“Không cho đi trên đường phố thì ta tới Đại Dữ Sơn”. Đây là ý tưởng mới cho những cuộc biểu tình đang bị cảnh sát ngăn cản của người Hồng Kông.

Phong trào “Phản tống Trung” (chống luật dẫn độ về Trung Quốc) của người dân Hồng Kông đã kéo dài sang tháng thứ 3. Người dân Hương Cảng vẫn tiếp tục xuống đường tuần hành, ca hát, dù bị cảnh sát từ chối đơn xin biểu tình. Thay vì chỉ đi lại trên đường khi không được tụ tập, có người đã đề xuất hãy cùng nhau lên Đại Dữ Sơn cầu nguyện trước tượng Thiên Đàn Đại Phật. Ý tưởng này xuất phát từ những lời cầu nguyện đã trở thành sự thật trong chiến tranh hiện đại.

Trên trang web Khán Trung Quốc (quan sát Trung Quốc) hay Secret China, tác giả Thái Lạp Phủ đã kêu gọi người dân Hồng Kông rằng, hãy cùng hành hương tới trước tượng Phật trên đỉnh Đại Dữ Sơn, tên cũ là đảo Lạn Đầu, để cầu nguyện.

“Không cho phép đi trên đường phố, thì chúng ta sẽ đến Đại Dữ Sơn. Nếu cuối cùng đến Đại Dữ Sơn cũng không được, thì chúng ta sẽ hẹn nhau, đồng thời cùng một lúc tụng niệm cường đại ở nhà, thành kính hướng về tượng Phật, cầu nguyện với Đức Phật, ban phước cho Hồng Kông và bảo vệ Hồng Kông”, ông viết. “Trong xã hội nhân loại, Thần chưa hề vắng mặt. Chính nghĩa cũng cần Thần trợ giúp. Người Hồng Kông xin hãy thành tâm cầu khẩu”.

14225503128_23444801eb_b
Thiên Đàn Đại Phật ở Đại Dữ Sơn nhìn vào trung tâm Hồng Kông (ảnh: Flickr).

Người Hồng Kông đã khiến thế giới ngạc nhiên bởi những ý tưởng và chiến lược biểu tình “thiên biến vạn hóa” của mình. Cấm họ tụ tập thì họ di chuyển trên đường, cấm họ xuống phố thì lại có ý tưởng ra đảo cầu nguyện. Vừa không vi phạm lệnh của cảnh sát, vừa thể hiện được ý chí của mình.

Ngày 31/8, cuộc tuần hành và ngồi hát thánh ca của người Hồng Kông ở sân vận động đã được truyền thông quốc tế gọi là cuộc biểu tình Cơ Đốc. Vậy một ý tưởng hành hương cầu nguyện trước tượng Đại Phật trên đảo Lạn Đầu có lẽ sẽ là một ý hay cho những hoạt động tiếp theo của người dân xứ Cảng Thơm.

Ý tưởng cầu nguyện dựa trên những câu chuyện có thật trong lịch sử chiến tranh hiện đại. Như ông Thái nói, “trong lịch sử nhân loại, Thiên Chúa chưa bao giờ vắng mặt, ngay cả trong thời hiện đại”.

Lời cầu nguyện Patton

George Smith Patton, Jr. (1885 – 1945), Thượng tướng 4 sao của Lục quân Hoa Kỳ đã từng nổi tiếng với “Lời cầu nguyện Patton” của mình.

Theo ký ức của Đại tá O’Neill, linh mục Quân đoàn thứ ba Hoa Kỳ, trong Thế Chiến II, năm 1944, trận chiến Normandy bắt đầu nổ ra. Vào tháng 12, Sư đoàn không quân 101 của Không quân Hoa Kỳ đã bị quân Đức bao vây tại Basten, Pháp, tình thế hết sức nguy kịch. Tướng Patton dẫn đầu Quân đoàn Thứ ba hành quân đến Basten để giải cứu Sư đoàn 101. Tuy nhiên, ông và lính của mình gặp phải trận bão tuyết cực kỳ tồi tệ, sương mù và những lớp tuyết dày đặc bao phủ khu vực Basten, khiến kế hoạch tiến quân của quân đoàn bị chặn đứng.

Tình hình rất khẩn cấp và quân Đồng minh không thể cung cấp bất kỳ hỗ trợ nào do thời tiết xấu. Tướng Patton đã cầu nguyện và xin Chúa giúp đỡ. Ông yêu cầu linh mục quân đội làm một tấm thiệp và gửi cho 250.000 sỹ quan, binh lính. Trên đó ghi lời cầu nguyện sau này được ghi chép rõ ràng trong biên niên sử Hoa Kỳ như sau:

“Lạy Cha toàn năng và nhân từ, chúng con khiêm tốn cầu xin Ngài kiểm soát thời tiết xấu này và cho chúng con thời tiết tốt để có thể chiến đấu. Xin hãy lắng nghe tiếng kêu cứu của những người lính chúng con. Xin được sử dụng sức mạnh của Ngài để giúp chúng con tiếp tục chiến thắng, đè bẹp sự đàn áp của kẻ thù xấu xa và mang công lý của Cha tới nhân loại và các quốc gia. Amen”.

rn4aqb-20170301-donald-trump-la-tuong-george-s-patton-chuyen-sinh-xem-xong-khong-khoi-kinh-ngac
Nội dung lời cầu nguyện của Patton được ghi chép trong biên niên sử Hoa Kỳ (ảnh: Xinsheng).

Patton đã yêu cầu những người lính tập trung cầu nguyện và xin Chúa giúp họ thoát khỏi thời tiết xấu. Khi bình minh lên, phép màu đã xảy ra! Tuyết ngừng rơi và những người lính đã có sáu ngày nắng. Vì vậy, quân đội của Patton đã hành quân kịp và giải cứu Sư đoàn 101. “Lời cầu nguyện của Patton” đã trở thành một phép màu nổi tiếng trên toàn thế giới.

Thông qua sự kiện lịch sử này, chúng ta có thể thấy rằng ngay cả những vị tướng kiên quyết nhất, lãnh đạo đội quân dũng cảm và được trang bị tốt nhất trên thế giới, sẽ gặp phải những khó khăn không thể vượt qua. Mọi người biết rằng sức mạnh của con người bị hạn chế. Vì vậy, Patton cầu nguyện sự giúp đỡ của Chúa và công lý cũng cần sự chấp thuận của Chúa. 

“Cuộc chiến sáu ngày” và phép màu của lời cầu nguyện bên Bức tường than khóc

“Chiến tranh sáu ngày” cũng gọi là Chiến tranh Ả Rập – Israel diễn ra từ ngày 5 – 10/6/1967 đã khiến lãnh thổ của Israel mở rộng ra gấp 3 lần với tổn thất về người thấp hơn nhiều so với phe các nước Ả Rập, Ai Cập, Jordan và Syria. Trước đó, Ai Cập đã huy động 1.000 xe tăng và 100.000 lính đến biên giới (Middle East Conflicts: From 1945 to the Present, Orbis, 1983) và kêu gọi các nước Ả Rập thống nhất lại để cùng hành động đối phó với Israel. Ngày 5/6/1967, Israel đã tấn công phủ đầu không lực Ai Cập do lo sợ nước này sẽ tiến hành một cuộc chiến xâm lược Israel , theo CNN.

Bằng trận chiến này, người Do Thái khôi phục sự kiểm soát của mình tại Jerusalem, làm cơ sở để sau này Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công nhận Jerusalem là thủ đô của Nhà nước Do thái Israel. Đây là một hành động mà Fox News đã gọi là việc làm “công nhận lịch sử”, trả lại sự thật cho người Do Thái.

Trước khi chiến tranh bắt đầu, những người lính Israel đã cầu nguyện bên cạnh Bức tường than khóc. Viễn cảnh cuộc chiến trong mắt họ là hoàn toàn vô vọng vì quân đội Israel thua xa liên minh các nước Ả Rập (gồm Ai Cập, Syria và Jordan) về số lượng và trang thiết bị. Các quốc gia Liên Xô, Iraq, Ả Rập Xê Út, Kuwait, Đức và Algérie cũng đóng góp quân và vũ khí cho các lực lượng Ả Rập. Họ đang mong đợi sự thất bại của Israel, điều này có thể khiến Israel bị sụp đổ.

Tuy nhiên, lời cầu nguyện của họ đã trở thành sự thật, sau này nhìn lại, họ liệt kê ra sáu phép lạ trong cuộc chiến sáu ngày, Israel National News (Arutz Sheva 7) ghi lại như sau:

1. Vào ngày 5/6, trong ba giờ liên tiếp, không quân Israel đã bay đến một căn cứ không quân ở Ai Cập và phá hủy nó. Mọi căn cứ không quân Ai Cập không hề biết trước cuộc tấn công của Israel dù Jordan đã cố gắng thông báo trước cho Ai Cập. Vì Ai Cập đã thay đổi mã cảnh báo của họ một ngày trước đó, nên họ đã không thể nhận được cảnh báo của Jordan. Chiến thắng của cuộc tấn công phủ đầu này sau đó đã được báo chí thế giới nhận định là chìa khóa cho chiến thắng của toàn bộ cuộc chiến.

2. Cuộc đối đầu Bờ Tây dự kiến sẽ rất khốc liệt và đẫm máu. Nhưng khi quân đội Israel bất ngờ tiếp cận Bờ Đông thay vì Bờ Tây, những người Ả Rập được vũ trang đã lầm tưởng đây là một đội quân Iraq đổ bộ từ Bờ Đông. Quân đội Israel được chào đón nồng nhiệt, và thành phố sau đó rơi vào tay quân đội Israel. Điều này cho phép Israel có được các khu vực khác của Bờ Tây mà không gặp phải sự kháng cự nào.

3. Trong trận chiến ở Cao nguyên Golan, quân đội Israel đã thua xa Syria về số lượng và trang thiết bị. Tuy nhiên, khi quân đội Israel tiếp cận, người Syria đã vội vã quay trở lại và bỏ chạy, để lại một số lượng lớn vũ khí. Sau này, một số người nói rằng họ đã nhìn thấy một dị tượng khiến họ khiếp sợ: Abraham bảo họ dừng lại và rút lui.

s-d08b6c959affe32c8ea3e7dd6c54eee697b160dd
Lính Israel bên Bức tường Than khóc ở Jerusalem sau khi họ chiếm được thành phố (ảnh: İsrail Zaferi).

4. Trong vòng 48 giờ sau cuộc tấn công của quân đội Israel, các máy bay chiến đấu của Ai Cập bắt đầu nổ tung một cách bí ẩn. Do đó, Israel dễ dàng chiếm giữ được Sinai và Gaza.

5. Một chiếc xe tải chở chất nổ cho quân đội Israel đã bị trúng lựu đạn. Bình thường thì việc này sẽ gây ra một vụ nổ và tàn phá các cơ sở xung quanh. Tuy nhiên, lựu đạn không nổ cho đến khi bị phát hiện vứt đi.

6. Áp lực quốc tế buộc Israel phải chấp nhận đề nghị ngừng bắn vua Jordan. Tuy nhiên, vào giây phút cuối cùng, ông đã phủ quyết các điều khoản cơ bản của thỏa thuận ngừng bắn mà mình đã soạn thảo. Điều này giúp Israel có thêm thời gian để phá hủy các cơ sở quân sự của kẻ thù và khôi phục sự lãnh đạo của người Do Thái tại Thành phố cổ Jerusalem.

Lời cầu nguyện của Hồ Liễn tướng quân

Không chỉ những người Cơ Đốc giáo cầu xin Chúa giúp mình trong chiến tranh. Trong Thế chiến 2, vào tháng 5/1943, quân đội Nhật Bản đã phái biệt đội cảm tử tinh nhuệ tới định chiếm giữ cứ điểm cửa ngõ Tứ Xuyên, để lật đổ Trùng Khánh, Trung Quốc. Hồ Liễn, chỉ huy sư đoàn thứ mười một của Quân đoàn 18, được lệnh bảo vệ cứ điểm. Sau khi nhận lệnh, tướng Hồ Liễn đã tắm rửa và thay quần áo, hướng dẫn toàn bộ sư đoàn tế bái Thiên Địa:

“Chỉ huy sư đoàn 11, Hồ Liễn, kính cẩn chân thành chiêu cáo với núi sông, Thần linh. Ta sẽ bảo vệ tổ tông tới cùng dẫu gian khổ. Mảnh đất này danh chính ngôn thuận, nay quỷ phải kính, thần phải khâm (phục), quyết tâm, thề sống chết không đổi. Người Hán và kẻ cướp không cùng tồn tại (trên mảnh đất này), từ xưa đã nói rõ. Hoa di cần được phân biệt rõ ràng, Xuân Thu tồn nghĩa. Sinh là quân nhân, chết là quân hồn. Hậu nhân sau này nhìn vào ta cũng không có gì hổ thẹn. Hôm nay, những kẻ cướp (đất) là có tội, và họ sẽ thua trong đau đớn, ta tin chắc rằng thiên thượng sẽ ủng hộ, và chúng ta sẽ chiến thắng trong trận chiến khốc liệt. Xin thề tại đây!”

Tuy rằng đã phải trải qua một trận chiến kinh Thiên động Địa, nhưng cứ điểm quan trọng cuối cùng cũng được bảo vệ, và những lời cầu nguyện của Đại tướng Hồ Liễn cũng đã lưu danh sử sách. 

4745043219_6cda1cde2b_b
Khẩu hiệu đề “Trời diệt Trung Cộng” giăng trên đường phố Hồng Kông (Ảnh: Flickr).

Từ những câu chuyện truyền cảm hứng trong lịch sử chiến tranh hiện đại, ông Thái đã đặt câu hỏi vậy vì sao người Hồng Kông lại không thể cầu nguyện trên Đại Dữ Sơn. Hồng Kông có một nơi được cả thế giới biết đến, nơi có bức tượng Thiên Đàn Đại Phật bằng đồng lớn nhất thế giới đang ngồi trên đài sen và nhìn vào Hồng Kông. Người Hồng Kông đã từng chăng khẩu hiệu “Trời diệt Đảng Cộng sản Trung Quốc” và người Hồng Kông cũng tin rằng họ đang “Dữ Thần đồng hành” (đồng hành cũng với Thần). Nên ông Thái cho rằng, vậy thì tại thời điểm quan trọng này, tại sao không cầu nguyện Đức Phật bảo trợ cho Hồng Kông?