từ giao lộ này đoàn quân sẽ tiếp tục di chuyển dọc theo liên tỉnh lộ 7 B về hướng Đông Nam, xuyên qua tỉnh lỵ Phú Bổn để về Tuy Hòa.

Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phân tích về liên tỉnh lộ 7B và cuộc rút quân của Quân đoàn 2.

Trong phần trình bày về cuộc họp tại Cam Ranh, VB đã lược trình về quyết định của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu ra quân lệnh cho Thiếu tướng Phạm Văn Phú triệt thoái Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Sau đây là những ghi nhận chi tiết về quân lệnh này.

Tại cuộc họp Cam Ranh, khi nghe Thiếu tướng Phú chọn Liên tỉnh lộ 7B làm trục lộ rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên không đồng ý, vị Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH cho rằng đưa một quân đoàn di chuyển trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số mà không nắm rõ tình hình an ninh lộ trình là “quá sức liều lĩnh”, tuy nhiên cuối cùng Đại Tướng Viên cũng không tìm ra được một trục lộ nên kế hoạch của Thiếu tướng Phú đã được Tổng thống VNCH

Nguyễn Văn Thiệu và Hội đồng Quốc gia chấp thuận.

Nhận định về địa hình liên tỉnh lộ 7 B, Đại tướng Cao Văn Viên phân tích rằng ngoài trừ khúc từ Quốc lộ 14 đi Hậu Bổn còn dùngđược, đoạn còn lại không biết tình hình giao thông như thế nào.Tuy nhiên, có một điều mà Quân đoàn 2 biết trước là cầu bắc quasông Ba về phía nam Củng Sơn đã bị phá hủy hoàn toàn, không thểsửa chữa được, và đoạn đường chót đến phía tây Tuy Hòa thì nhữngvào năm trước 1973, lực lượng Đại Hàn hoạt động tại đây đã gài mìn dày dặc.

Trong khi Đại tướng Viên lo ngại về lộ trình rút quân, thì Thiếu tướng Phú lại tin tưởng về kế hoạch chuyển quân theo Liên tỉnh lộ 7B. Đây là con đường đá từ quốc lộ 14 đi Hậu Bổn (có đèo Cheo Reo) về Tuy Hòa sát biển. Đường này rất ghồ ghề, đá lởm chởm và bị bỏ lâu không dùng đến. Giải thích về sự chọn lựa này, Thiếu tướng Phú trình bày rằng yếu tố bất ngờ đã khiến ông có dự tính như thế.

Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu Bộ Tổng tham mưu cung cấp phương tiện cầu nổi để qua sông mà thôi. Với quyền hạn của một Tổng tham mưu trưởng, Đại tướngViên chấp thuận ngay lời yêu cầu của Thiếu tướng Phú.

Nhận định về quyết định của Tổng thống Thiệu và kế hoạch chuyển quân của Thiếu tướng Phú, Đại tướng Viên cho rằng “đưa một lực lượng cỡ quân đoàn với đầy đủ quân cụ, quân xa và nhiều thứ khác trên một đoạn đường dài hơn 250 cây số qua núi cao và rừng già trên vùng Cao nguyên mà không biết tình hình an ninh con đường đó ra sao quả là một việc quá sức liều lĩnh. Có tạo được yếu tố bất ngờ haykhông là do khả năng di chuyển nhanh gọn. Nhưng là một người chỉhuy sáng suốt thì lúc nào cũng phải có sự cẩn trọng trước tình trạng là địch đang có mặt hầu như cùng khắp tại khu vực đó”.

Cũng trong buổi họp tại Cam Ranh, Đại tướng Viên đã nhắc nhở Thiếu tướng Phú về những khó khăn và nguy hiểm sắp đến, cũng như biện pháp an ninh cần chuẩn bị. Đại tướng Viên cũng đã đề cập đến sự thất bại của quân Pháp khi muốn rút quân từ Lạng Sơn về đồng bằng trong năm 1947. Ông cũng nhắc đến hai cuộc chuyển quân của hai binh đoàn Pháp trước năm 1954, theo đó một binh đoàn từ Thất Khê lên hướng Bắc và một binh đoàn từ Cao Bằng di chuyển về hướng Nam, tất cả đều bị đánh tan nát tại chân núi xung quanh Đông Khê, dọc theoQuốc lộ Thuộc Địa số 4. Về địa thế và con đường mà Thiếu tướngPhú chọn để di chuyển quân đoàn 2 thì vào tháng 6/ 1954, Lựclượng Cơ động 100 nổi tiếng của quân đội Liên Hiệp Pháp tại ĐôngDương đã bị thảm sát trên Quốc lộ 19 gần An Khê và số sống sót còn lại cũng bị tiêu diệt tại Đeo Chu-Drek trên Quốc lộ 14. Theo Đại tướng Viên, đó là “những bài học máu xương và thảm khốc nhất mà bất cứ vị chỉ huy nào cũng phải biết rõ vì địa thế hiểm trở củavùng Cao nguyên là vậy”.

Về tình hình Ban Mê Thuột sau khi thất thủ vào ngày 11/3/1975, Đại tướng Viên cho biết thêm: tại cuộc họp ở Cam Ranh, Tổng thống Thiệu chỉ hỏi một câu quan trọng nhất liên quan đến số phận của Ban Mê Thuột, đó là Thiếu tướng Phú có thể chiếm lại Ban Mê Thuột không. Những người tham dự đều biết trước là Thiếu tướng Phú không khẳng định được điều này nên không có câu trả lời dứt khoát. Thiếu tướng Phú chỉ yêu cầu tăng thêm viện binh.

Quay sang Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu hỏi xem còn lực lượng nào có thể tập trung đưa lên giải vây không. Hỏi vậy nhưng chắc chắn ông biết rõ câu trả lời. Đại tướng Viên cho biết đơn vị cuối cùng là Liên đoàn 7 Biệt Động Quân đã được phái lên Vùng 2 theo yêu cầu của Thiếu tướng Phú. Lực lượng chủ chốt là Sư đoàn Nhảy Dù và Sư đoàn Thủy quân lục chiến thì đều ở Quân khu 1 từ năm 1972.

Theo lời Đại tướng Viên thì vào giờ phút nghiêm trọng như vậy mà Bộ Tổng Tham Mưu không thể nào tăng viện cho Quân khu 2 được. Tổng thống Thiệu hỏi như vậy là để cho mọi người cùng hiểu thực trạng của quân đội như thế nào, và biết được bước kế tiếp ông phải làm gì.Khi cuộc họp chấm dứt, thì Tướng Phú xin riêng với Tổng thống Thiệu bằng một giọng khẩn khoản rằng ông xin Tổng thống thăng cấp chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất, Chỉ huy trưởng Biệt động quân Quân khu 2. Kể lại sự việc này, Tướng Cao Viên ghi lại như sau:

“Tôi không quen thân với Đại tá Tất nhưng được nghe ông là người có khả năng, nhưng làm tư lệnh chiến trường thì không có bằng chứng nào chứng minh ông ta có khả năng. Tôi liền phản đối ngay và nói rằng khi nào tái phối trí xong rồi mới nói đến. Tổng thống Thiệu tỏ ra do dự nhưng thấy tôi nói có lý nên không đồng ý việc thăng cấp. Thế nhưng, Thiếu tướng Phú khẩn khoản xin cho bằng được. Cuối cùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đồng ý thăng cấp Chuẩn tướng cho Đại tá Phạm Duy Tất.

25.3.1975: Quân Khu 1 Rút Khỏi Huế

Diễn tiến về kế hoạch rút quân khỏi Huế ngày 25 tháng 3/1975.

Theo hồi ký của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, vào ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/Quân khu 1 đều tập trung tại ba địa điểm: Đà Nẵng (gồm cả Hội An), phiá Bắc thành phố Huế và phiá Nam Chu Lai. Nhận định về cuộc rút quân của Quân đoàn 1/Quân khu 1, Đại tướng Viên ghi nhận rằng “hành trình cuộc rút về ba địa điểm này vô cùng gian khổ và đắt giá. Phần lớn binh sĩ đều rã rời. Đã bao lâu nay, họ chiến đấu hết trận này đến trận khác, hết năm này đến năm khác, nhưng chưa bao giờ họ cảm thấy nản lòng bằng giờ phút ấy. Hy vọng có bàn tay nào đó giúp đỡ để họ đánh chiếm lại những vùng đất bị lọt vào tay địch, để đủ sức đương cự với kẻ thù nay đã tan biến như chuyện đời xưa.”

Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, trong giờ phút nản lòng đó, thì một bức điện khác cũng của Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu gửi đi cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 , trong đó, Tổng thống chỉ thị lực lượng tại 3 nơi tập trung này phải rút về Đà Nẵng để tổ chức phòng thủ bảo vệ thành phố trọng yếu này. Nhận được chỉ thị của Tổng thống, Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 ra lệnh cho Sư đoàn 1 Bộ binh và các đơn vị khác tại Huế phải rút về Đà Nẵng. Cùng lúc, Trung tướng Trưởng cho Sư đoàn 22 Bộ binh cùng với lực lượng Tiểu khu Quảng Ngãi, rút về đảo Ré, nằm ngoài khơi cách Chu Lai chừng 20 dặm.

Tại Huế, các đơn vị của Sư đoàn 1 Bộ binh phòng ngự ở phía Bắc và khu vực cận sơn ở phía Đông thành phố Huế đã được lệnh rời bỏ phòng tuyến và chuyển quân về gần Huế để cùng với Bộ Tư lệnh và các đơn vị yểm trợ rút quânkhỏi chiến trường Trị Thiên. Trong khi đó, các tiểu đoàn Bộ binhvà Biệt động quân đang án ngữ phòng tuyến dọc trên Quốc lộ 1 được lệnh di chuyển về bờ biển và tập trung tại các điểm hẹn để tàu Hải quân vào đón.

Theo kế hoạch tổng quát, Bộ Tư lệnh Tiền phương Quân đoàn 1 doTrung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy sẽ chịu trách nhiệm điều động và kiểm soát cuộc rút quân này. Về phương tiện vận chuyển, Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải do Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại làm tư lệnh có nhiệm vụ cung cấp tối đa tàu để chở tất cả các đơn vị thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân và lực lượng quân sự của hai tiểu khuThừa Thiên và Quảng Trị vào Đà Nẵng. Bộ chỉ huy Quân vận Quân khu 1 sẽ sử dụng LCU để đưa các đơn vị từ bờ ra tàu, Công binh sẽ lập những cầu phao tại các cửa sông để đoàn quân đi qua.

Những biến cố xảy ra trong hành trình rút quân.

Theo ghi nhận của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Sư đoàn Thủy Quân Lục chiến, do lệnh rút quân quá nhanh, các đơn vị không có thời gian chuẩnbị nên kế hoạch rút quân đã không thể thực hiện đúng theo thờibiểu. Cũng theo lời Thiếu tướng Lân, khi Trung tướng Trưởng quyết định cho rút quân khỏi Thừa Thiên và thành phố Huế thì Thủy quân Lục chiến có Lữ đoàn 369 đang hoạt động tại chiến trường này. Bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 đóng tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, 2 tiểu đoàn đang phòng thủ tại phòng tuyến An Lỗ, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 17 km, tiểu đoàn thứ ba đang phòng thủ ở phía Bắc quận Hương Điền và ở phía Nam của sông Mỹ Chánh.

Trước tình hình đó, nhiều đơn vị đã tự tìm ra cách rút quân bằng phương tiện tự túc. Một đơn vị Thủy quân Lục chiến rút theo Quốc lộ 1 để vượt qua đèo Hải Vân vào Đà Nẵng đã bị Cộng quân phục kích chận đánh và bị tổn thất nặng. Một số đại đội Thủy quân Lục chiến và bộ chỉ huy Lữ đoàn 369 do Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng chỉ huy, từ Thuận An đi bộ dọc theo bờ biển để về hướng Đà Nẵng.Trên đường đi, đoàn quân đã được LCU và tàu Hải quân vào đón.Trong khi đang đứng trên bờ để điều động quân sĩ lội ra tàu ơ ûngoài biển, Đại tá Lương đã bị thương ở chân.

Một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến và một số đơn vị Bộ binh cũng rút theo đường biển nhưng khi đến phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền thì gặp phải con sông chắn ngang quá rộng, trong khi phía bên kiasông đã bị Cộng quân chiếm giữ. Một số chiến binh quyết vượt qua sông nhưng đã bị tử thương do đạn Cộng quân bắn sang. Theo ước tính của Thiếu tướng Bùi Thế Lân, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến, thì chỉ có một số nhỏ chiến binh Thủy Quân vào đến Đà Nẵng, số đông còn lại bị tử thương vì trúng đạn pháo kích hoặc bị kẹt lại ở Huế. Những người bị kẹt lại đã lập thành từng phân đội quyết tử với Cộng quân cho đến khi hết đạn.

5163598814_f13790eb16_z

Về cuộc chuyển quân bằng hải vận, Đại tướng Cao Văn Viên cho biết: trong ngày rút quân, biển động mạnh nên tàu Hãi quân đến trễ. Cầu phao tại cửa sông cũng chưa hoàn tất kịp để sử dụng. Đến trưa thì thủy triều lên cao, không làm sao qua được. Cũng vào thời gian đó, Cộng quân biết có cuộc chuyển quân nên bắt đầu tập trung hỏalực pháo binh bắn dồn dập vào các vị trí ẩn quân tại cửa Tư Hiền cùng tại nhiều điểm hẹn để tàu đến đón. Bộ Tư lệnh Tiền phươngQuân đoàn 1 từ Mang Cá chuyển về đặt tại căn cứ Tân Mỹ cũng bị pháo kích nặng.

Nhận định tổng quát về cuộc rút quân khỏi Huế, Đại tướng Cao Văn Viên ghi nhận rằng trong cuộc hành trình triệt thoái này, thì “kỷ luật không còn duy trì nổi. Do đó, chỉ có 1/3 số quân nhân về đến Đà Nẵng được. Nhưng khi về đến Đà Nẵng, thì họ tự động bỏ hàng ngũ đi tìm gia đình và thân nhân. Chỉ còn Thủy quân Lục chiến là giữ được trọn vẹn tình hình.”

Về đoàn quân của Sư đoàn 1 bộ binh, các tiểu đoàn của các Trung đoàn1,3, 51 và 54 Bộ binh và các đơn vị thống thuộc như Thiết giáp, Pháobinh, cũng lâm vào tình cảnh như Lữ đoàn 369 TQLC. Một số được tàu Hải quân chở, một số khác mở đường máu ven theo quốc lộ 1 và hoặc ven theo biển phần lớn đã hy sinh ngay trên đường rút quân

Sư đoàn 1 Bộ Binh vĩnh biệt chiến trường Quảng Trị-Thưà Thiên.

Trở lại với tình hình Sư đoàn 1 Bộ binh, một trung tá trưởng phòng của Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh (không muốn nêu tên) đã kể lại diễn tiến những giờ phút cuối tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ở trong căn cứ Giạ Lê.Vị trung tá này nói ông không thể nào quên được buổi họp cuối cùng để nghe Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh, phổ biến lệnh rút quân. Từ vị tư lệnh phó, tham mưu trưởng cho các sĩ quan trưởng phòng, trưởng ban tham mưu như chết lặng khi nghe Thiếu tướng Điềm nói: Sư đoàn 1 Bộ binh có lệnh phải rút khỏi Huế. Và chỉ gần một giờ sau, cảnh tượng đó cũng đã diễn ra tại các bộ chỉ huy trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh, Thiếtđoàn Kỵ binh và các tiểu đoàn yểm trợ.

Là một đại đơn vị đầu lòng của Quân lực VNCH, thành lập ngày 1 tháng 1/1955 trên sự qui hợp 3 Liên đoàn chiến thuật lưu động, Sư đoàn 1 Bộ Binh với danh hiệu đầu tiên là Sư đoàn 1 Dã chiến rồi đổithành Sư đoàn 1 Bộ binh từ 1959, trong hơn 20 năm từ ngày thành lập cho đến ngày được lệnh rút quân khỏi chiến trường Trị Thiên,Sư đoàn 1 Bộ binh là Sư đoàn Bộ binh đầu tiên mà tất cả quân nhân thuộc Sư đoàn được mang giây biểu chương Bảo Quốc Huân Chương màu tam hợp. Suốt 20 năm trấn giữ tuyến đầu của Việt Nam Cộng Hòa, Sư đoàn 1 Bộ Binh là hình ảnh của sự bảo bọc, gìn giữ Huế trong suốt những năm dài lửa đạn.

25.3.1975: Trận Chiến Ở Phú Yên

Trận chiến bên bờ sông Ba.

-Ngày 25 tháng 3 là ngày thứ 10 của tiến trình triệt thoái toàn bộ lực lượng Quân đoàn 2 khỏi Cao nguyên. Quảng đường từ Củng Sơn về Tuy Hoà, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên, dài hơn 70m, đoàn xe phải vượt qua sông Ba để tiếp tục cuộc hành trình trên đoạn đường hương lộ 436 bên bờ của sông này, vì từ đoạn đường này trở đi, liên tỉnh lộ 7 bị các đơn vị Đại Hàn (trước 1973) gài mìn dày dặc. Từ Tuy Hòa một cầu phao được đưa lên để đoàn quân vượt sông, nhưng không thể nào đưa lên Củng Sơn vì giữa đoạn đường từ Tuy Hòa lên Củng Sơn, Cộng quân chốt chận nhiều đoạn. Cuối cùng thì nhờ có trực thăng Chinook mang từng phần rời ráp lại. 17 giờ 30, đoàn quân xa đầu tiên về đến Phú Yên sau 10 ngày hành trình.

*Cộng quân lập chốt chận trên lộ trình triệt thoái của Quân đoàn 2.

-Vượt sông Ba, quảng đường còn lại về tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên tuy tương đối gần nhưng vì Cộng quân lập chốt chận nhiều đoạn . Vào 10 giờ sáng ngày 25/3/1975, lực lượng chiến xa với sự yểm trợ của trực thăng võ trang đã triệt hạ các chốt chận của Cộng quân trên lộ trình, để mở đường cho các quân xa và các đơn vị bộ chiến di chuyển.

-10 giờ 30, các phi tuần phản lực của Không quân tiếp tục đánh bom triệt hạ các cụm công sự chiến đấu của Cộng quân trên liên tỉnh lộ 7.

Lực lượng VNCH rút khỏi Quảng Ngãi.

Ngày 25 tháng 3/1975, tất cả các lực lượng của Quân đoàn 1/ Quân khu 1 tại phía Bắc đèo Hải Vân đã tập trung về phía Bắc thành phố Huế. Lực lượng của Sư đoàn 2 Bộ binh và các đơn vị tăng phái, lực lượng Địa phương quân, Nghiã quân Tiểu khu Quảng Ngãi tập trung về phiá Nam Chu Lai để di chuyển ra đảo Ré.

26.3.1975: Kịch Chiến Ở Phú Thứ

Lữ đoàn 2 Kỵ binh, Biệt động quân Quân khu 2 kịch chiến với Cộng quân chốt chận tại Phú Thứ, phía Tây thị xã Tuy Hòa, trên đoạn đường từ Cung Sơn-Tuy Hòa.

Ngày 26 tháng 3/1975 là ngày thứ 11 của tiến trình cuộc triệt thoái lực lượng Quân đoàn 2/Quân khu 2 khỏi Cao nguyên. Tính đến ngày này, báo cáo của Bộ Tư lệnh Lữ đoàn 2 Kỵ binh cho biết: toàn bộ chiến xa M48 và M41 đã bịkẹt lại trên lộ trình vì trúng đạn pháo của địch, riêng tại chặng dừng đầu tiên ở Hậu Bổn (tỉnh lỵ tỉnh Phú Bổn), có 40 chiến xa M48 và M41, 8 chiến xa gắn đại bác 175 ly . Lực lượng chiến xa của Lữ đoàn chỉ còn lại 13 thiết vận xa M 113 của 1 chi đoàn . Chi đoàn này đã tách rời đoàn xe bọc qua một con sông nhỏ về đến Tuy Hòa ngày 25/3/1975, trong khi đó cả đoàn quân và đoàn xe vẫn còn bị kẹt lại gần Phú Thứ ( nằm trên đoạn đường từ Cung Sơn về Tuy Hòa, tỉnh lỵ tỉnh Phú Yên) vì Cộng quân tổ chức chốt chận.

Để giải tỏa áp lực của địch quân, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, ra lệnh cho Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, phụ tá Hành quân, bay chỉ huy lực lượng Xung kích và các phi đội trực thăng võ trang nỗ lực tấn công, xạ kích để triệt hạcác chốt chận nhỏ còn lại của địch. Tướng Phú cũng ra lệnh cho Chuẩn tướng Phạm Duy Tất-Chỉ huy trưởng Biệt động quân/QK 2 kiêm tổng chỉ huy cuộc triệt thoái điều động 13 Thiết quân vận M 113 trở lại để phối hợp với Biệt động quân “dọn sạch”cụm chốt chận của CQ ở Phú Thứ.

Các đơn vị của Liên đoàn 7 Biệt động quân đã chiến đấu quyết tử phá vỡ các chốt chận của địch. Với sự yểm trợ của các chiến xa M 113, lực lượng Biệt động quân đã mở nhiều đợt xung phong có hệ thống và dần dà triệt hết chốt chận này đến chốt chận khác của Cộng quân.

27.3.1975: Trận Chiến Ở Bình Định

Cộng quân tràn ngập Tam Quan, tỉnh Bình Định

Vào 0 giờ sáng ngày 27/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập ngập phòng tuyến Tam Quan do 1 đơn vị của Sư đoàn 22 Bộ binh phòng ngự. Lực lượng Cộng quân với các đơn vị từ Quảng Ngãi tiến vào, phối hợp với trung đoàn 95 và sư đoàn 3 CSBV đã gây áp lực nặng tại vùng phía Bắc của Bình Định. Trận chiến tại Tam Quan khai diễn từ ngày 25/3/1975 với những đợt xung phong của CQ, nhưng đều bị lực lượng trú phòng đánh bật. Sau 2 ngày kịch chiến, Cộng quân tăng cường lực lượng, mở cuộc tấn công với hỏa lực mạnh để tràn ngập phòng tuyến này.

Phòng tuyến Duy Xuyên, Quảng Nam bị tấn công

-Ngày 27/3/1975, Cộng quân gia tăng áp lực tại khu vực Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Trung đoàn 56 Bộ binh của Sư đoàn 3 Bộ Binh tái phối trí tổ chức phòng thủ tuyến Duy Xuyên.

-Trong ngày 27/3/1975, Cộng quân đã pháo kích và khai triển lực lượng chiếm giữ một số xã ở Tây Nam tỉnh Quảng Nam.

-Cũng trong ngày 27/3/1975,Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Quân đoàn 1/Quân khu 1 đã thị sát tình hình chiến sự tại vùng trách nhiệm của Sư đoàn 3 Bộ binh, đồng ý đề nghị của Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, Tư lệnh Sư đoàn 3 Bộ binh về kế hoạch lập phòng tuyến vàng Thu Bồn, ngăn chận CQ tấn công Đà Nẵng.

*Sư đoàn 10 CSBV tấn công Khánh Dương

Cũng trong ngày 27/3/1975, sư đoàn F-10 CSBV tấn công vào phòng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương, Khánh Hòa, nhưng đã bị lực lượng Nhảy Dù đánh bật sau những trận kịch chiến.

29.3.1975: Lâm Đồng Thất Thủ

*Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng triệt thoái

Ngày 29/3/1975, sau các cuộc tấn công cường của Cộng quân diễn ra trong ngày 28/3/1975, Bộ chỉ huy Tiểu khu Lâm Đồng và 1 đơn vị Địa phương quân, do vị Trung tá Tham mưu trưởng chỉ huy đã triệt thoái về đến Phan Rang vào 20 giờ tối ngày 29/3/1975. (Theo nhật ký hành quân của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư Quân đoàn 2, thì vào 3 giờ sáng ngày 28-3-1975, Cộng quân đã tấn công quận Bờ Sa, tỉnh Lâm Đồng. Đến 7 giờ 15 sáng cùng ngày, Cộng quân bắy đầu pháo kích vào thị xã tỉnh lỵ Lâm Đồng. Đến 10 giờ 45, phòng tuyến thị xã tỉnh lỵ bị tràn ngập).

Cũng trong ngày 29 tháng 3/1975, Cộng quân tràn chiếm các vị trí còn lại của lực lượng Tiểu khu Lâm Đồng. (Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đặt tại Nha Trang đã điều động Liên đoàn 24 Biệt động quân tăng cường cho Tiểu khu Lâm Đồng nhưng liên đoàn này chưa đến kịp thì Cộng quân đã tràn ngập tỉnh lỵ).

Sư đoàn 23 Bộ Binh tái thành lập

Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, sau khi phòng tuyến của Sư đoàn 23 Bộ binh tại quận Phước An (tỉnh Darlac) bị thất thủ ngày 18/3/1975, Bộ Tổng Tham mưu đã cho tái tập trung lực lượng còn lại của Sư đoàn 23 Bộ binh tại Động Ba Thìn, cách Cam Ranh khoảng 10 km về hướng Bắc. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh ( Đại tá Đức, phụ tá Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2, làm quyền Tư lệnh thay chuẩn tướng Trường bị thương tại Phước An ngày 16/3/1975), có nhiệm vụ tái tổ chức lại các đơn vị trực thuộc. Theo tài liệu của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan báo chí Tư lệnh Quân đoàn 2, vào ngày 29/3/1975, Sư đoàn 23 Bộ binh được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cấp cho 1,200 khẩu súng M-16 để bổ sung cho số vũ khí tái chỉnh trang.

30.3.1975: Trận Chiến Qui Nhơn

Qui Nhơn hỗn loạn, Sư đoàn 22 Bộ binh rút 2 Trung đoàn 41, 42 khỏi phòng tuyến Bình Khê về Qui Nhơn

-Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, ngày 30 tháng 3/1975, Cộng quân đã xâm nhập vào thành phố Qui Nhơn, tỉnh lỵ tỉnh Bình Định. Trong khi đó, tại phía Tây Qui Nhơn, lực lượng Cộng quân gồm sư đoàn 3 và trung đoàn 95 CSBV đã tấn công cườp tập vào phòng tuyến Bình Khê . Để bảo toàn lực lượng, 2 trung đoàn 41 và 42 của Sư đoàn 22 Bộ binh được lệnh rút khỏi Bình Khê. Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã bất mãn về quân lệnh này, ông khẩn khoản trình với Bộ Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh cho Trung đoàn 42 Bộ binh được cố thủ, nhưng thỉnh cầu này đã không được chấp thuận..

-Cũng theo ghi nhận của Đại tướng Cao Văn Viên, khi 2 trung đoàn này về đến Qui Nhơn thì Cộng quân đã đào giao thông hào tại một số khu vực trong thành phố. Nhiều cao ốc bị Cộng quân chiếm. Kịch chiến đã diễn ra ở phía Nam hải cảng Qui Nhơn.

*Đại tướng Wayand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ đến Nha Trang.

Sau khi đến Sài Gòn vào ngày 26/3/1975, vào 10 giờ ngày 30/3/1975, Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, đặc sứ của Tổng thống Hoa Kỳ, đã đến Nha Trang bằng 1 phản lực cơ quân sự loại nhỏ. Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2/Quân khu 2 đã đón Đại tướng Weyand ngay tại phi trường và tự lái xe Jeep chở về Bộ Tư lệnh Quân đoàn

2. Tướng Phú đã trao đổi vớiTướng Weyand tình hình chiến sự tại các tỉnh phía Nam miền Trung. Cuộc họp kết thúc vào 10 giờ 55 cùng ngày.

*Cộng quân tấn công phòng tuyến Khánh Dương

2 giờ 15 chiều ngày 30/3/1975, Cộng quân tấn công cường tập phòng tuyến của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tại Khánh Dương. Lữ đoàn trưởng báo cáo khẩn về tình hình cho Thiếu tướng Phú. Vị Tư lệnh Quân đoàn 2 mong “Lữ đoàn Dù cố gắng giữ phòng tuyến”, và hứa sẽ có lực lượng tăng viện.

31.3.1975: Bình Định Thất Thủ

Trận chiến cuối cùng tại Qui Nhơn

-Ngày 31 tháng 3/1975, Cộng quân đã tràn chiếm các quận lỵ của tỉnh Bình Định. Tại Qui Nhơn, sư đoàn 3 CS Bắc Việt đã chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thành phố, trong đó có hải cảng. Theo tài liệu của Đại tướng Cao Văn Viên, lực lượng Sư đoàn 22 Bộ binh với Trung đoàn

41 và Trung đoàn 42 đã nổ lực mở cuộc phản kích với sự yểm trợ hỏa lực hải pháo từ tàu Hải quân ở ngoài biển, nên địch quân bị đánh bật ra khỏi ra khỏi khu ven bờ biển, vùng kiểm soát của lực lượng VNCH được mở một khoảng rộng dài chừng 4 dặm về phía Nam, để tạo an ninh cho tàu Hải quân cập bến đón các đơn vị còn lại của Sư đoàn 22 Bộ binh triệt thoái khỏi tỉnh Bình Định.

Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh tự sát tại bờ biển Qui Nhơn

-Trong cuộc triệt thoái tại Qui Nhơn, vị Trung đoàn trưởng Trung đoàn 42 Bộ binh là Đại tá Nguyễn Hữu Thông đã không chịu đi, từ chối cuộc di tản và sau đó ông đã tự sát bằng súng Colt 45.

Một Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân tỉnh Bình Sát tự sát ngay trước quận đường Phù Cát

-Cũng lúc diễn ra trận chiến tại Qui Nhơn, tại Căn cứ Không quân Phù Cát, sau 2 ngày đến cố thủ và tổ chức, Trung đoàn 47/Sư đoàn 22 Bộ binh đã bị CQ tấn công cường tập. Trong đêm, Trung đoàn này rút về Qui Nhơn thì bị phục kích tại quận lỵ Phù Cát, bị thiệt hại gần 50%  lực lượng. Cộng quân đã chiếm quận lỵ này vào buổi chiều. Thi hài của vị Tiểu đoàn trưởng Địa phương quân ( các tài liệu không ghi rõ tên) vẫn còn nằm nguyên trước Văn phòng Quận Phù Cát. Thay vì đầu hàng địch quân, vị tiểu đoàn trưởng này quyết định tự sát

1.4.1975: Mặt Trận Khánh Dương

Lữ đoàn 3 Nhảy Dù tử chiến với CQ tại mặt trận Khánh Dương, tỉnh Khánh Hòa.

Trong ngày 1/4/1975, cùng với cuộc tấn công cường tập phòng tuyến tiền phương của Quân đoàn 2, tại Phú Yên, Cộng quân đã mở nhiều cuộc tấn công vào vị trí phòng thủ của các đơn vị Quân lực VNCH tại Khánh Hòa bị tấn công. Tại Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù do Trung tá Lê Văn Phát chỉ huy đã kịch chiến với 4 trung đoàn của 2 sư đoàn Cộng quân. Lực lượng của lữ đoàn này đã giao tranh quyết liệt với các đơn vị thuộc Sư đoàn F-10 và F-320 của CQ. Các tiểu đoàn Dù đã đánh trả quyết liệt và bất chấp đạn pháo binh của Cộng quân bắn phá khá chính xác. Nhiều vị trí mất rồi được chiếm lại, rồi lại bị mất, nhiều lần như vậy nhưng các tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 3 Dù vẫn cố giữ vững vị trí chiến đấu.

-Theo nhật ký của Thiếu tá Phạm Huấn, sĩ quan Báo chí của Tư lệnh Quân đoàn 2, trong tình hình sôi động và trước áp lực nặng của Cộng quân, vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 1/4/1975, Trung tá Lê Văn Phát trình với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2, rằng nếu không có tăng viện và không được cấp phát thêm hỏa tiễn Tow chống chiến xa thì tuyến Khánh Dương sẽ bị Cộng quân tràn ngập. Tướng Phú yêu cầu Lữ đoàn 3 Nhảy Dù cố gắng để chờ quân của Sư đoàn 22 Bộ binh từ Qui Nhơn rút vào cùng với 1 trung đoàn của sư đoàn 23 BB được tái chỉnh trang. Đến 2 giờ 10 chiều ngày 1/4/1975, khi đang bay trên không phận Khánh Dương thì Tướng Phú chỉ liên lạc được với một sĩ quan của Lữ đoàn 3 Nhảy Dù.

Tướng Phú được báo vắn tắt là Cộng quân đã tràn ngập nhiều vị trí của các đơn vị Nhảy Dù, tuyến phòng ngự đã bị cắt nhỏ. Sau đó phía dưới đất tắt máy.

*Sư đoàn 23 Bộ binh lập tuyến phòng thủ Động Ba Thìn, Cam Ranh

2 giờ 50 chiều ngày 1 tháng 4/1975, khi đang bay từ Khánh Dương về Phan Rang, Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ thị cho Đại tá Lê Hữu Đức, quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ binh gom lực lượng về cố thủ Động Ba Thì, Cam Ranh.

Nguồn: https://mauaotran.blogspot.com/2021/03/tai-lieu-nhung-tran-chien-cuoi-cung.html#more

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn