NHỮNG MẢNH ĐỜI DANG DỞ - MX Nguyễn Ngọc Minh

Chủ Nhật, 25 Tháng Sáu 20238:00 CH(Xem: 7904)
NHỮNG MẢNH ĐỜI DANG DỞ - MX Nguyễn Ngọc Minh
NHỮNG MẢNH ĐỜI DANG DỞ
MX Nguyễn Ngọc Minh

Sách đã xuất bản năm 2004, bởi THẮNG MÕ NAM CALIFORNIA ấn hành.
Tác phẩm gồm những bài viết của một người lính Thủy Quân Lục Chiến về những mảnh đời rất thật của chính tác giả và đồng đội cũng như số phận nghiệt ngã mà những người lính VNCH phải gánh chịu theo mệnh nước nổi trôi...
Những bài viết rất thật đến độ có thể làm khó chịu một vài người nhưng chắc chắn những người đã từng cầm súng bảo vệ mảnh đất miền Nam thân yêu trước đây sẽ tìm thấy bàng bạc hình ảnh của chính mình trong đó.
Đôi hàng về người viết:
Nguyễn Ngọc Minh, sinh năm 1951 tại Saigon. Học trường tiểu học Trương Minh Ký, sau đổi thành Nguyễn Thái Học, trung học tại trường Nguyễn Trải, sau đó là Đại học Khoa học Saigon.
Gia nhập binh chủng Thủy Quân Lục Chiến năm 1972, trấn đống tuyến đầu Quảng Trị, chiến đấu đến giờ phút cuối cùng tại bãi biển Thuận An - Đà Nẵng cuối tháng 3/75. Cải tạo 6 năm từ Trung Ra Bắc. Vượt biên đường bộ 2 tháng xuyên qua Kampuchia đến Thái Lan 6/81. Định cư tại San Fernando Valley - Los Angeles từ 7/83. Hiện là chủ nhân cơ sở "Professional #1 Auto Repair" ở Canoga Park, California.

NGÀY ĐI

"Anh sẽ Ra đi về miền cát nóng, nơi có quê hương mịt mù thuốc súng. Anh sẽ Ra đi về miền mênh mông, cơn gió cao nguyên từng đêm lạnh lùng..."
Thấm thoát đã 32 năm từ ngày Trần Chúc Leo lên sân khấu vườn Tao Ngộ - Trung Tâm 3 tuyển mộ và nhập ngũ để hát bài “Trả Lại Em Yêu” của Phạm Duy. Mùa hè đỏ lửa năm đó, miền cát nóng Quảng Trị Cổ Thành, đã cuốn hút biết bao nhiêu người dân Việt trong lứa tuổi thanh xuân, đến để tàn sát nhau trong một cuộc chiến tranh đẫm máu và nước mắt.

Đầu tháng 3/72 cuộc chiến tranh Việt Nam trở nên khốc liệt, với những trận địa chiến nặng nề, khi quân đội miền Bắc dồn toàn lực tấn công trên khắp các vùng chiến thuật.
Tàn khốc nhất là mặt trận Quảng Trị khi Bắc quân tràn qua sông Bến Hải và vùng phi quân sự. Bất chấp các hiệp định đã được ký kết, quyết tâm lấn chiếm các căn cứ quân sự của quân dân miền Nam ở phía Bắc sông Thạch Hãn, để làm bàn đạp tiến xuống miền Nam. Cùng lúc đó các mặt trận khác cũng sục sôi không kém.
Mặt trận Tây Nguyên - Kon Tum, Đakto, Tân Cảnh ở vùng II chiến thuật.
Mặt trận Bình Long - An Lộc ở vùng III chiến thuật - Tây-Bắc của thủ đô Saigon.
Tôi còn nhớ chiều hôm ấy vào dạo cuối tháng 3/72 khi đang ngồi uống cùng anh bạn học, Thiếu úy Nguyễn Văn Vân, vài chai bia trong lần gặp gỡ cuối cùng. Anh cũng là một học sinh Nguyễn Trãi và chúng tôi cùng học luyện thi tại trường Tân Văn niên khóa 67/68, nhập ngũ khóa 9/68 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, khi tốt nghiệp anh đã tình nguyện về Nhảy Dù.
- Ngày mai tụi Tao lên Pleiku tăng phái cho quân đoàn II tại mặt trận Tân Cảnh.
Tôi cũng chẳng biết nói gì khi chia tay bạn vì hai chữ bình an lúc này vô nghĩa. Ai Ra đi cũng được cầu chúc bình an, nhưng có mấy người được an bình trở lại...
- Giữ gìn sức khỏe, dạo này cánh tay mày Ra Sao?
Vân bị tai nạn bên cánh tay phải năm học đệ tứ nên khi viết bảng phải dùng tay trái, tay phải bị run khi anh dơ lên cao. Nhưng lần này anh đưa cả hai cánh tay thẳng lên trời.
- Quân đội là lò luyện thép mà.
Đó là lần cuối cùng gặp nhau. Khi tôi đến Hải Trường - Bến Đá, trong một lần gặp gỡ vài người bạn thuộc tiểu đoàn 11 Nhảy Dù, thì được biết Vân đã hy sinh tại Động Ông Đô trên đường tái chiếm cổ thành.

Tháng 4/72 chúng tôi được giấy gọi nhập ngũ. Lúc này tình hình chiến sự thật sôi động. Trên các trang báo ngoài những mục bình thường, phần tin tức chỉ toàn là tin chiến sự. Hình ảnh những đoàn người tỵ nạn chiến tranh Chen chúc nhau đổ vào các trung tâm tỵ nạn tại Huế và Đà Nẵng. Các đoàn quân tiếp tục tiến Ra chiến trường, các trận đánh đẫm máu, các lời tường thuật về những anh hùng vị quốc vong thân.
Hình ảnh xúc động tột cùng của một em bé gái bị bom Napalm cháy phỏng khắp thân mình, đang chạy kêu la cầu cứu với gương mặt hốt hoảng, đau đớn...

Giữa tháng 4/72 bài hát anh hùng Không Quân Trần Thế Vinh được truyền đi trên các làn sóng phát thanh. Tiếp theo là hàng loạt các bài hát Bình Long anh dũng, Kontum kiêu hùng, Trị Thiên vùng dậy...

Cuối tháng 4, những bức chân dung mới bắt đầu xuất hiện trên bùng binh chợ Bến Thành và một số các bùng binh khác trong thành phố Saigon. Bài hát “Người ở lại Charlie” của Trần Thiện Thanh làm xúc động lòng dân thành phố và cả miền Nam.

Các trường đại học cho thi sớm hơn để các sinh viên chuẩn bị xếp bút nghiên lên đường. Phòng thi thưa thớt thí sinh, hầu hết là những anh còn ở lại mới còn tâm trí đến trường. Chúng tôi đã có giấy gọi, không còn hứng thú để vào thi, tụ tập bên ngoài phòng thi, kẻ thì bàn tán về tương lai trong cuộc đời quân ngũ, người thì vẽ ra các chọn lựa để phòng xa, một số ít thì ù lì thả trôi theo vận nước "tới đâu thì tới...".

Tháng 6/72 trôi qua và ngày đi đã đến, nhóm chúng tôi hẹn nhau ở chùa Xá Lợi, vì trước đây chùa có dành cho các nam học sinh và sinh viên một căn phòng trống để học hành. Thỉnh thoảng ban trị sự chùa dùng làm phòng họp thì chúng tôi lại ra sân ngồi học. Bên hông phòng hành lễ là một hành lang dài, nơi này rất yên tĩnh cho các cô nữ sinh viên và học sinh. Thường thường khi gần tới mùa thi cũng náo nức và đông người lắm.
Những mối tình ngây thơ trong trắng cũng đã từng xảy ra với những học sinh đến chùa. Niên khóa 71/72 có sự xuất hiện của vài cô nữ sinh Trưng Vương đến đây học thi Tú Tài 1. Các cư dân ở chùa Xá Lợi (tiếng để gọi các anh chàng đến chùa học đã lâu năm) bắt đầu bắt chuồn chuồn và có vài anh đến ve vãn cô bé sừng bò. Tôi cũng chẳng biết cái tên này được gán cho cô lúc nào, có lẽ câu thơ “gái 17 bẻ gãy sừng trâu” có vẻ hơi thô lỗ với vóc dáng của cô em, nên chúng tôi gọi cô là cô bé sừng bò, người gầy gầy thanh tú trong chiếc áo dài trắng Trưng Vương, đôi bím tóc thả dài hai bên lưng, đi chiếc xe PC trông thật xinh xắn.
Cái lũ “thứ ba học trò” tinh nghịch, đôi khi tìm cách nhét giấy vào típ của dây bougie với hy vọng xe không nổ máy để có dịp tán tỉnh, hoặc được lọt vào mắt xanh của cô. Có lẽ trời bất dung gian nên chẳng đứa nào làm được việc.
Chùa có hai cầu thang lên chánh điện. Một ở phía tháp chuông và một ở phía cổng lớn bên hông chùa.
Ngồi học ở dưới chân cầu thang phía tháp chuông, đôi khi bất chợt nhìn qua phòng hành lễ, thấy cô bé sừng bò cũng đang nhìn, tôi lúng túng mỉm cười và gật đầu chào cô. Đôi khi tôi và cô bé cùng cười và cùng gật đầu chào nhau.
Đã gần một năm học mà chẳng anh nào tán tỉnh được cô. Vài anh viết thư kẹp vào trong sách, nhờ các cô bé học sinh Gia Long đệ nhất cấp buổi chiều, ghé qua nhờ chỉ bài đưa hộ. Nhưng chỉ được trả lời bằng những cái lắc đầu.
Trước đó vào đầu tháng 6/72 chúng tôi đã trình diện nhập ngũ tại trung tâm 3, và được cho nghỉ phép trong thời gian chờ đợi đưa đến các quân trường huấn luyện.
Những lần về phép ghé qua chùa, tôi đến chỗ ngồi cũ vẫn trông thấy cô em sừng bò ngồi học. Sắp đến ngày thi nên cô lại càng ráo riết học, "vóc liễu đã gầy, càng thêm úa gầy vì thi cử".
Lần phép cuối cùng thì chúng tôi được biết, trong số các bạn nhập ngũ cùng đợt 6 người tại chùa Xá Lợi lần này, 3 người trong số đó có tôi sẽ phải đi đợt đầu tiên ra thụ huấn tại Đồng Đế - Nha Trang vì chúng tôi có nhiều hơn 2 chứng chỉ Quân Sự Học Đường, 3 người còn lại chưa biết sẽ đi Nha Trang hay Thủ Đức.
Buổi chiều cuối cùng rời xa chùa Xá Lợi là ngày thứ Năm trong tuần. Lần đầu tiên chúng tôi mặc quần áo lính ghé lại chùa để từ biệt các bạn bè còn ở lại, hoặc sẽ phải đi sau. Chúng tôi hẹn gặp nhau lần cuối tại đây để cùng lên đường.
Bước đến chỗ thường ngồi học dưới chân cầu thang, nhìn qua phía hành lang phòng hành lễ nơi cô bé sừng bò vẫn ngồi học. Cô vẫn ngồi đó, mắt nhìn sững tôi ngạc nhiên, chắc lạ lắm vì hôm nay tôi mặc quần áo lính.
Ngồi xuống chỗ cũ, tôi nhìn cô và mỉm cười. Tôi không nhìn thấy được nụ cười của mình lúc đó, nhưng có lẽ buồn lắm!
Tiếng những người bạn gọi vọng vào thúc giục.
- Minh ơi, tới giờ đi rồi mày!
Hai chúng tôi nhìn nhau. Tôi đứng dậy lắc đầu và lặng lẽ bước ra ngoài.
Ra đến bên ngoài, đứng bên hông chùa với các bạn ở phía bên kia con đường; chúng tôi từ giã nhau, người đi kẻ ở. Vài anh định lấy xe đưa chúng tôi ra đường Lê Văn Duyệt để đón xe đò lên Trung tâm 3.
Thằng Chiến lên tiếng:
- Thôi, tụi tao đi bộ được rồi.
Quay qua phía những người đi, nó hỏi lại:
- Đi được chưa tụi bay?
Nhìn các bạn bè ở lại lần chót, họ bắt đầu trở lại khuôn viên chùa. Tôi quay qua nói với Chiến:
- Tụi mày chờ tao thêm 5 phút nữa.
- Gì nữa đây? Mày là cái thằng nhanh và gọn nhất mà sao hôm nay lại là thằng dây dưa nhất!
Nhìn qua bức tường thưa của chùa, tôi thấy cô bé sừng bò và một cô bạn đang đi ra ngoài từ cổng nhỏ bên hông chùa, ở phía sau gần nhà quàn xác. Vài phút sau hai cô đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng. Các bạn tôi ngạc nhiên quay qua hỏi:
- Cái gì nữa đây Minh, bộ hôm nay có chuyện lạ à?
Tôi bước qua đường tiến về phía hai cô thì cô bạn đi cùng bước nhanh lên để cô bé sừng bò đứng lại. Quá nửa con đường, tôi đứng lại nhìn cô, cô nhìn tôi. Tâm trạng mâu thuẫn làm tôi ngừng lại những điều tôi định nói với cô. Hai chúng tôi nhìn nhau nhưng không ai nói gì cả. Tôi cúi đầu quay người bước lại chỗ các bạn tôi đang đứng đợi, vác chiếc sac-marin lên vai và bước đi. Cô bé sừng bò thì lặng lẽ bước về phía cô bạn đang chờ...
- Thôi đi tụi bay, trễ rồi. Tôi lên tiếng.
Thằng Chiến quay lại trách tôi:
- Mày làm cái gì vậy Minh, người ta chờ mà mày bỏ đi, tụi tao chờ mày.
- Tao từ biệt rồi!
Cả bọn nhao nhao lên, ngay cả những thằng còn ở lại, chúng nó nói nửa đùa nửa thật:
- Ê Minh, mày làm như vầy kỳ lắm, mời người ta ăn bò bía đi, tao đãi cho.
Một thằng khác lớn tiếng chen vào.
- Còn tao trả tiền đậu xanh, bánh lọt.
- Thôi đi tụi mày, đừng dở hơi nữa. Tôi bước nhanh.
Trên đường đi bộ đến chỗ đón xe, bọn chúng nó cứ trách móc tôi mãi.
- Mèo mù vớ cá rán mà còn bày đặt chê.
- Thằng Minh này tầm ngầm mà chết voi đấy!
Tôi không nhớ đã nghĩ gì trong lúc đó, chỉ biết lòng mình thật trống vắng...
Vài tháng sau từ trường Đồng Đế Nha Trang, tôi nhận được thư của Đinh Khắc Tâm, một người bạn còn ở lại. Trong thư có đoạn "Em sừng bò thi đậu rồi. Em vẫn còn siêng năng tới chùa học như thường lệ. Quyết định đi, tao sẽ đưa thư giùm cho...”
Tôi viết thư trả lời "Để yên như vậy cho hai bên còn những hình ảnh đẹp. Nếu tao viết thư than cực, than khổ, cô bé sẽ đâm chán ngấy đó..."
"Anh sẽ ra đi về miền cát nóng...", giọng hát của Trần Chúc đã bay theo chúng tôi ra Đồng Đế. Và miền cát nóng Nha Trang đã tiếp đón chúng tôi với những ngày hè nắng cháy "Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu.", và bài hành khúc:

Trường hạ sĩ quan nung chí người trai
Một đời thép súng nở hoa tươi cười
Luyện rèn ngày đêm luôn có anh tôi
Mưa nắng thao trường thắm bao mồ hôi
Cùng về Nha Trang sương gió nề chi
Trèo đèo vượt suối vui hơn kinh kỳ
Đường chiều hành quân lớp lớp chiến y
Sương muối rơi nhiều ướt vai sá gì
Đu đưa giữa trời một đêm nguy không nao
Qua giây tử thần cười với hố sâu
Xung phong lên quyết chiến thắng gian lao
Chiến công rực rỡ hơn nắng đào
Hẹn về nơi đây chiến sĩ ngàn phương
Để rồi mai sớm xông pha lên đường
Dệt thành bài thơ gươm súng muôn phương
Phơi xác quân thù say men chiến trường.

Tháng 9/72 TQLC tái chiếm cổ thành làm cho cả miền Nam tưng bừng khí thế chiến thắng. Trường Hạ sĩ quan chuẩn bị cho chúng tôi lên đường tham gia chiến dịch tâm lý chiến ở quân khu II.

Tháng 11/72 chúng tôi đến các tiểu khu để thi hành chiến dịch. Bài nhạc "Anh đi chiến dịch" của Phạm Đình Chương rộn ràng đưa chúng tôi lên đường.

"Anh đi chiến dịch xa vời
Lòng súng nhân đạo cứu người lầm than.
Thương dân nghèo ruộng hoang cỏ cháy
Thấy nỗi xót xa của kiếp đọa đày, anh đi..."

Chúng tôi đến các địa phương để chuẩn bị cho dân chúng những điều cần thiết phải làm khi ngưng bắn.
"Anh sẽ ra đi về miền mênh mông, cơn gió cao nguyên từng đêm lạnh lùng."
Miền cao nguyên Lâm Đồng (Bảo Lộc và Di Linh) đón chúng tôi mùa Đông giá lạnh với đầy nồng ấm tình người, người dân tôi sống hiền hòa trên khắp nẻo đường đất nước.
Tôi còn nhớ mãi những ngày Đông tháng giá tuyệt đẹp ở Lâm Đồng. Học sinh trường nữ trung học Bảo Lộc với áo khoác len màu tím, và trường Nguyễn Hoàng - Di Linh với áo khoác len màu xanh, làm xanh, tím cả một vùng, trông như những đàn bướm, tung tăng trong những buổi tan trường.
Những buổi hành quân tâm lý chiến với các toán Nghĩa Quân và Địa Phương Quân cả người Kinh lẫn người Thượng, và các anh chị Xây Dựng Nông Thôn vào tận các xã ấp hẻo lánh trên các đường quốc lộ 14, 19, 20. Các buổi tập hát cho các học sinh người thiểu số vùng cao nguyên Di Linh. Những nụ cười vô tư giòn giã trên gương mặt ngây thơ vô tội như những búp non, trước những bài hát mới, những trò chơi vui lạ mà chúng tôi đem đến cho các em, tạo thêm cho chúng tôi những nồng ấm, và để thấy rằng, cơn gió cao nguyên không phải chỉ lạnh lùng.
Những ngày trước Noel, nơi xứ đạo Tân Thanh, bốn anh em chúng tôi - những người ngoại đạo. Phạm Vĩnh Ninh - đại học Kiến Trúc, Lê văn Hai - Sư Phạm, Mã Quyền - Ban giáo dục đại học Cao Đài; và tôi - Khoa Học, cố gắng làm cho xong cái hang đá bằng các vật liệu góp nhặt đó đây trước chiều tối ngày 23, vì sáng sớm hôm sau ngày 24, chúng tôi phải đón xe về Saigon cho kịp đêm Noel. Cái hang đá mà theo Cha xứ nói, đã nhiều năm rồi mới được dựng lên để mừng ngày Chúa ra đời ở xứ đạo Tân Thanh.
Phạm Vĩnh Ninh - trưởng toán, người Bình Dương, đã hy sinh trong năm 73 sau khi anh về một đơn vị Công Binh chiến đấu.
Theo chương trình thụ huấn, chúng tôi sẽ mãn khóa ngày 25/11/72, nhưng chúng tôi phải kéo dài chiến dịch tâm lý chiến cho đến tháng 1/73 mới trở lại quân trường.
Chúng tôi được đóng quân ở trại chuyển tiếp. Những đêm tiền đồn trên đèo Rù Rì, tiếng gió rít qua những khe hở của chòi canh, nghe như tiếng ai đó đang rù rì hay thầm thì tâm sự.
Trở lại trường Đồng Đế để chấm dứt các lớp học quân sự và chuẩn bị lễ mãn khóa. Khi sĩ quan tuyển mộ nói chuyện với đại đội 719 về chiến thắng oai hùng của TQLC tại cổ thành Quảng Trị, anh em chúng tôi ai nấy đều nức lòng. Nhàn, Sơn, Lành, An và tôi, 5 người tình nguyện về TQLC.
Tối ngày hôm sau khi việc chọn lựa đơn vị đã kết thúc, ai cũng biết mình sẽ về đơn vị, ngành nào.
Nơi câu lạc bộ Đông, Hạnh - một người bạn ở đại đội 720 cầm chai bia gần cạn, nét mặt buồn rầu, mắt đỏ hoe. Anh không ngờ với bằng cử nhân Luật mà khi lên chọn đơn vị, anh chỉ đành phải chấp nhận những chỗ cuối cùng còn sót lại ở sư đoàn 3 bộ binh mà thôi.
Quá nhiều nỗi buồn và tâm sự trong những đêm cuối cùng tại trường Đồng Đế.
Bao nhiêu mảnh đời dở dang một cách đáng tiếc.
Mẫu - năm thứ 5 Y khoa, dang dở mộng làm bác sĩ. Nếu chiến trận mùa hè đỏ lửa xảy ra trễ một năm thì anh đã lên năm thứ 6 và được ở lại để hoàn tất việc học hành, cuối cùng anh phải trở thành một sĩ quan trợ y hoặc hành chánh quân y mà thôi.
Bổn, người Phong Điền - Thừa Thiên, năm thứ 3 Dược khoa. Rất nhiều các bạn năm thứ 3, thứ 4 Nha khoa, các bạn ở Kiến Trúc, Phú Thọ, Nông Lâm Súc v.v.. Hàng ngàn anh em chúng tôi phải dang dở việc học hành. Cả một tài nguyên lớn của đất nước bị đầu tư nửa mùa dang dở.
Thiều, một người bạn thuộc đại đội 723, trước học Nông Lâm Súc, được đưa về tiểu đoàn 3 TQLC, cứ ray rứt mãi với những lời tâm sự “Tao chưa bao giờ thi rớt mà phải dang dở việc học hành...”
Ngày trình diện bộ tư lệnh sư đoàn TQLC để chờ được đưa lên Rừng Cấm - Thủ Đức, theo học khóa căn bản TQLC và đổ bộ leo lưới. Nằm cạnh tôi, Thiều đưa cho tôi xem tấm ảnh mà anh vừa chụp chung với cô bạn gái tại bồn hoa trước tòa Đô Chính, trong bộ quân phục TQLC mới tinh, với mũ bê rê xanh mát mắt.
Thật tiếc cho Thiều, một chiến sĩ TQLC cao, đẹp trai, yêu đời, từ tốn, nhưng có nụ cười buồn, vắn số. Thiều đã hy sinh tại Đồi 51 khi Cộng quân tiền pháo hậu xung, tràn ngập đơn vị, và anh đã phải xin pháo binh rót đạn ngay trên tuyến mình... để ngăn cản các đợt xung phong của địch.
Thiều đã ra đi để lại cô bạn gái, người tình xinh đẹp phải chịu cùng một nỗi buồn dang dở.
Rồi cái đám thằng Việt, thằng Lang tốt nghiệp Chính Trị Kinh Doanh, về tiểu đoàn 1 TQLC, tụi nó phải tự kinh doanh đời mình trong nghiệp lính.
Thằng Phan Văn Châu, người Qui Nhơn, học trường Công Nghệ Phú Thọ, phải dang dở cả cuộc tình với cô em bé Marie Curie, quả cau nho nhỏ dễ thương của nó.
Đêm cuối cùng ở quân trường, quả thật có nhiều nỗi đắng cay, dang dở, nhưng đó chỉ là bước đầu của anh em chúng tôi. Ngày mai, và cả những chuỗi ngày sau đó khi về đến đơn vị, và cứ tiếp tục kéo dài cho đến bây giờ, đã có biết bao nhiêu những mảnh đời phải chịu dở dang, nửa đường gãy gánh.
Sau khi chấm dứt chương trình thụ huấn tại trung tâm huấn luyện TQLC, chúng tôi được đưa đến trình diện Thiếu tá Diễn - trưởng phòng tổng quản trị và được phân chia đơn vị trước khi gặp Đại tá Quế - tham mưu trưởng sư đoàn.
Đêm cuối ở Bộ tư lệnh trước khi ra hành quân, chẳng anh nào ngủ được vì ngày mai mỗi người một ngả.

"Từ nay trên vạn nẻo đường dài,
Nắng mưa dấu in trên hình hài,
Tháng năm bước phong sương miệt mài, đó đây..."

Sáng sớm hôm sau, 20 anh em chúng tôi được đưa thẳng từ Bộ tư lệnh TQLC đến phi trường Tân Sơn Nhất để lên máy bay ra thẳng hành quân. Chiếc phi cơ đáp xuống phi trường Phú Bài đã gần trưa, và chúng tôi được GMC đưa về căn cứ Mang Cá nhỏ - hậu trạm của sư đoàn TQLC.
Trong chuyến bay này có những người lính của tiểu đoàn 7 TQLC hết phép trở lại hành quân. Trưởng toán là Thiếu úy Cường thuộc đại đội 4. Anh kể cho chúng tôi nghe về tình hình đơn vị, nơi đóng quân và trả lời những điều Sơn và tôi thắc mắc.
Ngày đầu tiên về tiểu đoàn 7 TQLC, tôi có hai người bạn là Cường và Sơn. Ngày cuối cùng của tiểu đoàn 7 (26/3/1975) tại Thuận An, Cường và Sơn hy sinh, riêng tôi bị thương và là người còn sót lại. Nghĩ đến đời lính tác chiến “10 người chết 7 còn 3” mà quá đỗi ngậm ngùi.
Cường đưa chúng tôi đến gặp Trung úy Tập - chỉ huy hậu trạm của tiểu đoàn. Ông cho biết là chiếc xe Jeep của tiểu đoàn phó sẽ đến đón chúng tôi, hai sĩ quan mới, vào hành quân ngay chiều hôm ấy theo lệnh Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng.
Chúng tôi qua hậu trạm đại đội để nhận quân trang quân dụng cần thiết, trước khi lên đường.
Khoảng gần 2 giờ chiều, Hạ sĩ Bình - tài xế của tiểu đoàn phó Lâm Tài Thạnh, đưa chúng tôi vào vùng hành quân.
Ngồi trên ghế trưởng xa, tôi chăm chú theo dõi những hình ảnh lạ mắt ở thành phố Huế lần đầu tiên tôi đặt chân đến đây. Xe rời Mang Cá nhỏ, chạy dọc theo bờ sông Gia Hội rồi quẹo phải ra đường Trần Hưng Đạo, qua chợ Đông Ba, ty Thông Tin, cầu Trường Tiền, Phú Vân Lâu, Cầu Mới rồi đến quốc lộ 1.
Xe bắt đầu rời thành phố Huế, đến An Lỗ, Phong Điền và khoảng 2 giờ sau thì đến Mỹ Chánh. Nhìn về phía cây cầu cũ chỉ còn trơ lại những hàng cột cháy nám đen, và cây cầu sắt xe lửa chỉ còn lơ thơ những cây sắt gãy gọng, gục xuống dòng sông.
Nơi đây đã là tuyến tử thủ cuối cùng của Quân Lực Miền Nam dưới quyền chỉ huy của Đại tá Phạm Văn Chung - Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 369, trong những ngày hè ngập lửa.
Qua khỏi Mỹ Chánh khoảng 6 cây số thì đến cầu Bến Đá trên sông Ô Lâu, nơi đại đội 3 - tiểu đoàn 7 TQLC chặn đứng và tiêu diệt đoàn tank Bắc quân ở cuối chặng đường Đại Lộ Kinh Hoàng. Hình ảnh hai chiếc xe tăng Bắc quân bị bắn cháy nằm chồng lên nhau ở bờ Nam cầu Bến Đá là một ấn tượng mạnh mà tôi còn nhớ mãi cho đến bây giờ.
Đại Lộ Kinh Hoàng đang hiện ra trước mặt với một đoạn đường dài đầy các xe quân sự lẫn dân sự đã được các xe ủi đất của Công Binh ủi sang hai bên đường để khai thông quốc lộ 1. Các toán Công Binh chiến đấu đang dọn dẹp và di chuyển những tàn tích còn sót lại đó đây. Mùi tử khí rờn rợn chung quanh.
Nhìn về hướng Bắc quốc lộ 1 vắng vẻ, hoang, không nhà cửa, không người. Quay lại nhìn Sơn ở băng ghế sau, hai đứa tôi cùng nhìn nhau mỉm cười, chắc nó cũng như tôi, hai đứa có cùng một tâm trạng.
Tiếng hát Trần Chúc như văng vẳng bên tai:

"Trả lại em yêu mối tình vời vợi,
Ngôi trường thân yêu bạn bè cũ mới
Đường buồn anh đi bao giờ cho tới
Nỗi đau cao vời, nỗi đau còn dài..."

Những nỗi đau còn dài đang chờ đợi chúng tôi, những người nhập cuộc. Và còn dài hơn nữa cho quê hương tôi, dân tộc tôi. Bốn chục triệu người ở cả hai miền Nam Bắc đã và đang hứng chịu những nỗi đau chia cắt trong cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt, tương tàn gần 30 năm qua.
Tôi siết chặt tay Sơn, cả hai chúng tôi cùng im lặng. Quay qua Hạ sĩ Bình, tôi cất tiếng hỏi:
- Còn xa không anh Bình?
- Khoảng gần 10 cây số nữa thì tới Bộ chỉ huy tiểu đoàn.
Nắng chiều đang xuống dần, bụi mờ thoang thoảng trước mặt. Chiếc xe Jeep vẫn lầm lũi đưa chúng tôi tiến về phía Quảng Trị Cổ Thành.

"Anh sẽ ra đi về miền cát nóng,
Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng..."
Tôi ngồi thẳng lại và cất tiếng hát khe khẽ.
"Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó
Đem dấu chân soi tuổi đời ngây thơ
Đem mối thương yêu vào niềm thương nhớ
Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về..."

Đời lính chiến mấy ai biết được ngày về...
Nở một nụ cười tự tin, tôi nhìn thẳng về hướng bụi mờ trước mặt
QUẢNG TRỊ, THÀNH PHỐ BUỒN THIU
Cổ thành Đinh Công Tráng, cái bánh chưng khó nuốt. Phải gọi đó là cái bánh chưng đẫm máu. Với diện tích chưa đầy 1 Km vuông, nó đã làm kiệt quệ sư đoàn Dù và làm tiêu hao một nửa sư đoàn TQLC, các liên đoàn Biệt Động Quân và Địa Phương Quân, cộng với sự thiệt hại đáng kể của các đơn vị yểm trợ... Đồng thời nó cũng xóa sổ hàng chục trung đoàn Bắc quân, kiềng chốt trong và ngoài cái địa danh lịch sử của tiểu khu Quảng Trị.

Đơn vị tôi dừng chân ở Quảng Trị và cổ thành trước ngày hiệp định Paris ngưng bắn 27/01/73.
Toàn bộ thành phố Quảng Trị và cổ thành Đinh Công Tráng chỉ còn là một đống gạch khổng lồ, đổ nát hoang tàn, không một bóng cây. Dãy hào sâu bao bọc khu thành cổ chỉ còn là những vũng nước đứt quãng vì gạch đá tràn lấp, San bằng, có nhiều chỗ cao hơn cả mặt đất.
Những ngày cuối tuần trong tháng 3 và tháng 4 năm 1973, từng đoàn người lũ lượt tràn về Quảng Trị với cờ xí, biểu ngữ nối đuôi nhau tháp tùng theo các đoàn Xe quân sự lẫn dân sự, hàng hàng lớp lớp từ Huế và Đà Nẵng kéo Ra địa điểm trao đổi tù binh hai miền ở bờ Nam sông Thạch Hãn.
Thả bộ từ vị trí đóng quân cách đó hơn 1 cây số, tôi đến nơi trao đổi tù binh. Những chiếc ca nô của công binh từ bờ Nam, chở tù binh Bắc quân qua bờ Bắc và đón các chiến sĩ QLVNCH trở lại bờ Nam.
Không khí hai bên bờ sông hoàn toàn khác biệt. Phía bờ Bắc thưa thớt người, chỉ toàn là bộ đội, không có bóng người dân. Bờ Nam thì thân nhân, dân chúng, học sinh từ các trường trung học ở Huế, Đà Nẵng kéo Ra nườm nượp.
Những tà áo dài Đồng Khánh thướt tha như từng đàn bướm trắng, được che mát bởi những chiếc nón bài thơ mượt mà. Những bộ đồng phục quần xanh, áo trắng Quốc Học làm cho tôi nhớ lại quãng đời học sinh mà tôi đã rời bỏ không lâu.
Nhạc chào mừng, Loa phóng thanh loan báo, các vòng hoa, lời chúc mừng, nước mắt, nụ cười đoàn tụ, như cùng một lúc òa vỡ khắp bờ Nam.
Quang cảnh náo nhiệt, thức ăn, nước uống tràn ngập như một ngày đại hội.
Đứng ở một góc khuất xa các đám đông người, tôi nhìn và theo dõi những bi hoạt cảnh của đời. Nơi này thì nói cười, chỗ kia thì tư lự, từng nhóm tụm năm, tụm ba. Những đám đông người khi thì vang lên những lời đả đảo, lúc lại rộn ràng những tiếng hoan hô.
- Đả đảo bọn cộng sản Bắc Việt xâm lăng!
- Hoan hô các chiến sĩ QLVNCH!
Trên gương mặt các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa trở về từ bờ Bắc là cả một sự vui mừng hớn hở, nhưng trên gương mặt những tù binh Cộng Sản rời khỏi bờ Nam là cả một sự dửng dưng. Phải chăng họ đã chai lì hoặc là sống sau bức màn sắt, thì không ở tù cũng như ở tù mà thôi.
Rải rác đó đây, có những đôi uyên ương xé lẻ, họ không đứng cùng dòng người, họ tìm những nơi khuất nẻo, những góc yên tĩnh để tâm sự, hàn huyên.
Lác đác tôi cũng nhìn thấy vài người đứng một mình đang nhìn vào những cảnh tượng xảy Ra, trên gương mặt họ lúc điểm nụ cười, lúc lộ niềm suy tư lo lắng.
Quay nhìn lại phía sau lưng, tôi thấy một người lính TQLC đứng một mình đang theo dõi các đám đông, cùng lúc đó anh quay sang nhìn tôi. Chúng tôi cùng mỉm cười chào nhau. Thì Ra tôi cũng có người anh em đồng điệu.
Chiều về, khi những cuộc trao đổi trong ngày đã chấm dứt, những chiếc ca-nô đã trở lại bờ Nam, đoàn người đã rời khỏi nơi này. Sự yên lặng trở lại trên hai bờ của dòng sông, những rác rưởi, dấu vết của một ngày ồn ào vừa lắng xuống. Ráng chiều trải dài trên thành phố nóng như lửa đốt, vì không còn màu xanh của cây cối.
Một mình thơ thẩn trên đường về, văng vẳng giọng ca Elvis Phương từ một chiếc radio của một chiến binh tiểu đoàn 7 TQLC đóng cạnh bờ sông.
Bài hát mang tên "Thành Phố Buồn Hiu", mà giờ này lại càng thêm ảm đạm hoang tàn.

"Quê hương anh là Quảng Trị
Nhà của anh bên dòng sông Thạch Hãn
Ngày xưa đó anh học trường Nguyễn Hoàng
Ngày hai buổi đi về đường Quang Trung
Và chiều chiều trên con phố buồn hiu
Cùng người yêu anh thường hò hẹn
Tình nồng thơm chất ngất men say..."

Mở đầu bài thơ của chàng chiến binh TQLC thật nhẹ nhàng, thơ mộng. Rồi thì đời trai phải lăn lóc gió sương, anh phải gia nhập quân đội để làm tròn nhiệm vụ trong thời chinh chiến, và anh đã trở thành một chàng Cọp Biển.
Hãy nghe anh kể tiếp câu chuyện.

"Hôm anh xa rời Quảng Trị
Trời đổ mưa, mây mù giăng thành phố
Người yêu đứng bên đường lặng lẽ nhìn
Tình lưu luyến đau lòng người ra đi
Nhìn tạ từ ôi con phố buồn hiu
Hẹn cùng ai mai này trở lại
Đường tình xưa tiếp nối hẹn hò..."

Hẹn ước là một chuyện, nhưng thực tế lại là một điều khác xảy ra. Cuộc đời quân nhân nổi trôi đây đó, anh chưa có dịp trở lại Quảng Trị thì lửa đạn đã tràn đến quê hương anh.

"Rồi đời anh như chim bay vào bão tố
Một hôm nghe quân thù về cướp quê hương
Súng đạn của giặc thù
Cày nát tim người nghèo nàn
Máu lửa ngập tràn, phủ kín quê hương..."

Người chiến binh đã trở về thành phố trong đoàn hùng binh TQLC để chiếm lại cổ thành Đinh Công Tráng và thành phố Quảng Trị quê hương anh gần 5 tháng sau đó.

"Khi hay tin anh trở về
Tìm người yêu, trong vòng vây đạn pháo
Thành phố đó bây giờ đầy xác người
Đường phố đó bây giờ đà tan hoang
Và tìm hoài sao không thấy người xưa
Đường buồn hiu âm thầm một mình
Giờ còn ai tiếp nối hẹn hò..."

Lang thang một mình trở về vị trí đóng quân. Nắng chiều trải dài trên con đường Quang Trung không còn giới hạn tầm mắt, tôi có thể nhìn suốt cả một khoảng không gian trước mặt vì tất cả nhà cửa đã sụp đổ hoang tàn. Trường Nguyễn Hoàng chỉ còn trơ những cột bê tông đổ nát, với những thỏi sắt cong quẹo cháy nám. Tôi thấy thấm thía và cảm thông nỗi lòng của người chiến hữu.
Không biết giờ này, nơi đâu, anh có được đoàn tụ với người xưa để không còn phải chờ đợi, hẹn hò?
Bước chân tản mạn đưa tôi đến một lối vào cổ thành, làm tôi nhớ đến một người bạn, một chiến binh tiểu đoàn 3 TQLC - Lê Đình Lời. Người Trung đội trưởng gan dạ đã leo lên bờ thành cổ, đánh bật các chốt của Việt Cộng, mở màn cho việc chiếm lại cổ thành Đinh Công Tráng rạng sáng ngày 15/9/72.
Anh kể lại: Trong chiếc hầm chữ A gần như hoàn toàn sụp đổ ở một góc tường thành, một cuốn nhật ký cháy sém với những dòng chữ nhạt nhòa bởi máu và nước mắt của một anh bộ đội miền Bắc.
"Mẹ ơi! Chắc con chết mất! Mấy tuần nay bom, pháo liên tục dội xuống cả ngày đêm, mắt, mũi, tai con chảy máu cả ra. Người con cơ hồ như bị ai đánh đấm túi bụi, con chẳng thiết ăn uống gì cả, chỉ mong được một giấc ngủ ngon..."

Như một phản ứng tự nhiên từ khi có các loài sinh vật, trong cảnh cùng khốn, con người hay con vật thường kêu van mẹ vì mẹ là một điều gì đó thiêng liêng và gần gũi nhất.
Không biết trong những đống xác chết của những người bộ đội miền Bắc, được chôn vùi tập thể dưới những ngôi mồ bên trong cổ thành Đinh Công Tráng những ngày sau đó. Có anh không anh lính Bắc quân!? Nếu có, xin chúc anh ngủ ngon và quên đi những gì đã xảy ra cho tâm hồn được nhẹ nhàng thanh thoát.
Với diện tích chưa đầy 1 Km vuông, cổ thành Đinh Công Tráng đã đón nhận hàng trăm ngàn tấn bom đạn của cả hai phía trút vào, từ những ngày đầu tháng 3/72 khi Bắc quân pháo kích vào bộ tư lệnh sư đoàn 3 bộ binh. Sau đó bom đạn từ hai phía và từ đệ thất hạm đội, từ các phi vụ B-52 liên tục trút vào cho tới ngày ngưng bắn. Tính ra một mét vuông đất của cổ thành được nhận lãnh hàng tấn bom đạn.
Sinh vật nào có thể sống được trong tình trạng này? Chỉ có những người lính Bắc quân bị bức tử không còn con đường nào khác để chọn lựa mà thôi!!!
Tôi có một người bạn vong niên, sơ giao nhưng lại rất thân tình. Anh kể cho tôi nghe về một tác phẩm của một nhà báo, phóng viên chiến trường người ngoại quốc viết về chiến tranh Việt Nam. Tên quyển sách là: Việt Nam, cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn - cuộc chiến tranh phá sản.
Còn có nhận định nào hay và đúng bằng nhận định trên?
Thực tế thì sau cuộc chiến tranh hơn 20 năm chia cắt, dân tộc tôi chết hơn 2 triệu người, đất nước tôi thụt lùi hàng thế kỷ, và cho tới bây giờ 50 năm sau ngày đất nước bị chia cắt, 30 năm sau ngày thống nhất, dân tộc tôi vẫn còn bị nợ nần như chúa chổm.
Chúng ta thấy rõ ràng. Sau khi miền Bắc thắng thì đất nước kiệt quệ, chính sách cai trị độc tài và ngu dốt, thêm vào sự cấm vận của Mỹ và khối tư bản trong nhiều năm, dân Việt Nam nằm trên vựa thóc mà vẫn phải nghèo đói không có cơm ăn.
Cho đến bây giờ người dân quê hương tôi vẫn còn là một món hàng được xuất cảng đi khắp các nước khác để lao động trả nợ, những món nợ mà chính quyền miền Bắc đã vay mượn trong thời chiến.
Nhưng nếu miền Nam thắng thì dân tộc tôi sẽ được gì? Hay là vẫn những tên tham nhũng, xôi thịt, tồi bại từ miền Nam sẽ ra hốt của cải, tài sản của người dân miền Bắc, vốn đã chẳng còn có gì.
Có ai dám bảo đảm rằng những tên tư bản Mỹ sẽ không kéo vào cày xéo đất nước tôi lên để lấy tài nguyên, bù vào những số tiền viện trợ mà họ đổ vào đất nước tôi, suốt trong 20 năm họ hiện diện.
Trước năm 1954 nhân dân tôi chẳng mắc nợ ai. Bọn Tây thực dân không chịu trả độc lập cho dân tộc tôi. Bọn Mỹ tư bản không chịu nhìn nhận đất nước tôi. Hai khối Cộng Sản và Tư Bản đang tâm chia cắt đất nước tôi mà không đếm xỉa gì đến nguyện vọng của hơn 30 triệu người dân tôi thời đó.
Miền Bắc thì hò hét, hô hào giải phóng miền Nam. Miền Nam thì tự nhận là tiền đồn, thành trì chống Cộng của thế giới tự do, ngăn chận làn sóng đỏ.
Những năm cuối bậc trung học và suốt những năm ở bậc đại học, chúng tôi đã được các chính trị gia thời đó nhồi nhét vào đầu các tư tưởng như “chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh ý thức hệ...”, không thể chung sống với Cộng Sản, Cộng Sản bần cùng hóa nhân dân.
Cộng Sản Việt Nam đúng là tay sai của Nga, Hoa, nhưng có ai dám bảo đảm rằng những người chính trị gia miền Nam không phải là đày tớ, gia nô của thực dân Pháp và tư bản Mỹ.
Miền Bắc thì cáo già Hồ Chí Minh đóng kịch, lừa đảo người dân cùng khổ bằng cách vừa khóc, vừa quệt nước mắt như một đứa con nít, miệng thì thốt ra các câu nói xảo ngôn như "Miền Nam lúc nào cũng ở trong trái tim tôi...". Hồ Chí Minh đâu có tim, nếu có tim ông đã không lường gạt dân tộc.
Nhân dân tôi, đất nước tôi được gì trong suốt 20 năm chia cắt? Trong 20 năm này tất cả các nước trên thế giới được xây dựng, kiến thiết, thì tại đất nước tôi, hơn 2 triệu người lao động chính của hai miền Nam Bắc, cộng với hơn 1/2 triệu lính Mỹ và hàng chục ngàn của các nước đồng minh, mang theo bom đạn, vũ khí, chất độc hóa học của cả hai phe tư bản và cộng sản, thay vì xây dựng lại đi tàn phá đất nước tôi, giết hại nhân dân tôi.
Điều này là nghĩa lý gì? Chính nghĩa ở phe nào, miền Bắc hay miền Nam?
Chung cuộc thì chính quyền của cả hai miền Nam Bắc đều là tay sai của ngoại bang, đều bị áp lực của ngoại bang đi tàn sát chính dân mình để tường trình thắng lợi.
Hai miền Nam Bắc là hai con gà chọi bị bọn Tư Bản và Cộng Sản, bôi nghệ, tháp cựa, phun nước vào mặt cho đá với nhau chí tử..!
“Chú phỉnh anh rồi chính phủ ơi!!!”
Xin cho tôi nói một lời đơn giản. Chính phủ của cả hai miền Nam Bắc đều lường gạt dân tộc tôi.
Thật là nực cười khi Lê Chiêu Thống chửi bới Trần Ích Tắc rước voi về dày mả tổ.
Chắc đó là cái nghiệp xương máu mà dân tộc tôi phải trả!
"Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau"

Năm 1972 có hơn 60 đại đội tân binh TQLC tốt nghiệp tại trung tâm huấn luyện Rừng Cấm - Thủ Đức để bổ sung cho sư đoàn TQLC tại chiến trường. Ngoài ra còn có các khóa sĩ quan, hạ sĩ quan, các khóa chuyên môn như Công Binh, Pháo Binh, các quân phạm được cung cấp cho các đơn vị, các ban ngành. Hàng chục ngàn người được bổ sung, thay thế cho các đợt chiến binh đã hy sinh.
Trong ba tháng tái chiếm cổ thành Quảng Trị, số chiến sĩ TQLC đền nợ nước đã lên tới con số hơn 5.000 người.
Ôi!!! Biết bao xương máu, nhân tài vật lực được nhét vào cái “bánh chưng đẫm máu”, mỗi bề chỉ dài chưa được 1 Km, và cuối cùng chúng tôi đã thắng, một trận thắng để đời; Thắng để được gì!!!? "Một tiếng vang ở bàn hội nghị Ba Lê hay một đòn chính trị..."
Hàng loạt huy chương cấp bậc để thay thế cho hàng chục ngàn người chết banh xác!

Một nỗi sợ hãi thấm vào lòng, tôi vội vàng quay người bước ra khỏi tòa thành cổ, vừa đi vừa nghĩ ngợi mông lung, "Ba mươi năm trước nếu Bố không vào Nam thì anh em tôi cũng đã là những người lính Bắc quân này. Hoặc là những bộ xương trắng trên đường Trường Sơn, hoặc tan nát hình hài trong khu thành cổ!"
Về đến nơi đóng quân với cõi lòng hoang mang và một mặc cảm tự ti ích kỷ "May mắn cho anh em chúng tôi, Bố vào Nam..."

Tiếng chào hỏi của người lính gác kéo tôi trở về thực tại.
- Ngoài đó vui không Thiếu úy?
- Vui gì đâu! Tao chỉ đi rửa mắt chơi. Lâu lắm rồi mới được nhìn thấy từng đoàn áo dài đủ màu sắc trông như những đàn bướm, đông thiệt là đông.
Hạ sĩ nhất Quang, một Tiểu đội trưởng của trung đội 2, đang ngồi trong cái nhà bằng tôn, ván chắp đụp để làm nơi ngồi ăn của tiểu đội này, lên tiếng:
- Ở nhà nhậu vui hơn ông ơi, ra ngoài đó dang nắng mệt thấy mồ tổ.
Những người lính nhậu say, thực tình là những mối lo cho đơn vị. Nhớ lại lần tôi gặp một toán lính thuộc đại đội 1, gánh 6 cái poncho xác người về tiểu đoàn tuần trước mà thấy lạnh người.
Các anh này vui quá nhậu say rồi cãi lộn vì tự ái. Một anh rút chốt quả lựu đạn, sút tay làm rớt xuống đất. Cả đám say quá không phản ứng kịp. Thế là uổng mạng! Đó là những cái chết thật vô ích, thiệt mạng mình lại còn làm liên lụy đến những người khác như bạn bè, cha mẹ, vợ con...

Mùa lũ bắt đầu bằng một cơn bão lớn đêm qua và một trận mưa kéo dài đến gần sáng. Bước ra khỏi chỗ ngủ, tôi vươn vai làm vài động tác để khởi động cái thân thể mỏi nhừ suốt đêm không chợp mắt được vì mưa bão.
Con đê dọc bờ sông, chiều hôm qua còn là cái sân đá banh của tiểu đội 2 - trung đội 1 của Trung sĩ Điện, bây giờ hoàn toàn khuất lấp dưới dòng nước mênh mông của sông Thạch Hãn. Vài chiếc cọc sắt ấp chiến lược mà những anh lính đóng để căng lều, giăng võng nằm ngủ, lòi lên khỏi mặt nước đang lắc lư chống chỏi dòng cuồng lưu đang chảy xuôi ra biển.
Tiếng các người lính gọi nhau ơi ới dọc theo bờ sông, kéo dài suốt vị trí đóng quân của trung đội 1.
Khoảng giữa khuya khi cơn bão trút xuống một cách bất ngờ, giận dữ. Dòng nước sông dâng cao quá nhanh. Các tiểu đội đóng trên bờ đê và dọc theo dòng sông được lệnh di chuyển lên các điểm cao. Nước dâng quá đột ngột, chỉ một tiếng đồng hồ con đê đã chìm dưới dòng nước, cuốn theo 2 người lính của trung đội 1 khi họ cố gắng lội vào bờ.
Giọng nói run run xúc động của một người lính trung đội 1 kể lại tai nạn xảy ra làm ai nấy đều bùi ngùi. “Khoảng 11 giờ khuya nước bắt đầu tràn bờ đê. Tụi em sợ quá, cuốn hết quân trang, quân dụng vội vã lội vô bờ. Thằng Nở và thằng Tiến không biết bơi nên khi từ trên bờ đê bước xuống là rơi tõm ngay vào những trũng nước sâu ngập đầu, tụi nó bị nước cuốn....".
Hai ngày sau thi thể Binh nhất Nở và Binh nhì Tiến được tìm thấy nổi lềnh bềnh trên sông Vĩnh Định, gần cầu Ba Bến.

Thời gian ở cổ thành tôi được đi bay với huynh trưởng Nguyễn Văn Huyền, anh tốt nghiệp khóa 5/70. Đầu năm 75 anh được chuyển qua tiểu đoàn 16 TQLC tân lập, và anh đã hy sinh trong những trận đánh cuối cùng vào tháng 4/75.
Anh Huyền người Tây Ninh, cao ráo, da ngăm đen rắn chắc và nghiêm nghị. Anh em chúng tôi thường tâm sự về thời gian còn là học sinh. Anh rất thích đàn cho tôi hát. Nhiều lần anh đàn cho tôi hát say sưa đến nỗi đau cả mấy đầu ngón tay bấm phím mà vẫn không chịu ngừng. Anh là người rất nhạy cười, anh cười ra nước mắt mỗi lần tôi kể chuyện tếu hoặc đùa giỡn.
Thời gian ở cổ thành cũng xảy ra vài chuyện thương tâm. Một hôm 3 người lính thuộc trung đội 1 rủ nhau đi bắt tôm, bắt cá. Gặp cái giếng cạn, nghe tiếng ếch kêu, một anh leo xuống. Chẳng may khi xuống tới đáy giếng thì anh kêu vói lên trên là mệt quá, chóng mặt. Anh lính thứ nhì lần theo dây xuống cứu bạn thì cũng bị tình trạng tương tự. Người thứ ba là Hạ sĩ Lợi - tiểu đội phó cũng lao xuống nhưng vừa tới miệng giếng thì thấy chóng mặt, ngộp thở và nôn thốc nôn tháo ra cả máu. Thất kinh anh chạy về kêu la cầu cứu.
Bác sĩ Rậu - Y sĩ trưởng tiểu đoàn chạy đến, ra lệnh cho các người lính đi chặt những cành cây và thay phiên nhau dùng cành cây thụt lên thụt xuống để bơm không khí xuống giếng.
Sau đó các anh lính xuống giếng mang các bạn mình lên thì hai người lính đã chết ngộp. Thì ra khí độc và thán khí từ bom đạn, tỷ trọng nặng hơn không khí, tụ lại dưới đáy giếng. Khi hai anh lính xuống dưới thì bị chóng mặt xây xẩm, ngã ra bất tỉnh vì thiếu không khí để thở. Hạ sĩ Lợi thoát chết và từ đó có cái tên mới là "Lợi Hộc Máu".
Vài người lính khác tìm thấy những chai thuốc rầy trong các căn nhà đổ nát, họ mang đổ xuống các ao vũng chung quanh cổ thành để thuốc cá. Chỉ vài phút sau những con cá say thuốc nổi lên. Thế là họ tha hồ vớt. Chiều hôm đó cả trung đội ăn cơm với cá tươi và cả ngày hôm sau cả trung đội ngật ngừ vì say thuốc rầy. Cũng may là chưa ai thiệt mạng.
Từ đó anh em chúng tôi nhận ra rằng, phải cẩn thận đề phòng các chất độc tác hại đến thân thể, nếu không thì thiệt thân, uổng mạng.
Thời gian này đại đội 3 thay phiên nhau được đi phép, mỗi tuần có một sĩ quan và khoảng 10 người lính đi phép, sau khi toán này trở ra thì đến phiên toán kế tiếp.

Sau ngày ký kết hiệp định ngưng bắn. Các đơn vị đồng minh rút quân, viện trợ từ Hoa Kỳ bị cắt giảm đáng kể. TQLC Việt Nam cũng mất đi một nguồn tài trợ lớn từ TQLC Mỹ.
Theo lý thuyết thì mỗi người chiến binh được nhận 3 bộ đồ mới hàng năm, thực ra nếu có được 2 bộ đồ mới mỗi năm là mừng quá rồi. Đôi khi nhận đồ đạc còn phải bị bắt xác (đem đồ cũ đổi lấy đồ mới). Súng thì phải có số danh bộ, quân trang, quân dụng thì phải liệt kê rõ ràng, mất thì phải bồi thường hoặc phải chịu thiếu thốn, đạn và lựu đạn thì phải đủ cấp số. Thành ra những người lính không dám vứt bỏ bừa bãi như trước kia nữa.
Vải ngụy trang mũ sắt, dây ba chạc, giày là những vật gần như không được thay thế định kỳ. Có những chiến binh với chiếc dây ba chạc rách tươm, mũ sắt không có vải ngụy trang hay rách loang lổ trông thật tội nghiệp.
Tôi có đôi giày hư chờ đỏ mắt không được phát đành phải vào khu dân sinh Saigon mua trong dịp tiểu đoàn về hậu cứ. Trong đó thì hàng quân đội sắp lớp, cỡ nào cũng có, ngay cả đồ trận, áo Jacket, giây ba chạc, giày, bi đông, ca, xẻng, cuốc v.v.. Chỉ cần có tiền trả, muốn mua gì cũng có. Rất tiếc tiền lương người lính quá khiêm nhường ít ỏi...
Những anh lính độc thân thì còn có tiền tiêu xài, riêng các anh có gia đình thì ủy quyền cho vợ nhận lương để nuôi con nên lúc nào túi cũng xẹp lép quanh năm, dù là đầu tháng hay cuối tháng.
Đúng là TQLC sống hùng, sống mạnh, nhưng sống nghèo nàn.
Sau ngày ngưng bắn trong ba lô anh em chúng tôi ai cũng có một bộ đồ kẻng, gọi là kẻng nhưng thật ra chỉ là một bộ đồ lành lặn nhất để phòng khi đi phép, hoặc về hậu cứ có sẵn để mặc cho tươm tất đỡ phải tủi thân. Lúc đó chúng tôi được phát đồ bông thay thế cho đồ rằn, được gọi là quân phục ngụy trang đồng nhất.

Mưa xuân bắt đầu rơi và các mầm sống xanh tươi bắt đầu trổ ra khắp nơi. Chung quanh bờ các hồ ao, vũng nước, các ngọn rau muống bắt đầu vươn ra, trổ nhánh đâm chồi. Như các mạch sống tiềm tàng trong lòng đất, các chồi măng non lại trỗi lên từ các bụi tre già tan tác không còn hình dạng vì bom đạn.
Lác đác đã có một số người dân Quảng Trị, thân nhân của các đơn vị Địa phương quân, các cơ sở hành chánh xuất hiện và tỉnh Quảng Trị chuẩn bị hồi cư. Trung tá Đỗ Kỳ - Trưởng phòng 3 TQLC được chỉ định làm tỉnh trưởng Quảng Trị.
Anh em chúng tôi, những người lính TQLC bắt đầu đùa với nhau, nếu có ai hỏi chúng tôi ở đơn vị nào, thì anh em chúng tôi cười rộ lên và trả lời:
- Địa phương quân tỉnh Quảng Trị.
Đã một năm rồi từ ngày bắt đầu cuộc chiến mùa hè đỏ lửa, cả hai sư đoàn Dù và TQLC đã có mặt ở Quân đoàn 1 tiền phương. Sau đó TQLC chúng tôi từ từ thay thế cho sư đoàn Dù vì đơn vị bạn được di chuyển vào Quảng Nam - Đà Nẵng.

Tháng 3/73, tiểu đoàn 7 TQLC được lệnh hoán đổi với tiểu đoàn 3 tại khu vực Chợ Sãi và sông Vĩnh Định, cầu Ba Bến.
Bỏ chiếc ba lô xuống đất, tôi nhảy xuống giao thông hào và chui vào căn hầm ẩm thấp, nơi trú ngụ của tôi trong thời gian sắp tới. Tiếng những người lính gọi nhau ơi ới để nhận tuyến mới, đột nhiên có tiếng người la lên xen lẫn chút ngạc nhiên trong giọng nói.
- Ê tụi bay, Việt Cộng đứng ở hàng rào mời mình ra nói chuyện kìa!
Cái hàng rào được dựng lên sau ngày ngưng bắn để phân chia khu vực hai bên. Bên kia là những lá cờ xanh đỏ của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Bên này là cờ vàng ba sọc đỏ của miền Nam Việt Nam tự do.
Những anh lính miền Bắc đến bên hàng rào gọi và hỏi thăm chúng tôi. Tôi cảm thấy cái không khí xã giao thân mật này như ẩn chứa một điều gì không ổn, sớm muộn gì rồi cũng sẽ xảy ra. Chúng tôi nói chuyện nhưng lúc nào cũng đề phòng. Chưa bao giờ chúng tôi lại mặt đối mặt với những anh lính Bắc quân như thế này. Bắt tay nhau, nói vài câu thăm hỏi, mời nhau một điếu thuốc. Chắc các anh ấy cũng như chúng tôi đều không thể biết chuyện gì sẽ xảy ra vì sau ngày ngưng bắn tại chỗ, các cuộc nói chuyện giữa hai miền Nam Bắc chẳng đi tới đâu.
Có một hôm phái đoàn các bên đình chiến trên hai chiếc trực thăng vừa bay qua sông Thạch Hãn thì phòng không miền Bắc nổ như pháo bông trên bầu trời. Quá kinh hoàng cả hai chiếc trực thăng quay đầu trở lại, bay vô bờ Nam của dòng sông.
Trái với sự tưởng tượng và mong đợi của người dân miền Nam, họ cứ nghĩ ngưng bắn là có hòa bình. Những người chiến binh TQLC ở địa đầu giới tuyến, hơn ai hết thực sự mong ước điều này xảy ra, nhưng trong thâm tâm anh em chúng tôi cũng đều biết rằng, ngưng bắn chỉ là cái vỏ bên ngoài che đậy mà thôi.
Chúng tôi lúc nào cũng sẵn sàng đề phòng để đối phó các cuộc tấn công bất ngờ của Bắc quân có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Sau khi sắp xếp xong xuôi những công việc cần thiết khi đến vị trí đóng quân mới, tôi leo lên bờ giao thông hào, đi dọc theo vị trí đóng quân của đơn vị.
Tiếng anh Huyền gọi tôi:
- Ê Minh, vô đây uống nước.
Ngồi xuống bên chiếc bàn dã chiến, trên có một ấm nước và hai chiếc ca nhà binh nước trà nóng hổi.
- Xong hết chưa Minh?
- Rồi, huynh trưởng.
Anh Huyền hơi nghiêng nghiêng đầu như thói quen anh thường làm mỗi khi có điều cần suy nghĩ.
- Mẹ, đóng quân gì thấy ớn lạnh, cách nhau có vài thước, tuy nhiên dù sao mình cũng đã quen tác chiến, cận chiến với tụi chuột này rồi.
Quay qua phía Binh nhất Sang - Hiệu thính viên trung đội 1, anh hỏi:
- Anh Ngâm đâu rồi Sang?
- Dạ, ảnh đi kiểm soát vị trí của tiểu đội tiền đồn, Thiếu úy.
Với lấy cây đàn đã để sẵn trên bàn, anh Huyền so dây bấm phím rồi cất tiếng hát.

"Một ngày như mọi ngày, em trả lại đời tôi...."

Đúng, đời lính tác chiến chúng tôi là cuộc đời một ngày căng thẳng như mọi ngày, từ lúc bắt đầu thức tới lúc ngủ, căng thẳng ngay cả trong khi ngủ cho tới khi thức giấc trở lại.
Anh say sưa ca bài nhạc với những xúc động chân thành của một người lính hát cho thân phận mình và thân phận quê hương. Đời lính chiến đối diện với cái chết từng giờ, từng phút, ranh giới giữa cái sống và cái chết thật mỏng manh. Những bản nhạc của Trịnh Công Sơn thời đó đã nói lên được nỗi ray rức biết chừng nào về quê hương và con người Việt Nam.
Uống một hớp trà nóng, tôi dựa người vào thành cái băng ghế dã chiến dùng làm bàn ăn, thấy thấm thía lời bài nhạc và say sưa nghe anh hát.
- Tới phiên mày đi chứ!
Tôi cười nhìn anh và lên tiếng hỏi:
- Mình ca hát như vầy được bao lâu nữa anh Huyền!
- Tới luôn đi bác tài, ba bài liên tiếp.
Hai chúng tôi cười vang lên.
Anh Ngâm - trung đội phó trung đội 1 vừa về tới. Bước đến gần chỗ anh Huyền, anh Ngâm lên tiếng:
- Tất cả xong rồi Thiếu úy.
Và anh ngồi xuống cầm lấy ca nước trà, nở một nụ cười với mấy cái răng vàng chói.
Trung sĩ 1 Trần Ngâm, người Khmer Crôm vùng 4, tính tình hiền lành, thâm trầm, nói năng nhỏ nhẹ, nhưng anh cũng là một thầy bùa có hạng.
Cuộc đổi tuyến đã chấm dứt. Chúng tôi đã rời khỏi cổ thành sau hơn 2 tháng trấn đóng.
Hiệp định ngưng bắn đã có hiệu lực nhưng không biết nó sẽ còn hiệu lực tới bao giờ.
Tôi bắt đầu hát để cho anh Huyền đàn.

"Tôi là lính xa nhà đi trấn sơn khê
Hai mùa mưa mây mù che nẻo đường về
Đêm rừng núi lạnh ướt mái poncho
Súng cầm canh nhịp từng giờ
Trái châu chiếu xuyên cành lá
Tay ghì súng nghe mùi tang tóc đâu đây
Tâm hồn se vơi chẳng vơi, đầy chẳng đầy
Khi vào lính nhận nếp sống đơn sơ
Rời đằng sau nhiều hẹn hò
Hai màu áo một niềm mơ..."

Đã hai mùa mưa rồi tiểu đoàn 7 trấn giữ địa đầu giới tuyến, không biết chừng nào mới được về miền Nam. Anh em chúng tôi mong ngày về hậu cứ.
Nhớ lại những năm trước đây trong đời sinh viên, học sinh vô tư, tôi chưa thể hiểu được những nỗi thống khổ của quê hương mình, dân tộc mình. Nhưng tôi vẫn luôn luôn tin tưởng rằng đã là người Việt Nam thì cho dù ở cương vị nào, mặc áo màu gì, dân sự hay nhà binh, áo học sinh hoặc áo lính, tất cả người dân quê hương tôi ai cũng khát vọng hòa bình, ngoại trừ những kẻ vô lương tâm chỉ biết làm giàu trên máu xương đồng loại, những kẻ lợi dụng chiến tranh để buôn bán xác người, những kẻ lãnh đạo tồi bại bất lương không xứng đáng. Tôi chợt nhớ đến một nhận định rất thực nhưng cay đắng.

"Loài người là loài sinh vật dã man nhất trên trái đất, vì chỉ có loài người mới tàn sát loài người để thỏa mãn tham vọng và lòng ích kỷ. Loài vật chỉ giết loài vật vì bản năng sinh tồn mà thôi. Loài nào thì đáng sợ hơn ?"

Quay qua nhìn anh Huyền đang say sưa bấm phím, tôi buông nhẹ một hơi thở dài, thầm hỏi
TRIỆU PHONG - CHỢ SÃI - SÔNG VĨNH ĐỊNH

Những người lính TQLC chúng tôi từ khắp miền đất nước, từ Cao Bằng, Lạng Sơn tới Năm Căn, Cà Mau, từ Tây Nguyên Pleiku, Kontum đến miền duyên hải Nha Trang, Đà Nẵng, những người dân Khmer Crôm vùng 4, tới một chàng thanh niên trẻ yêu đời từ Paris. Chúng tôi được tập họp tại Quảng Trị, để cùng với người dân vùng đất cày lên sỏi đá này, đóng những vai thật trong một vở bi kịch thời chiến....


Tháng 3 năm 1973 đơn vị tôi rời cổ thành và tỉnh lỵ Quảng Trị, hoán đổi vị trí đóng quân với tiểu đoàn 3 TQLC tại Triệu Phong, khu vực Chợ Sãi và sông Vĩnh Định.
Trên đường chuyển quân tôi gặp Bích, một người bạn cùng khóa thuộc tiểu đoàn 3. Chúng tôi dừng lại đôi ba phút để hỏi thăm nhau, rồi mạnh AI nấy tiếp tục đoạn đường.
Chợ Sãi chiếm một khu vực thật đẹp mắt ở ngã ba sông Thạch Hãn, và một nhánh nhỏ dẫn về sông Vĩnh Định, nằm ở phía Đông Bắc của Quảng Trị và cổ thành Đinh Công Tráng, trên trục lộ đường thủy từ cửa Việt đến Quảng Trị. Vì là một vị trí chiến lược quan trọng nên quân đội của cả hai miền đều dồn sức vào đây. Bom, pháo liên tục, Chợ Sãi chỉ còn là một chiến địa hoang tàn.
Chúng tôi, những chiến binh miền Nam xa gia đình đi chiến đấu, không biết nhiều về những truyền tích xưa. Không hiểu là khu vực này được xây dựng từ thời Chúa Sãi, hoặc tự bao giờ?
Người dân Quảng Trị thường nhắc về Chợ Sãi với món nem nướng thơm ngon. Thế mà những người lính chúng tôi đóng quân ở nơi này lại không có dịp thưởng thức được món đặc sản này, vì Chợ Sãi đã không còn.
Ngay góc sông, tàn tích còn sót lại của một ngôi nhà to, xây bằng gạch nung và đá vôi, mặt nhà nhìn về hướng cầu Thạch Hãn, lối bước lên nhà là một bậc cấp 7 bước. Bên ngoài ở góc phía sau nhà là một lối nhỏ dẫn vào chỗ kho chứa, chất đầy các dụng cụ linh tinh. Nơi đây đã là chỗ trú ngụ trong suốt những ngày lửa đạn của ba cô cháu gái, và cũng là chỗ tiếp tục kéo dài theo những mảnh đời của họ sau này.
Băng qua nhánh sông, trên những khúc gỗ tạp chồng chất lên nhau để nối liền hai bờ của chiếc cầu đã gẫy, con tỉnh lộ nối Triệu Phong với tỉnh lỵ Quảng Trị không còn hình dạng, những đoạn đường nhựa bị cắt quãng bởi hố bom và giao thông hào xen kẽ với nhau.
Tôi dừng lại đốt một điếu thuốc, kéo một hơi dài, nghe lồng ngực căng Ra với một cảm giác lâng lâng. Một người lính trẻ bước qua chỗ tôi ngồi, lên tiếng chào:
- Thiếu úy ngồi nghỉ mệt hả?
Tôi cười và gật đầu trả lời, rồi hỏi:
- Em ở đâu?
Chỉ tay về phía khúc quanh của đoạn giao thông hào không xa phía trước, anh nói:
- Dạ, trung đội em ở ngay trước mặt đó. Thiếu úy đi sau nghe Thiếu úy...
Điếu thuốc còn dang dở trên tay, chưa kịp tiếp tục đoạn đường đến vị trí đóng quân, tôi nghe tiếng nổ chát chúa của một quả lựu đạn M-67, nhảy vội xuống giao thông hào, nhìn về hướng tiếng nổ phát Ra, một bóng người vừa ngã xuống.
- Chuyện gì vậy?
Tôi hỏi những người lính phía trước, một lúc sau có tiếng những người lính nói chuyền xuống.
- Thằng... bị sút kíp lựu đạn khi nó nhảy xuống giao thông hào.
- Người tôi rởn DA gà nhớ lại câu " Thiếu úy đi sau nghe Thiếu úy...". Câu anh nói chưa tàn điếu thuốc, bây giờ anh đi rồi, chừng nào tới phiên tôi đi... Tôi lặng người và không dám nghĩ tới.
Đại đội 3 đóng quân trải dài trên một đường tuyến ngoằn ngoèo khoảng hơn nửa cây số, từ bên ngoài Chợ Sãi kéo về phía quận đường Triệu Phong, rồi lại uốn cong về hướng Vĩnh Định.
Thời gian này tôi còn đi bay, OJT (on job training) với huynh trưởng Nguyễn Văn Huyền, trung đội 1 và huynh trưởng Nguyễn Lai, đại đội phó, trước khi nhận trung đội 3.
Tôi được học về cách bố trí quân, điều động và kết hợp, chọn vị trí chốt, các điểm chính yếu khi phòng thủ, các hướng tấn công và các đường xâm nhập của địch, trên thực tế, ngay tại chiến trường. Những ngày đi bay, học nghề của những sĩ quan trung đội trưởng TQLC, đã tiết kiệm được biết bao nhiêu xương máu của những người chiến sĩ mũ xanh.
Ngay sau khi hiệp định Paris 27/01/73 được ký kết, thay vì hòa bình chiến sự vẫn tiếp diễn ngày càng khốc liệt vì cộng quân tiếp tục tấn công để giành dân lấn đất sau ngày ngưng bắn. Thỉnh thoảng nghe được tin tức vài bạn cùng khóa hoặc khác khóa từ trường Đồng Đế Nha Trang đã hy sinh. Các bạn tôi ở cùng trung đội 1, đại đội 719, tiểu đoàn 1 khóa sinh, khóa 3/72 Nha Trang nhưng khi ra trường mỗi đứa một nơi như Mã Quyền thuộc sư đoàn 23 bộ binh, Trần Như Phú thuộc Biệt Động Quân cũng đã anh dũng đền nợ nước.
Hơn một tuần sau, đại đội 3 được giao cho công tác làm một hàng rào chắn đạn trực xạ, dọc bờ sông Thạch Hãn trong khu vực Chợ Sãi, và tôi nhận nhiệm vụ thi hành công việc này.
Mỗi ngày chúng tôi bắt đầu làm việc từ 9 giờ đến 10 giờ rưỡi sáng thì nghỉ giải lao, sau đó tiếp tục làm đến 12 giờ trưa thì về ăn cơm. Buổi chiều làm từ 2 đến 5 giờ chiều.
Hàng ngày có khoảng từ 30 đến 40 người lính từ các trung đội được giao cho tôi điều động để thi hành công tác. Nhờ công việc này nên chỉ một thời gian ngắn, tôi đã có thể nhớ tên hầu hết các chiến binh của toàn đại đội, biết tính tình và khả năng của họ, một điều rất ích lợi cho tôi sau này.
Thường thì vào giờ giải lao các chiến binh tìm chỗ mát nghỉ mệt, vài anh vào các căn nhà sụp đổ, thơ thẩn tìm vài vật dụng cần thiết còn có thể dùng được, số khác ngồi hút thuốc tán gẫu, hoặc tư lự nhớ nhà.
Một hôm có một người lính trẻ, lôi ra một cuốn sách Cours de Langne (Mauger Tome IV) ngồi đọc lẩm nhẩm, mỉm cười trầm tư.
Bước từ trên những bậc thềm của ngôi nhà xuống, nhìn thấy anh ta đang ngồi đọc sách, tôi hỏi:
- Mày lấy cuốn sách tiếng Tây làm chi, mày đọc được không?
- Dạ được, Thiếu úy.
- Đọc thử một đoạn coi.
Anh cất giọng đọc một cách thoải mái tự tin, làm cho tôi sửng sốt. Tôi đã được học một số bài trong sách này năm đệ Nhất, và tôi cũng đã được học 3 khóa Pháp văn tại Centre Culturel Francaise vào năm 67 và 68, mà tôi còn phải giật mình.
- Mày học tiếng Pháp ở đâu vậy?
- Em học ở Paris.
- Mẹ, mày giỡn hả?
- Nó ở bên Tây về đó Thiếu úy, người lính ngồi cạnh anh lên tiếng.
Tôi ngạc nhiên nhìn kỹ lại anh lính trẻ. Anh vào khoảng 18, 19 tuổi, sống mũi cao, tóc vàng, mắt xanh lơ, mà ngạc nhiên không ít.
- Có thiệt mày ở bên Tây về không?
- Dạ phải, Thiếu úy.
Anh nói tiếng Việt lơ lớ. Tôi cũng muốn biết thêm, nhưng không có nhiều thì giờ để tìm hiểu về cuộc đời anh nên chờ khi khác có dịp thuận tiện hơn.
Hơn một tháng sau, hàng rào được hoàn tất.
Một hôm huynh trưởng Tăng Bá Phụng mời các sĩ quan đại đội lên họp. Anh là một đại đội trưởng giỏi, có đạo đức và tư cách. Tôi đã học được từ anh rất nhiều về cung cách điều động và ứng xử với thuộc cấp.
- Ông Minh, lệnh từ sư đoàn là phải tổ chức một lớp học Việt ngữ cho những người lính mù chữ. Thượng sĩ Nam, thường vụ đại đội, sẽ phụ trách lớp học nhưng cần sự cố vấn, giúp đỡ của một sĩ quan, tôi giao cho anh chuyện này.
Sau đó anh em chúng tôi ngồi tâm sự, nói chuyện đời. Anh đưa cho tôi mượn vài quyển tiểu thuyết, truyện dịch của Quỳnh Dao và Erich Maria Remarque. Huynh trưởng Nguyễn Lai vừa cười vừa nói:
- Ê Minh, lính tác chiến không biết ngày về, cầm đọc cho đỡ quên chữ.
Anh Lai là sĩ quan thâm niên và lớn tuổi nhất đại đội. Anh nhập ngũ khóa hạ sĩ quan, sau đó được đi học sĩ quan đặc biệt khóa 1/70 và cũng là sĩ quan độc nhất có gia đình. Các anh em còn lại chúng tôi, đại đội trưởng và các trung đội trưởng vẫn còn độc thân tại chỗ.
Lớp học Việt ngữ có khoảng 10 học sinh, ai cũng nói giỏi tiếng Việt nhưng không biết viết. Chỉ trừ Binh II Nguyễn Văn Quang từ Paris về, nói không rành và viết chữ cũng không có dấu.
Bắt đầu thì học cho thuộc các mẫu tự, rồi tập ráp vần, ráp chữ, sau đó thì tập đọc và viết.
Một hôm có một anh lính tinh nghịch chỉ cho Quang đánh vần thơ lục bát. Quang học nhanh vì em có trình độ.
Hai câu thơ lục bát như sau:

“M K M H U Ơ
M K M H M R Q N.”

Nhìn gương mặt hồn nhiên của một chàng trai mới lớn, hiếu học, ham tìm hiểu tiếng mẹ đẻ mà thấy dễ thông cảm với em hơn.
Quang háo hức cất tiếng đọc chậm rãi:

"Em ca em hát u ơ
Em ca em hát em rờ... cu anh."

Cả lớp học rộ lên cười, trong khi Quang trố mắt ngạc nhiên và mỉm cười cất tiếng hỏi:
- Bộ vui lắm hả?
Hình như em chưa hiểu hết ý nghĩa của câu thơ.

Giữa tháng Tư, tôi nhận trung đội 3 khi Bửu về tập dượt diễn hành cho ngày Quân Lực 19/6. Tôi có một cuốn sổ bỏ túi để ghi tên tuổi, cá tính, trình độ học vấn của tất cả các chiến binh trung đội 3. Những chi tiết cần thiết này giúp tôi biết rõ các chiến binh thuộc quyền để dễ dàng điều động cho thích hợp với nhiệm vụ.

Trang viết về Binh II Nguyễn Văn Quang như sau:

Tên: NGUYỄN VĂN QUANG. Cấp bực: Binh II.
Ngày và nơi sinh: 1955 - Cần Thơ.
Trình độ học vấn: Tú tài (Vỡ lòng).
Hoàn cảnh gia đình: Độc thân.
Sở thích: Đọc sách tiếng Pháp.
Vũ khí sử dụng: M-16.
Cá tính: Hay ngủ gật khi gác.

Quyển sổ tay nhỏ này giúp cho tôi rất nhiều trong thời gian ở đại đội 3 và những ngày trong quân đội. Anh Lê Văn Xê, trung đội phó, hỏi tôi:
- Sao ông viết Tú tài rồi còn vỡ lòng nữa?
- Nó Tú tài Tây nhưng vỡ lòng Việt ngữ.
Anh Xê cũng chiếm một trang trong sổ tay của tôi và chính anh cũng có một sổ tay riêng của trung đội phó ghi chép về trang bị và vũ khí của từng người trong trung đội.
Thời gian đi công tác làm hàng rào chống đạn trực xạ, tôi có nhìn thấy một chiếc xương sọ người trong một ngôi nhà đổ nát. Một hôm nhìn vào tôi thấy chiếc xương sọ biến mất. Ngạc nhiên tôi hỏi những người lính:
- Ai lấy chiếc xương sọ ở đây?
Một anh ở trung đội 4 trả lời.
- Anh Tiền đó Thiếu úy.
Trung sĩ Tiền, trung đội phó trung đội 4 đã lấy chiếc xương sọ về. Thảo nào tôi có nghe các người lính kể chuyện anh Tiền gửi hậu trạm, mua nhang đèn, trái cây, giấy tờ vàng bạc, và đêm nào cũng thắp nhang đèn vái lạy tứ phía.
Khoảng hơn một tuần sau, tôi lại thấy chiếc xương sọ trở về chỗ cũ trong ngôi nhà. Lại nghe các người lính kháo nhau về chuyện này.
Tôi ghé hỏi thăm Dũng và Chắn, hai người lính ở ban chỉ huy trung đội 4, Dũng trả lời:
- Ông không biết hả Thiếu úy, tối nào nó cũng về bóp cổ ổng, thở không nổi nên ổng phải đem trả lại đó.
Một buổi trưa tôi đang ngồi đọc sách dưới bóng râm của những tấm tôn vá víu dùng làm chỗ ngồi ăn của trung đội 3 thì thấy một số người lính đi nhận tiếp tế hàng tuần từ cánh B trở về đi ngang qua, trong số có Trung sĩ Thật, trung đội phó trung đội 2, mang theo một ôm thư, theo sau anh là Binh I Triết, hiệu thính viên của trung đội 2, cũng khệ nệ ôm một đống thư.
Tôi lên tiếng hỏi:
- Thư của ai nhiều vậy anh Thật?
Chỉ vào thằng Triết, anh nói:
- Của thằng này đây nè, nó bốn phé bắn (tìm bạn bốn phương) trong chương trình Bạch Tuyết trên đài phát thanh Quân đội nên thư gửi tới cả đống.
Sau ngày TQLC tái chiếm cổ thành Quảng Trị, trên các đài phát thanh hàng ngày thường phát đi bài hát “Cờ Bay Trên Cổ Thành Quảng Trị”.
Những người dân miền Nam lúc đó rất thương mến những chiến sĩ cọp biển, nhất là các cô em gái hậu phương, hình ảnh người anh cọp biển tiền tuyến là thần tượng khi nghe đọc trên đài phát thanh trong mục tìm bạn bốn phương. Tôi còn nhớ lời tìm bạn bốn phương của Nguyễn Văn Tân.

“Hơn 20 tuổi đời, tròn 2 tuổi lính, ôm giấc mộng làm trai thời chinh chiến, thèm ánh đèn đô thị với những buổi hẹn hò, thương chiếc áo dài trắng trên sân trường ngập nắng, mà chưa một lần được ngỏ cùng ai. Này cô em gái hậu phương, nếu có cảm thông niềm tâm sự, xin cho cánh nhạn bay về:
Nguyễn văn Tân
Đại đội 3, Tiểu đoàn 7 TQLC
KBC 3359
Hứa hồi âm dù thư đến chậm."

Chắc các người trong chương trình tìm bạn bốn phương đã sửa đổi ít nhiều khiến cho lời rao tìm bạn của Nguyễn Văn Tân trở nên văn hoa quá!
Tân và Triết là hai trong hàng trăm cọp biển độc thân của đại đội 3, yêu đời lính, thích nhạc họ Trịnh (chú thích: Trịnh Lâm Ngân). Đoạn này làm tôi nhớ đến thằng Mẫn, trung đội trưởng trung đội 4, mỗi lần nghe đến câu thích nhạc họ TRỊNH là nó phá lên cười sằng sặc. Mẫn đã hy sinh vào cuối năm 74 khi đơn vị đóng quân tại căn cứ Hòa Mỹ, lúc tiểu đoàn 7 tăng phái cho lữ đoàn 1 thiết kỵ trong khu dinh điền Đông Lâm.
Các bản nhạc rất phổ thông trong đời lính xa nhà lúc bấy giờ là "Xuân Này Con Không Về", "Giã Từ Vũ Khí", "Sương Trắng Miền Quê Ngoại"...
Khoảng mười ngày sau khi nhận thư, tôi đang ngồi đọc sách thì Triết đến tìm tôi với vài lá thư trên tay.
- Thiếu úy à, ông đọc giùm tôi bức thư này được không?
Tôi gật đầu nhận bức thư và mở ra xem. Đó là một lá thư từ Saigon gửi ra cho anh, nét chữ tròn trịa, mềm mại của một cô gái. Nếu cứ nhìn nét chữ mà đoán người thì cô gái này chắc trông cũng "phì nhiêu" và có da có mỡ lắm!
Mở đầu thư cô nhắc về những tư tưởng của Hégel, Des Cartes, Pythagore... Cô diễn tả về con đường Cường Đễ với những hàng Me và những hàng cây Sao kéo dài tới bến Bạch Đằng...
Lá thư thứ nhì nét chữ sắc sảo, thanh tú, cao và gầy như những búp măng. Nhìn chữ tôi liên tưởng tới hình cô gái làm kiểu mẫu cho hãng tăm tre hiệu "Hạnh Phúc".

Thư viết:

"Ông Triết,
Tôi viết lá thư này cho ông khi ngồi ở sân trường, dưới bóng mát của những hàng me. Mùa này chưa có tiếng ve sầu vì trời chưa vào hạ. Trước khi đến trường, tôi ghé qua chiếc xe bán dừa tươi ở Công Trường Chiến Sĩ để mua một ly nước dừa xiêm ướp đá mát lạnh.
Nghĩ đến ông và những người bạn cùng đơn vị, nơi Cổ Thành Quảng Trị xa vời mà thầm cám ơn người lính Cộng Hòa..."

Lời thư ngọt lịm của những cô em gái, từ thủ đô Saigon xa xôi gửi tới người anh chưa từng biết mặt nơi tuyến đầu nắng cháy.
Tôi quay qua Triết hỏi đùa:
- Ê Triết, mày thích ngủ giường nệm mousse (mút) hay thích ngủ sạp tre?
- Con gái Saigon viết cái gì khó hiểu vậy ông?
Triết hỏi lại tôi mà không trả lời.
Nhìn vào bì thư tôi thấy tên người nhận là:
"Cao Hiền Triết
Đại đội 3 - Tiểu đoàn 7 TQLC“
Tôi chợt hiểu và không ngờ người lính TQLC này có cái tên nghe quá hay và học thức như thế!
- Triết à, mày quê ở đâu?
- Năm Căn - Cà Mau, Thiếu úy ơi!
- Mày đi học ở đâu? Hết trung học chưa?
- Tui đi học trường ở dưới quận, chưa hết lớp Nhứt ông ơi!
Tôi nhìn vào mặt Binh I Triết, vẻ ngây thơ và nụ cười rụt rè của một người con trai vùng quê mới lớn, khoảng 20 tuổi đời. Lòng phân vân tôi nói với Triết:
- Tao có thể viết thư trả lời giùm cho mày, nhưng chỉ một hai lần thôi, sau đó mày có viết tiếp được không thì tùy mày. Nhưng tao đề nghị mày nên chọn một lá thư nào mà mày đọc và hiểu rõ ràng thì mới trả lời, thư nào thiệt dễ hiểu thì tốt nhất.
Cái tên Cao Hiền Triết làm cho các cô gái nghĩ ngay tới một người mẫu người nghiêm trang, học thức, lý tưởng cho các cô gái có học. Nhưng Triết thực tế ngoài đời không phải là đối tượng như vậy cho các cô sinh viên Văn Khoa và Luật Khoa đầy mơ mộng ở các giảng đường đại học Saigon.
Triết là một người trai trẻ học ít nhưng yêu quê hương, yêu đời, sinh ở miền tận cùng đất nước, vào lính theo tiếng gọi non sông và đóng quân ở tuyến đầu cực Bắc... Vài tuần lễ sau thư tới tay Triết thưa dần, gặp Triết tôi hỏi:
- Mày chọn được cô nào chưa Triết?
- Thôi ông thầy ơi, thư gì mà khó hiểu quá, mà tui cũng hổng đủ tiền mua tem nên không dám trả lời. Thằng Tân nó nhận thư nào cũng dễ đọc và dễ hiểu.
Cái tên thật bình thường và giản dị Nguyễn Văn Tân, đúng là cái tên dành cho các cô gái quê chất phác miền Nam và vùng 4 một niềm tin thành thật.

Một buổi sáng đang ngồi chơi với thằng Mẫn tôi thấy vài người lính rủ nhau đi bắt tôm, họ mang theo một nắm cơm, cột một hòn đá vào một bên của cái nón sắt, rồi thả xuống giếng nước. Mỗi lần kéo lên là lại được vài con tôm đỏ tươi, kéo cả tiếng đồng hồ thì cũng đủ để nấu một tô canh tập tàng (đủ các loại rau dại). Chuyện này làm tôi nhớ lại một kỷ niệm vui tôi được nghe trong lúc đơn vị còn trên đường tiến chiếm Cổ Thành. Khi những người lính đại đội chỉ huy đi hái rau lẫn lộn trong cỏ dại để nấu canh, mong có chút rau tươi thay vì chỉ ăn Ration C, nóng và bón. Người sĩ quan cố vấn Mỹ nhìn thấy và nói bập bẹ tiếng Việt: “Lính TQLC Việt Nam ăn cỏ”, nghe câu này tôi thấy thêm thương đời lính tác chiến xa nhà. Lúc đóng quân ở vị trí mới thì đi tìm nước uống, những người lính tìm thấy giếng thì múc nước uống, thấy có tôm trong giếng thì múc nước bắt tôm. Ngày hôm sau không có ai đi bắt tôm nữa, tò mò tôi hỏi thằng Chắn:
- Bộ hết tôm rồi hả Chắn?
- Không, tôm còn nhiều lắm, nhưng mà khi nước xuống thấp thì thấy nguyên một bộ xương người ngồi dưới đáy giếng. Không đứa nào dám bắt tôm nữa ông ơi!
Thế rồi họ quay sang đi bẻ măng. Những người lính đôi mươi, tuổi mới lớn đang khỏe ăn, lúc nào cũng mong có thêm một ít thức ăn tươi cho bữa cơm đạm bạc của họ. Mãi cho đến một hôm, một người lính trung đội 1 của huynh trưởng Nguyễn Văn Huyền đi bẻ măng bị thất lạc, hỏi thăm thì thằng Xương ở trung đội 1 cho biết:
- Thằng Hội đi hái măng từ 11 giờ sáng cho tới bữa cơm trưa cũng chưa về. Cả trung đội thay phiên đi tìm nó chung quanh mấy bụi tre trong khu đại đội đóng quân mà không thấy. Mãi đến 2 giờ chiều mới có người trông thấy anh ta ngồi kẹt trong một bụi tre gai, miệng la bài hãi kêu cứu. Mấy anh lính TQLC phải dùng dao đi rừng, phát cây, chặt tre để mở đường cho anh ta thoát ra. Ra đến bên ngoài thì thằng Hội xây xát cả mình mẩy.
Một người lính của trung đội 1 hỏi thằng Hội:
- Mày làm gì mà chui vô trong đó ngồi?
- Tao thấy măng trong bụi này, chui vô rồi bị kẹt cứng, loay hoay hoài không thấy đường ra nên kêu la cầu cứu. Thật không hiểu nổi tại sao!

Trên đường từ cánh B đi xuống cánh A phải băng qua một khu đồng trống, nơi tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã nhảy trực thăng vào Triệu Phong tháng 7 năm 1972. Chỗ chiếc trực thăng bị bắn nổ tung là một cái miếu với mấy chục cái nón sắt bị cháy sém, loang lổ...
Mỗi khi đi ngang qua đây, chúng tôi ghé vào đốt nhang khấn vái các chiến hữu đã hy sinh. Còn nếu đi một mình thì cắm đầu cắm cổ chạy cho lẹ qua khỏi chỗ này. Có lần trên đường về, nhìn thấy một anh lính ngồi bên vệ đường, tôi hỏi:
- Em làm gì ngồi đây, ở đại đội nào?
- Em ở đại đội 1. Em không dám đi một mình, chờ có ai đi chung cho đỡ sợ.
Nhớ lại câu chuyện mà một anh lính đại đội 3 kể lại. Một hôm trên đường đi về, gần đến cái miếu thì anh thấy có một người lính theo sau. Khi vừa qua khỏi cái miếu thì anh nghe có tiếng cười sau lưng, quay lại thì không thấy anh lính đi sau đâu nữa. Thế là anh vắt giò lên cổ chạy bạt mạng. Từ đó về sau, không bao giờ anh dám đi qua nơi này mà không có 2 hay 3 người đi cùng.
Quay qua nhìn anh lính, tôi hơi cảm thấy lo vì không biết có phải các anh khuất mặt trêu đùa hay không? Nhìn bảng tên anh trên ngực, màu cam của tiểu đoàn 7, thế là có bạn đồng hành.
Trên đường đi anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện. Có lần đi qua ngôi miếu anh nghe có tiếng cười bên trong, có khi nghe cả tiếng người nói chuyện và cãi vã nhau nữa...

Tháng 5/1972 đại đội 1 và 3 chuyển về cánh A trên hướng sông Vĩnh Định và Hương lộ 555. Thời gian này trung đội 3 được tăng phái giữ an ninh vòng đai cho tiểu đoàn.
Tôi đến gặp huynh trưởng Ngô Kim Anh để nhận tuyến. Anh vừa được thuyên chuyển từ TĐ5 qua TĐ7 TQLC trước đó một tháng. Trong dịp tăng phái cho đại đội chỉ huy, tôi đã có dịp gặp anh và quen biết với hầu hết các sĩ quan trong ban ngành và đại đội chỉ huy. Hai tuần sau hết nhiệm vụ, trung đội 3 lại trở về đại đội bên bờ sông Vĩnh Định.
Mỗi đêm tôi thường đi kiểm soát tuyến đóng quân và các vọng gác của trung đội 3 một lần khoảng giữa khuya và một lần khoảng gần sáng. Trung đội có vài con chó được giao cho vài anh lính nuôi để gác đêm. Có lần tôi thấy con chó của Hạ sĩ I Phấn, tiểu đội 3 được cột ngay trước cửa hầm của anh. Tôi hỏi anh lính gác gần đó:
- Tại sao không để chó nằm ngoài vọng gác?
Anh trả lời:
- Tối nào anh Phấn cũng thấy hai người đàn bà, một người đang mang thai dẫn theo một đứa bé vào thăm anh, làm cho anh sợ hãi không ngủ được, mặt mày xanh lè xanh lét. Nếu cột con chó trước cửa, nó sủa, họ sợ không dám vào thì anh mới chợp mắt được; còn không thì anh phải thức làm việc cả đêm.
Cũng tại tuyến đóng quân này, Binh I Lên - Hiệu thính viên, đã từng gặp ma một đêm khuya, làm cho tôi phải dời chỗ ở qua nhà khác.
Thời gian đóng quân ở sông Vĩnh Định là thời gian tương đối nhàn nhã, rảnh rỗi. Ngoài các công việc thường xuyên hàng ngày, thời giờ còn lại tôi và anh Huyền thường đàn hát, đôi khi các trung đội trưởng ngồi chơi đố chữ. Cũng trong thời gian này, tôi có dịp ghé thăm các đại đội khác và quen biết các sĩ quan đại đội 1, 2 và 4.
Cứ mỗi lần tiếp tế tôi lại ghé huynh trưởng Tăng Bá Phụng để mượn một vài quyển sách anh đã đọc xong.

Thời gian này tôi bắt đầu tìm hiểu thêm về cuộc đời của Binh II Nguyễn Văn Quang.
Một hôm tôi gọi Quang đến để hỏi thăm về hoàn cảnh của em.
- Lúc trước mày ở đâu bên Pháp?
- Em ở phía Nam của thủ đô Paris.
- Tại sao mày lại về Việt Nam đi lính?
- Hè năm 72 sau khi tốt nghiệp Trung học, ba má cho em về Việt Nam thăm bà ngoại.
- Bà ngoại mày ở đâu?
- Dạ, ở Cần Thơ.
- Rồi tại sao hết hè mày không về Pháp mà lại ở đây?
- Em không biết, không nghe ba má nói gì hết.
- Mày làm gì ở nhà bà ngoại?
- Không có làm gì, chỉ đi chơi, đói thì về nhà ăn, rồi ngủ.
- Tại sao mày lại đi lính TQLC?
- Một hôm em đi theo tụi bạn cùng xóm lên chợ, tụi nó tình nguyện đăng lính. Một anh lính trong ban tuyển mộ hỏi em, "Ê, còn mày đi không? Tao có giấy tờ cho mày nè!". Rồi anh làm hết thủ tục giấy tờ cho em.

Sau vài ngày chờ đợi ở trung tâm 4 tuyển mộ và nhập ngũ, Quang và các bạn được đưa về trung tâm huấn luyện TQLC ở rừng Cấm. Thế rồi tiếp theo 9 tuần căn bản quân sự, một khóa học đổ bộ và leo lưới, em đã trở thành một chiến binh TQLC tên Nguyễn Văn Quang. (Tôi không còn nhớ tên Pháp của em).
Quang sống vô tư, không biết lo lắng, chưa ý thức được hiểm nguy, nên khi gác em thường ngủ gật, hoặc mang theo ghế ngồi gác, dựa vào tương vôi, hút thuốc tỉnh bơ. Tôi phạt Quang và giải thích cho em rất nhiều lần về nhiệm vụ gác giặc, ngày và đêm phải luôn luôn thức tỉnh, kín đáo phát giác kịp thời các hoạt động của địch để bảo vệ sinh mạng của mình và đồng đội.
Một hôm tôi hỏi Quang:
- Mày có thường coi cinéma không?
- Dạ có.
- Có biết tài tử Alain Delon không?
- Dạ, ở Pháp Alain Delon nổi tiếng như Hùng Cường ở đây vậy.
Quang là một người con lai, cha Pháp mẹ Việt. Tôi cố gắng tìm hiểu kỹ càng thì được biết về cuộc đời em như sau:

"Cha em là một người lính viễn chinh Pháp tại Việt Nam, yêu thương mẹ em là một cô gái Việt nhưng bên nội ở Pháp không đồng ý. Hai người muốn đặt bên nội trước tình thế đã rồi nên xin một đứa con nuôi lai Pháp của một người bạn gái mẹ em đem về Pháp vào khoảng 1956 khi lực lượng viễn chinh Pháp cuối cùng rút về nước. Đứa bé nuôi đó chính là em bây giờ".

- Ở Paris mày có chú thím, cô bác gì không?
- Chỉ có Grand père et Grande mère.
- Ông bà nội có thương mày không?
- Thương lắm nhưng bây giờ chết rồi.
- Mày có em không?
- Dạ có hai em gái. Hồi chưa có thêm em gái thì ba má thương, sau đó rồi thì ba má không thương nữa.
- Có viết thư cho ba má mày không?
- Không.
- Cậu mợ dì dượng mày ở đây có liên lạc với má mày ở bên Pháp không?
- Có, nhưng không thấy nói gì hết. Có lần họ nói em là con hoang, muốn đi đâu thì đi.
Tôi giật mình vì câu nói của em, không thể tin được ở tai mình. Thật tội cho em, nếu em ở lại Việt Nam thì đáng thương cho một kiếp người.
Khi tiểu đoàn ra dưỡng quân tại làng TQLC trước khi về Saigon, tôi gọi em đến và bảo:
- Để dành tiền lương tháng này và tháng tới, chỉ xài chút đỉnh khi nào cần thiết mà thôi.
Lấy một tờ giấy, tôi vẽ cho em một bản đồ nhỏ và ghi rõ chú thích: Từ bến xe Phú Lâm gọi taxi hoặc xích lô đi đến ngã tư Hồng Thập Tự và Hai Bà Trưng, vừa qua khỏi ngã tư bên tay phải là tòa Tổng Lãnh Sự Pháp.

- Về nhà bà ngoại ở Cần Thơ, ráng tìm cho được các giấy tờ hồi mày ở Pháp, đi xe đò lên Phú Lâm, tới chỗ này, tôi chỉ tay vào bản đồ. Dù có giấy tờ hay không cũng không cần thiết, vào nói với họ mày xin về Pháp. Tên ba mày, địa chỉ ở Pháp, giọng nói và hình dáng mày thì người ta sẽ cho mày về. Ở đây không phải là chỗ thích hợp cho mày đâu.

Cuối tháng 7 năm 73 tiểu đoàn về hậu cứ. Đầu tháng 9 năm 73 tiểu đoàn trở ra hành quân, và trong đoàn chiến binh TQLC trở lại Quảng Trị lần này vắng mặt Binh II Nguyễn Văn Quang.

"Chúc em được nhiều may mắn nơi quê cha ở trời Tây!".

Suốt thời gian đóng quân ở Chợ Sãi, mỗi chiều sau khi công tác xong, chúng tôi thường xuống sông Thạch Hãn tắm và bơi. Một hôm trên đường về, đi ngang qua một ngôi nhà, tôi gặp ba cô cháu đang ngồi ăn cơm chiều nơi góc một căn nhà đổ nát.
Bước về phía họ tôi mở miệng:
- Mạ với mệ ăn gì đó, cho con ăn với?
- Ăn cơm eeng ơi!
Tôi ngồi xuống đất thì bà cô trẻ nhất bới cho tôi một bát cơm. Nhìn vào cái mâm đồng hoen rỉ trước mặt ba cô cháu thì chỉ thấy một chén muối ớt.
- Cám ơn mạ!
Đón lấy đôi đũa và bát cơm, tôi gắp một lát sắn bỏ vào miệng nhai, cảm thấy bùi bùi. Gắp lát thứ nhì và nhai kỹ hơn, tôi cảm thấy vị đăng đắng và mùi ẩm mốc xông lên. Nhìn kỹ vào bát cơm độn tím ngắt, tôi có thể nhìn thấy rõ những vết mốc trên những lát sắn phơi không đủ khô, hoặc còn ẩm ướt khi dự trữ.
Bước đến chỗ một người lính đóng quân gần đó, tôi xin anh một bao gạo sấy và đi về phía căn nhà đổ nát bên cạnh, trút bát cơm độn vào một hố trống cạnh nhà, dùng chân đùa vội những mảnh gạch vụn quanh đó để khỏa lấp bát cơm mốc. Tôi quay trở lại để trả bát đũa cho bà cô trẻ và tặng bà một bao gạo sấy.
Lòng xót xa nghĩ về ba cô cháu đã phải chịu đựng đạn bom trong suốt cuộc chiến tranh ập xuống Quảng Trị trong những năm vừa qua. Bây giờ không còn người thân, không còn nhà cửa, đất đai và phương tiện sinh sống. Ba cô cháu sẽ phải nương tựa vào nhau cho đến hết cuộc đời.

Một hôm trên đường xuống sông tắm, tôi thấy bà cô trẻ ngồi khóc thút thít bên ngoài căn hầm.
Bước đến cạnh bà tôi mở miệng hỏi thăm:
- Làm gì mà khóc đó mạ?
Tiếng bà cô già bên trong vọng ra:
- Cái ngữ biếng nhác đó thì làm ăn gì eeng ơi!
À, thì ra cô bị O mắng.

Tháng 6 năm 72, đại đội 3 đóng quân ở sông Vĩnh Định, tôi có ghé lại khu Chợ Sãi nhưng chỉ còn gặp một bà cô trẻ và bà cô già. Hỏi thăm những người lính đóng quân gần đó thì được biết bà cô trẻ ít nói đã qua đời. Những người lính đã tiếp tay vùi nông thân xác bà ở một mảnh đất trống cạnh đó.
Nhìn gương mặt hốc hác của hai cô cháu còn sót lại với vẻ âm thâm chịu đựng, tôi không biết dùng chữ gì để diễn tả gương mặt hai bà lúc đó. Một nỗi ray rức dấy lên trong hồn tôi, "Ngày nào thì sẽ đến phiên hai người này, ai sẽ là kẻ đi trước....?"
Một ý nghĩ mâu thuẫn chợt đến trong đầu tôi, vừa mong cho họ sống lâu, vừa mong cho họ thoát nhanh ra khỏi cuộc đời đầy cay đắng này. Hình như không phải họ đang sống mà chỉ đang kéo dài cái chết...

Để chuẩn bị cho ngày Quân Lực, đại đội 3 được nhận một số lá cờ mới, chia đều cho các trung đội để cắm xung quanh vị trí đóng quân và gắn lên hàng rào ngăn cách giữa hai bên Nam Bắc.
Một người lính trong lúc bước tới hàng rào, xuyên qua một bãi cát đã đạp lộ ra một quả lựu đạn M-67 được gài từ trước, chốt lựu đạn đã được rút, còn thìa thì được dằn bên dưới một hòn đất khô. Vừa nhìn thấy, tôi bảo anh đứng yên tại chỗ và gọi các người lính khác trở lại giao thông hào. Tôi ra hiệu cho anh rút bàn chân không giẫm lên quả lựu đạn đưa về phía sau, kiếm một điểm tựa chắc chắn và từ từ rút bàn chân đang đạp trên quả lựu đạn lên. Nếu thìa quả lựu đạn bật thì a lê hấp nhảy xuống giao thông hào... Khi anh rút chân ra khỏi thì quả lựu đạn vẫn còn nằm yên tại chỗ... Hú vía!!!
Tôi chỉ thị cho các người lính cắm những lá cờ còn lại chung quanh vị trí đóng quân, không mạo hiểm nữa, và đóng một hàng cọc làm mốc đánh dấu cho các người lính khác khỏi đạp nhầm.
Một anh lính xin tôi cho gỡ quả lựu đạn.
- Thiếu úy, em biết cách gỡ trái lựu đạn đó.
- Tao cấm mày bước tới đó, nếu tao biết được thì mày coi chừng tao.
Tôi không muốn cho anh phiêu lưu, đem mạng sống của mình ra đùa giỡn với tử thần.

Mùa hè đến với những cơn gió Nam Lào khô khốc. Sông Thạch Hãn nước xuống thấp, có những đoạn ta có thể lội bộ từ bờ bên này sang bên kia mà không cần phải biết bơi. Giữa sông có những cồn cát mà chúng tôi có thể ra ngồi chơi. Trời nóng bức đến nỗi chúng tôi phải xuống sông tắm 2, 3 lần một ngày.
Những người lính TQLC suốt ngày trần trùng trục với mỗi một chiếc quần lính cắt ngắn, ai nấy đều mồ hôi vã ra như tắm. Mặc quân phục vào chừng mươi, mười lăm phút là ướt đẫm mồ hôi.
Các sĩ quan chúng tôi ai cũng mong đến ngày tiếp tế để ghé huynh trưởng Tăng Bá Phụng, uống ké cà phê đá do hậu trạm mang ra.

Trung đội 4 có cây đàn guitar, nên những buổi trưa nóng bức không nghỉ được, anh Huyền, Mẫn và tôi thường tụ họp lại để ca hát khuây khỏa. Ngoài ra trung đội 1 lại có thêm cây lục huyền cầm, thế là khi thì cải lương, khi thì tân nhạc, khi thì tân cổ giao duyên cũng nguôi bớt đi nỗi sầu chinh chiến.
Ca mãi đâm chán, vài anh lính tinh nghịch thường đến bên hàng rào, nói chuyện và chòng ghẹo các anh lính miền Bắc.
- Anh bộ đội Bắc Việt ơi!
Không ai trả lời.
- Anh Việt Cộng ơi!
Cũng không ai trả lời.
- Anh Giải Phóng ơi!
Thì có tiếng đáp ngay.
- Gì thế các anh?
Những anh bộ đội miền Bắc nói chuyện rập khuôn, hình như họ phải học thuộc lòng một số câu căn bản để nói chuyện mà thôi. Nếu nói hết những câu này rồi thì họ thường cáo lui xin hẹn ngày mai, rồi ngày mai cũng lại toàn bổn cũ soạn lại.
Những người lính miền Nam thường hỏi:
- Anh ở đâu ngoài Bắc thế, Hà Nội à?
- Không, tôi ở Quảng Trị.
- Còn anh này cũng ở Quảng Trị.
- Vâng, tôi cũng ở Quảng Trị.
Thế là các người lính miền Nam bắt đầu chọc ghẹo.
- Anh là người Quảng Trị mà sao nói giọng như "Bắc kỳ ăn cá rô cây" vậy?
- Các anh hay trêu đùa quá!
- Thiệt mà, giọng anh đâu có giống mắm ruốc đâu, giọng anh là giọng rặt thuốc lào.
- Thôi, chúng tôi không nói chuyện nữa.
Những người lính miền Nam đề nghị ca hát thì hầu như các anh miền Bắc chỉ thuộc mỗi một bài “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây” mà thôi.
Nếu không muốn ca hát chung nữa, những người lính TQLC chỉ cần ca bài “Cờ bay trên Cổ Thành Quảng Trị” là các anh lính miền Bắc rút lui ngay.
Một hôm, một anh lính TQLC hỏi một anh lính miền Bắc:
- Tôi thấy cái hàng chữ trên cổng của các anh là "Không Có Gì Quý Hơn Độc Lập, Tự Do".
- Đó là lời chủ tịch Hồ Chí Minh đấy!
Thế là anh lính TQLC đề nghị cắc cớ.
- Nè anh giải phóng, tôi đề nghị một trò chơi mới.
- Trò chơi gì đấy anh?
- Tui hô "Đả đảo Nguyễn Văn Thiệu", còn anh hô "Đả đảo Hồ Chí Minh".
Anh bộ đội miền Bắc im lặng không trả lời, anh ta lặng lẽ rút lui.
Anh lính TQLC nói vói theo.
- Tự do thì mình muốn nói gì thì nói, sao anh không dám hô "Đả đảo Hồ Chí Minh"?
Đôi khi các người lính TQLC trêu chọc bằng cách gọi các anh lính miền Bắc.
- Anh giải phóng ơi!
- Cái gì thế các anh?
Đợi các anh miền Bắc lên tiếng trả lời xong thì anh lính TQLC đáp ngay:
- Phỏng giái rồi anh giải phóng ơi!
- Các anh ăn nói gì linh tinh thế!

Giữa tháng 6/73 tiểu đoàn di chuyển về phía Tây của Quốc lộ 1, khu vực mà chúng tôi đã đóng quân vào khoảng tháng 4 năm 72 “Trường Phước” thay thế cho tiểu đoàn 2, và đầu tháng 7 năm 73 tiểu đoàn 7 ra làng TQLC chuẩn bị về hậu cứ.

Gần 2 năm rồi kể từ sau trận Hạ Lào, tiểu đoàn 7 đã phải lưu động ở miền địa đầu giới tuyến. Có một chuyện khó tin là đa số những chiến binh TQLC chẳng hề được biết hậu cứ của đơn vị ra sao. Ngôi nhà nghỉ dưỡng quân của đơn vị mà các người con chẳng hề được biết.

Khi rời khỏi trung tâm huấn luyện hoặc quân trường, chúng tôi được đưa thẳng đến đơn vị hành quân mà chẳng cần phải về hậu cứ, và rồi từ đó rong ruổi theo “Hành trình anh TQLC” hoặc “12 tháng anh đi”, mãi cho đến khi tiểu đoàn về hậu cứ.

Có nhiều anh em TQLC chúng tôi từ ngày đáo nhậm đến ngày rời đơn vị vẫn không hề biết được hậu cứ ở đâu, vì họ về trong những chiếc quan tài!!!

Tháng Giêng xuôi quân ra Huế
Cố đô hoang vu điêu tàn
Bãi học chiều em vắng bóng
Tóc thề đã quấn khăn tang
Tháng Hai về trấn ven đô
Chong mắt hỏa châu giữ cầu
Gió thoảng vào hơi rượu mạnh
Qua làn sương ánh đèn màu
Ba lô lên vai, đến miền Tây đô
Quê hương em xanh, xanh rợp bóng dừa
Đêm ngủ bìa rừng, thèm làn môi ấm
Ngọt trái sầu riêng, này lúc sang mùa
Bây giờ trời mây vào hạ
Mẹ em bận đi lễ chùa
Em nguyện cầu cho chiến sĩ
Trên đường sớm nắng chiều mưa
Tháng Năm theo vì sao biếc
Hoa phượng nở quanh sân trường
Ngày xưa những dòng lưu bút
Bây giờ phong thư gói quà
Tháng Sáu anh vẫn miệt mài
Hành quân chưa về thăm em
Đừng trách ve sầu mùa hạ
Xa thì xa vẫn chưa quên
Sang thu mưa Ngâu
Nước mù giăng mau
Ô hay! Ta sao trong lòng rưng sầu
Tráng sĩ xưa hề, vượt cầu sông ấy
Người đứng đầu sông, người cuối sông chờ
Bây giờ còn đâu huyền thoại
Hằng Nga của em bé thơ
Tất cả bầu trời thương nhớ
Ai làm tháng Tám cằn khô
Tháng Chín anh về Cửu Long
Vú sữa căng của mẹ hiền
Anh đi cho đồng tươi mát
Tặng em này chiến công vang
Về Cà Mau một phong thư gửi cho em
Lời gió thương mây, lời chim nhớ rừng (2)
Lời ta chờ nhau
Cuối năm mùa Đông đan áo
Cuối năm trời đã lạnh rồi
Thiên hạ thì may áo cưới
Ta thì hẹn tới năm sau
Hoa mai nở đầy, em đang đợi chờ
Mười hai tháng rồi, dài ước mơ say
Nhớ má cho hồng, nhớ môi cho ngọt
Anh về cùng em, vui đón mùa Xuân
Anh về cùng em, vui đón giao thừa...

Nhưng anh em chúng tôi không hề được về đón giao thừa. Ngồi hát bài nhạc mà trong lòng rộn ràng với niềm vui khi tiểu đoàn về hậu cứ.
Anh Xê, trung đội phó hỏi tôi:
- Ông hát bài “12 tháng anh đi” mà tiểu đoàn mình đi tới 2 năm rồi mà vẫn chưa về.
- Tại ông thi sĩ nhà mình làm bài thơ “12 tháng anh đi” chứ đâu phải là “12 tháng anh về”.
- Ờ há! Nói đi chứ đâu có nói về.

Đời người lính TQLC chúng tôi cứ tuần tự 12 tháng anh đi, rồi lại 12 tháng anh đi tiếp theo...
Thật thẹn cho thân nam nhi, đường đường trượng phu mà khi đi phép chỉ có vài lý do quanh quẩn, hoặc là "cha mẹ đau nặng" hay "cha mẹ mất". Người nào có gia đình thì có thêm phép "con đau" hoặc "vợ đẻ".
Phép kiểu này thì hết ai ham.

Cuối tháng 7 năm 73, tiểu đoàn 7 về hậu cứ. Trong số gần 800 chiến binh về đến nhà của đơn vị, chỉ có khoảng chưa được 1/4 là đã từng ở hậu cứ của tiểu đoàn.
Cả đại đội 3 lọt thỏm trong chiếc C-130 của Không Quân Việt Nam. Thời gian bay chỉ khoảng dưới 2 tiếng đồng hồ, mà sao chúng tôi cảm thấy quá dài so với khi ra trận hành quân.
Lúc máy bay cất cánh là lúc tất cả những hình ảnh quá khứ bắt đầu chạy qua trí nhớ. Từ lúc còn thơ ấu đến khi trưởng thành, gia nhập quân đội, lao vào biển lửa...

Quay nhìn xung quanh, những người lính đại đội 3 trẻ tuổi, hồn nhiên nói cười, chờ đợi. Khoảng nửa tiếng sau bắt đầu có tiếng ngáy. Nhìn về phía anh lính trẻ đang ngủ ngon, trên gương mặt vô tư thoáng hiện một nụ cười.
Có lẽ anh đã về đến nhà trong giấc mơ ngắn ngủi tuyệt đẹp, trong lòng chiếc phi cơ đang trực chỉ Sài Thành yêu dấu.

“Saigon đẹp lắm, Saigon ơi, Saigon ơi!”

Tôi dựa đầu trên ba-lô, thả hồn mình phiêu lãng.
TRƯỜNG PHƯỚC - LA VANG - NHƯ LỆ

Thánh địa La Vang với cây đa và đoạn đường thánh giá diễn tả ngày Chúa Giê-Su chịu khổ nạn, đã có một thời hưng thịnh, vì đã từng là một địa điểm hành hương của các tín đồ Thiên Chúa Giáo từ cuối thập niên 50's đến đầu thập niên 70's, giờ đây chỉ còn là một di tích hoang tàn, khiến người ghé qua không tránh khỏi bùi ngùi, cảm xúc...


Giữa tháng 6/73 từ Triệu Phong, Chợ Sãi và sông Vĩnh Định, đơn vị tôi được di chuyển đến trung tâm huấn luyện Đống Đa để được (hấp) theo một khóa học bổ túc khoảng 2 tuần lễ, cùng lúc với đơn vị bạn là TĐ 11 Nhảy Dù.
Trở lại quân trường là điều mà các người lính không ưa thích mấy, nhưng lại là một điều hữu ích cho các đơn vị. Chúng tôi được học ôn lại những căn bản trong kỹ thuật tác chiến, được thực tập nhị thức hành quân Thiết giáp Bộ binh, thực tập xin Không yểm, Pháo yểm và Hải yểm.
Thời gian này thật cần thiết để các sĩ quan trong đơn vị quen biết nhau qua các bài học tham mưu, tâm lý chiến và tình báo.
Ngày mãn khóa chúng tôi có một cuộc hành quân gần như thật, đó là cuộc hành quân tùng thiết với chiến xa, pháo binh và phản lực cơ yểm trợ, sử dụng toàn bom và đạn thật...

Sau khi rời trung tâm huấn luyện Đống Đa, tiểu đoàn 7 di chuyển đến làng TQLC. Làng này nằm ở phía Tây Bắc cầu Bến Đá khoảng 2 cây số , trong khu vực thôn Diên Sanh, xã Hải Trường, trên lộ trình từ quốc lộ 1 đến núi Trường Phước.
Một tuần sau chúng tôi vào thay thế tuyến cho TĐ 2 trong khu vực Trường Phước.
Các trung đội đóng quân biệt lập, dọc theo lộ trình, trung đội này cách trung đội kia khoảng hơn 1 cây số. Trung đội 3 đóng trên một ngọn đồi ở phía Tây của đại đội cách khoảng 200 mét và trung đội 4 phòng thủ chu vi đại đội.

Chúng tôi phải tham dự một cuộc bầu cử bán phần Thượng Nghị Viện. Tôi nhớ mãi vì được nhiệm vụ phải nói khéo để các người lính bầu cho các liên danh thân chính.
Trong lúc tập họp để nhắc nhở trung đội 3 về 2 liên danh thân chính mà tôi được chỉ thị bầu phiếu cho, khi tôi đang cố lựa lời nói khéo cho các liên danh này thì Trung sĩ Dần - Tiểu đội trưởng tiểu đội 1 lên tiếng:
- Thưa Thiếu úy, tôi có ý kiến.
- Vâng, anh Dần cho biết ý kiến.
Trung sĩ Dần đứng dậy, quay nhìn các anh em trung đội 3 và nói:
- Theo Thiếu úy thì anh em nên bầu cho 2 liên danh này, còn liên danh thứ 3 thì tùy ý anh em, anh em đồng ý không?
Tất cả các người lính thuộc trung đội 3 trả lời:
- Đồng ý!
Thế là chẳng còn gì để nói thêm nữa, tôi cho anh em tan hàng. Sau đó huynh trưởng Nguyễn Lai hỏi tôi:
- Ông nói chuyện gì mà nhanh quá vậy Minh?
- Anh em đồng ý với những gì tôi đề nghị rồi huynh trưởng, làm sớm nghỉ sớm mà.

Một buổi đang nằm hút thuốc sau bữa cơm chiều, Binh I Tân - Hiệu thính viên trung đội 3 mà tôi vừa chọn khi tiểu đoàn hấp ở trung tâm huấn luyện Đống Đa, đến gặp tôi với một bức thư trên tay nhờ tôi trả lời giùm.

Lá thơ bắt đầu;

"Ông Tân!
Đọc thư ông tôi liên tưởng đến một gương mặt thật vô duyên, với nụ cười để lộ Ra hai hàm răng mất trật tự..."

Tôi ngó vào mặt Tân và hỏi:
- Mày trả lời thư cô at mấy lần rồi?
- Chỉ có một lần thôi Thiếu úy.
- Có phải mày gọi cô ấy là "Bà" không?
- Ông thấy đó Thiếu úy, trong thư bà ấy gọi tôi bằng Ông.
- Mày đúng thiệt là vô duyên, chẳng lẽ người con gái viết thư cho người con trai chưa quen lần đầu tiên mà lại gọi là "Anh" ngọt xớt à!
Nhìn vào bì thư tôi thấy địa chỉ cô ở quận 3 - Saigon. Tên cô là Hạ Vũ, có lẽ đó là bút hiệu thì đúng hơn.
Tôi viết thảo cho Tân một bức thư.

"Hạ Vũ!
Nhận được thư Hạ Vũ tôi rất vui, càng đọc càng có cảm tình với Hạ Vũ vì Hạ Vũ là một người thành thật. Những ước mơ của Hạ Vũ là những ước mơ của tuổi mới lớn, là những điều mà tôi đã trải qua nhiều năm trước khi còn ngồi trên ghế nhà trường...
Trước khi dừng bút, tôi xin vui vẻ nhận Hạ Vũ là cô em gái hậu phương. Hy vọng rằng trong một ngày rất gần đây sẽ có dịp gặp em tại Saigon để hàn huyên, tâm sự và được chiều chuộng cô em nhí nhảnh, dễ thương.
Chúc em một giấc ngủ thật ngon với nhiều mộng đẹp.
Anh
Nguyễn Văn Tân"

Hai kỳ tiếp tế (10 ngày sau) thư hồi âm từ cô bé Hạ Vũ được bắt đầu bằng hai chữ “Anh Tân”, và sau đó họ hẹn gặp nhau đi dạo phố Saigon khi tiểu đoàn về hậu cứ.

Đầu tháng 7, thằng Tuấn - Trung đội trưởng trung đội 2 đi phép, tôi phải lên thay thế nó vì trung đội 2 nằm xa nhất trên tuyến đường, mất 30 phút đi bộ từ đại đội đến trung đội 2. Thời gian này Bửu trở lại đại đội sau khi diễn hành ngày Quân Lực 19/6 để chờ đợi được chuyển qua đại đội 1.

Mùa hè, những đồi sim thấp trong khu Trường Phước đầy những hoa sim tím, những quả sim ăn vào tím cả lưỡi và ngọt lịm. Vừa đi vừa hái sim dọc đường, vừa ca bài hát "Những Đồi Hoa Sim" của Dzũng Chinh mà quên cả đường dài.

Từ trung đội 2 theo con đường đi tiếp thì sẽ tới một dòng suối mà chúng tôi tắm giặt và lấy nước nấu ăn. Một hôm các anh lính cho biết có gặp các anh bộ đội miền Bắc xuống lấy nước, nhưng vì đang trong thời kỳ ngưng chiến nên cả hai bên chỉ nhìn nhau. Những lần sau khi xuống suối họ đi hai người, một người mang theo súng. Tôi quyết định cho trung đội đi lấy nước ở một điểm khác, chỉ thị các người lính kiểm soát kỹ lưỡng và gài lựu đạn đoạn đường này để đề phòng Bắc quân có thể vi phạm và xâm nhập tấn công.
Cuối tháng 7 TĐ về Saigon. Sau hơn 1 tháng trời dưỡng quân, đến đầu tháng 9 tiểu đoàn 7 TQLC trở lại hành quân. Trong lúc ở Saigon tôi rủ anh Huyền và Mẫn ghé thăm gia đình một người quen ở Thủ Đức. Bác là Giáo sư Pháp Văn tại trường Pétrus Ký đã về hưu, nghiên cứu tử vi và tướng pháp, có một người con trai là sĩ quan pháo binh TQLC đã hy sinh trong trận tái chiếm cổ thành.
Trong khi chờ chú em trai vào thông báo cho bác biết có chúng tôi đến thăm, thằng Mẫn tò mò mở một quyển tập để trên bàn ngồi đọc. Đúng ngay cái đoạn bàn về tướng số một người có hình dạng giống như nó "Người cao, chân dài, tay ngắn là tướng đoản mệnh...". Nó chỉ cho tôi đọc đoạn này, trên gương mặt nở một nụ cười buồn. Trang tiếp theo bàn về tướng của một người có gương mặt dài như anh Huyền, thằng Mẫn vừa đọc vừa cười nắc nẻ.

Không ngờ đó là những điềm ứng trước, cả hai đã hy sinh sau đó không lâu vì những tướng đoản mệnh.

Từ Saigon, chúng tôi ra hành quân và trở lại làng TQLC. Đầu tháng 10/73 tiểu đoàn 7 đến La Vang thay tuyến cho TĐ 8 TQLC. Bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng tại đồi dương, gần ngã ba Long Hưng, nơi đã là tuyến xuất phát của TQLC khi tái chiếm Quảng Trị và Cổ Thành năm trước.
Di chuyển một hàng dọc từ điểm đổ quân ở cánh B băng qua hai ngọn đồi thấp, vài dòng suối mùa, chúng tôi đến bờ một con suối khá rộng nhưng cạn nước. Bước trên những hòn đá mà các đơn vị trước đã đặt trên lòng suối theo từng bước đi để khỏi bị ướt giày, chúng tôi đặt chân đến ban chỉ huy đại đội.
Trung đội 4 của Hùng (thay thế cho Mẫn đi học khóa “rừng núi sình lầy” chưa về) nằm dọc theo bờ suối giữ an ninh và phòng thủ khu vực đại đội. Tiếp theo là trung đội 3 và trung đội 2 dàn tuyến đối mặt với Bắc quân.
Từ trung đội 2 băng qua một cái lạch nhỏ và một khoảng đầm lầy trên những cây cột nhà lót đường thì tới cái tiền đồn được phòng thủ chu vi của trung đội 1. Nhìn địa thế hiểm ác của cái tiền đồn này, ai cũng biết muốn giữ được chắc các đơn vị bạn trước kia đã phải tốn biết bao nhiêu xương máu. Trung đội phòng thủ một khu vực gần như là một vòng tròn, với đường chu vi khoảng chừng 100 mét.
Ngôi làng nơi đại đội đóng quân có tên là Như Lệ, cái tên nghe quá buồn. Những ngày mưa, đường trơn trợt, ướt át, trời bắt đầu trở lạnh nên chẳng ai muốn ra ngoài. Nằm nghe mưa rơi trên những tấm tôn thủng rả rích, từng giọt nước tí tách, rầu thúi ruột và nhớ nhà.

Ngày đặt chân đến Như Lệ quang cảnh cũng tương tự như Chợ Sãi - Triệu Phong. Các anh lính miền Bắc đứng bên hàng rào hỏi thăm và mời chúng tôi sang một cái chòi mà họ gọi là "Nhà Hòa Hợp", cũng vẫn cái bảng treo trước cửa với hàng chữ "Không có gì... cả".

Anh Lai, anh Huyền và tôi bước vào căn nhà. Sau khi chào và hỏi thăm nhau, chúng tôi cả hai bên cùng ngồi vào bàn và nói chuyện xã giao. Có một điều không biết là tiện hay bất tiện, tốt hay không tốt vì những phù hiệu trên áo đã cho họ biết chúng tôi thuộc tiểu đoàn nào rồi, mặc dù chúng tôi đã mặc áo của các người lính không có cấp bậc. Riêng các anh lính Bắc quân thì không thấy được gì trên quân phục của họ.
Họ mời chúng tôi nước trà, thuốc lá. Thuốc lá hiệu Tam Đảo, Điện Biên nội địa và Hoa Hồng của Trung Quốc.
Anh Lai đốt một điếu thuốc, kéo một hơi dài, tủm tỉm cười lên tiếng:
- Thơm mùi nhang quá!
Chúng tôi cười trong khi các anh bộ đội miền Bắc không hiểu gì cả.
Nói chuyện vớ vẩn, bâng quơ vì chẳng có gì để nói lâu, chúng tôi kiếu từ ra về thì các anh bộ đội miền Bắc lại theo phép lịch sự "như người Hà Nội" giữ khách và mời khéo:
- Các anh về chóng thế, khi nào rỗi mời các anh lại sang chơi nhé.

Từ tháng Mười kéo dài qua Tết là mùa mưa dầm, mưa lê thê. Mưa kiểu này mà nằm nhai gạo sấy rang (thay cốm) tẩm nước đường thì hết nói. Trời mưa chẳng có gì làm thì lại quanh quẩn Domino, cờ tướng và mong đến kỳ lãnh lương.
Ngày phát lương là ngày chúng tôi tha hồ ăn uống. Ban quân lương đến cánh B phát lương cho các đại đội và có câu lạc bộ đến bán mì gói, thuốc lá, bia và các nhu yếu phẩm cho lính.

Từ cánh B đi về phía Nam một đoạn đường ngắn 10 phút là tới khu nhà thờ La Vang. Vào cuối thập niên 50's đến đầu thập niên 70's, nơi đây đã từng là một vùng thịnh trị, rất nhiều tín đồ đạo Thiên Chúa từ khắp miền Nam đến hành hương.
Tôi còn nhớ những năm cuối thập niên 50's, vé số Tombola được bán khắp nơi giá 2 đồng bạc thời đó để lấy tiền xây dựng khu thánh địa La Vang, và đường xe hỏa đồng thời được phát triển để phục vụ khách đến thăm vùng này.

Trước mặt nhà thờ là một đoạn đường được gọi tên là “đoạn đường Thánh Giá”, hai bên đường là những bức tượng diễn tả Chúa Giê-Su trong ngày chịu tội, đã gãy đổ tan nát không còn nguyên vẹn. Cây đa đúc bằng bê tông cốt sắt, nghe nói là được xây ngay tại chỗ cây đa thật trước kia, nơi người ta tin rằng mẹ Maria đã hiện lên, nay chỉ còn trụi lủi thân cây mà thôi. Các cành được đúc bằng bê tông cốt sắt đã gãy gục nát tan vì bom đạn. Tượng đức mẹ Maria cũng chẳng còn nguyên vẹn, “Ôi! Sức tàn phá và hủy diệt của con người thật là ghê gớm!".
Ngôi thánh đường to lớn bị hủy hoại khắp cả bốn phía. Phần bên phải của tòa giảng hoàn toàn sụp đổ từ nóc nhà thờ xuống tới mặt đất. Các ngôi nhà của tu sĩ và giáo dân giúp việc hoàn toàn bị san bằng. Những hàng cây khuynh diệp trồng quanh khu vực nhà thờ chẳng cây nào không mang thẹo thọ vì đạn bom.
Các bạn và tôi đã thay phiên nhau chụp một số hình ảnh ở khu vực này, rất tiếc là sau ngày miền Nam sụp đổ, gia đình tôi đã không còn giữ lại được tấm ảnh nào.

Tôi hình dung ra quang cảnh tấp nập trong những ngày lễ tôn giáo trước đây, hàng ngàn người đến hành hương và tham dự các khóa lễ. Bây giờ nơi đây hoàn toàn giá lạnh, hoang vắng, không có bóng dáng một tín đồ nào. Nhìn qua Cường đang làm dấu “Amen” mà không tránh khỏi những bùi ngùi, cảm xúc.

Chúng tôi rời khu thánh địa La Vang, thấy thấm thía nỗi thảm thương cơ cực của người dân Quảng Trị. Đến bao giờ và phải hao tốn bao nhiêu máu xương, của cải để xây dựng lại những nơi này?

Đầu tháng 11, đại đội tiếp nhận thêm các người lính mới bổ sung cho đơn vị, một số cựu tù binh, quân phạm, và một sĩ quan - Phước mập, đi bay với thằng Tuấn. Trung đội 3 nhận thêm các người lính mới, trong đó có Trung sĩ I Nhẫn - cựu tù binh, Hạ sĩ I Hào - Quân phạm v.v..

Tháng 12/73 sư đoàn tổ chức các khóa học bổ túc trung đội trưởng cho các sĩ quan. Tôi được chỉ định đi học đợt đầu tiên với 3 người bạn khác là Hòa ở đại đội 1, Toàn ở đại đội 2 và Thành ở đại đội 4. Chúng tôi được đưa đến Bộ chỉ huy lữ đoàn 258 đóng tại Hội Yên để tham dự khóa học cùng với các sĩ quan trung đội trưởng ở 8 tiểu đoàn bạn. Khóa học kéo dài trong 2 tuần, thành phần huấn luyện viên là các chiến sĩ tài ba ưu tú từ các tiểu đoàn TQLC và các đơn vị yểm trợ như Pháo Binh, Công Binh, Thiết Giáp, Không Quân và Hải Quân...

Đại tá Ngô Văn Định - Lữ đoàn trưởng lữ đoàn 258 khai mạc khóa học trong một nghi lễ đơn sơ nhưng đầy thân tình. Ông mong mỏi khóa học này sẽ giúp chúng tôi những điều cần thiết tối thiểu để khi trở lại đơn vị; với các kinh nghiệm thực tiễn quý báu từ các đàn anh, chúng tôi sẽ áp dụng các sáng kiến thích nghi để tiết kiệm xương máu đồng đội, phát huy khả năng của đơn vị và hoàn thành nhiệm vụ được giao phó tốt đẹp.
Chúng tôi lại được nghe thuyết trình về các trận đánh tiêu biểu của đơn vị TQLC, về thế công, thế thủ, cách thức điều binh từ chính các sĩ quan chỉ huy tham dự trực tiếp các trận đánh đó như Thiếu tá Nguyễn Văn Sử, Trung úy Kiên Pek v.v..
Được sự đóng góp thêm của Đại tá Ngô Văn Định, Trung tá Đỗ Hữu Tùng, được trình bày các kinh nghiệm bản thân của mình để lớp học bàn thảo, đưa ra các phương thức để giải quyết trong các tình huống xấu. Chúng tôi đã được học biết bao nhiêu kinh nghiệm hay và quý báu để áp dụng sau đó trong đời lính...

Ngoài ra chúng tôi cũng được học thêm về công binh, pháo binh, thiết giáp và chống thiết giáp, liên lạc xin không yểm, hải yểm v.v.. Thời gian quá ngắn cho một khóa học nhưng đã đem lại cho chúng tôi nhiều kinh nghiệm hữu ích không ngờ. Nếu không được tham dự các khóa học bổ túc như thế này, có lẽ việc điều quân phản ứng của chúng tôi sẽ kém nhạy bén. Chúng tôi học được cách nhìn sự việc dưới những góc cạnh, lý lẽ khác nhau. Học được cách ước định tình huống trước khi nó xảy ra, điều này làm cho chúng tôi tăng thêm sự tự tin vào khả năng của đơn vị khi được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ.

Cuối tuần lễ đầu vào ngày Chủ Nhật, một số các sĩ quan chúng tôi đi thăm khu nhà thờ hai nóc Thanh Hương - Điền Môn, nơi mà tôi sẽ trở lại sau này trong cuộc lui binh cuối cùng.

Chấm dứt tuần thứ nhì là lễ mãn khóa dưới sự chủ tọa của Thiếu tướng Bùi Thế Lân - Tư lệnh sư đoàn TQLC. Ông nhắc nhở chúng tôi hãy ứng dụng các điều đã học một cách thích hợp để phát triển khả năng sẵn có của đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ được giao phó.
Xe của tiểu đoàn đã chờ sẵn và đón chúng tôi trở lại đơn vị.

Tết năm đó đại đội thật vui, nhất là trung đội 3 với sự có mặt của các chị, vợ anh Xê - Trung đội phó, vợ anh Hào - tiểu đội đại liên. Chúng tôi có một cái tết thịnh soạn với các món ăn thượng hảo hạng từ những bàn tay khéo léo của các chị như Vịt tiềm thuốc Bắc của chị Hào, các món bánh lá, bánh đập... và nồi bún bò cay tóe khói của chị Xê, gốc người Huế, vừa ăn vừa hít hà, nước mắt nước mũi, mồ hôi chảy ra nhễ nhại vì cái gì ăn vô cũng cay, cũng nóng.
Ngày đầu năm chúng tôi xông đất các anh Bắc quân ở nhà "Hòa Hợp". Chúng tôi chúc Tết nhau. Họ mời chúng tôi thuốc lá, hạt dưa, và các loại kẹo bột, kẹo đậu phộng... (không ngờ rằng nhiều năm sau đó, mỗi lần Tết đến chúng tôi lại ngồi mong chờ những thứ này trong tù.)
Chúng tôi mời các anh ấy các thứ mứt, kẹo, bánh trái của miền Nam. Họ cứ xuýt xoa mãi.
- Hàng ngoại đấy à các anh.
Thoạt đầu tôi không hiểu ý các anh ấy, sau mới biết họ tưởng là đồ nhập cảng. Những cái kẹo mứt mãng cầu gói trong các loại giấy bóng kiếng đủ màu, hoặc những miếng mứt thập cẩm quá đẹp làm họ ngạc nhiên. Nhưng họ chỉ dám thử một cái. Không biết vì thấy đẹp không dám ăn uổng quá hay vì sợ có thuốc độc bên trong ?
- Do các chị vợ của anh em chúng tôi làm đó.
- Đẹp thế nhỉ!
- Khéo thế nhỉ!
Nghe những lời khen chân thành, mộc mạc của các anh lính Bắc quân lúc đó, tôi không nghĩ là họ khen thật, cho đến khi vào tù vì thua cuộc chiến tôi mới biết rõ ràng là họ thành thật. Các người tù cải tạo thường bông đùa, chọc ghẹo họ luôn bằng cách khen nhưng thật tình là chửi xéo.

Rồi những ngày Tết cũng trôi qua, các thân nhân của những người lính cũng lần lượt ra về hết, và sinh hoạt của đơn vị cũng trở lại bình thường.
Sau ngày Tết trung đội 3 thay thế trung đội 1 ở vị trí tiền đồn. Bàn giao với anh Huyền xong, tôi đi xem lại vị trí đóng quân và cho vét lại giao thông hào ở các đoạn bị sụp lở vì nước mưa.

Trung đội 3 phòng thủ chu vi trong một hình gần như tròn với đường kính khoảng hơn 30 mét. Hướng Tây và Tây Nam giáp mặt Bắc quân, hướng Đông của tiền đồn là một dòng suối chảy về phía đại đội, hướng Bắc là một con lạch nhỏ nối tiếp với một bãi lầy. Tiền đồn được nối liền với đại đội bằng một chiếc cầu khỉ bắc qua con lạch và những thân cây, gỗ tạp được dùng để lót qua bãi lầy. Vị trí tiền đồn này rất nguy hiểm vì gần như là "bốn bề thọ địch".

Đặc công cộng sản có lối đánh là bò theo các đường mòn và các khe xâm nhập mà cái tiền đồn này hai mặt giáp địch, còn hai mặt kia lại là suối, lạch và đất thấp lầy lội.
Ngay sau khi bàn giao tuyến, tôi đã chỉ thị cho các tiểu đội vét lại giao thông hào và sửa chữa khu vực phòng thủ.
Các anh Bắc quân kêu réo ầm ĩ lên:
- Này các anh làm gì thế, đào gì thế?
- Mưa lở đất, chúng tôi đắp lại thôi.
- Các anh làm thế là vi phạm đấy.
- Chúng tôi chẳng làm gì mà vi phạm.
Vừa làm vừa cãi nhau, rồi thì chúng tôi cũng sửa xong lại tuyến phòng thủ chiều hôm đó.
Hạ sĩ Tâm, trước kia là Hiệu thính viên truyền tin, sau ra tiểu đội của Trung sĩ Phấn, trong lúc vét lại giao thông hào, thấy lộ ra một bộ xương người lính Bắc quân và trang phục còn sót lại. Anh tinh nghịch đặt chiếc xương sọ lên trên bờ giao thông hào và đôi dép râu gác lên trên đầu chiếc xương sọ, miệng thì nói "Sinh Bắc Tử Nam". Các anh bộ đội miền Bắc la lên phản đối.
Nghe có chuyện, tôi bước đến nơi và nói với Tâm:
- Dẹp đi Tâm, người ta đã chết rồi, đừng làm vậy!
Sau đó tôi không biết Tân đã dấu cái xương sọ và đôi dép râu đi đâu.

Mờ tối hôm đó, khi tôi đang ngồi đọc sách ở dưới hầm thì nghe như có tiếng người chạy huỳnh huỵch bên ngoài. Tiếng Binh I Chánh - Hiệu thính viên, đứng ngay cửa hầm gọi tôi:
- Thiếu úy, Thằng Tâm có chuyện, nó bị ma đánh.
Leo lên khỏi hầm, tôi chạy đến chỗ tiểu đội của Trung sĩ Phấn thì thấy các người lính đang vây quanh Tâm ở một góc giao thông hào. Tân chúi đầu vào góc Tuyến không dám ngẩng lên.
- Anh Phấn, anh cho trói nó lại.
Người Tâm bê bết đất cát, đôi mắt lạc thần. Anh không dám chống cự khi hai người lính đến trói anh lại.
Tôi liên lạc báo cáo tình hình và xin giải giao Tâm vào đại đội vì sợ nó lên cơn nửa đêm thì nguy hiểm cho tính mạng nó. Hai anh lính giải giao Tâm vào đại đội trở về kể lại.

"Khi gặp Trung sĩ I Trần Ngâm thằng Tâm không dám nhìn mặt. Nó lấm la, lấm lét. Anh Ngâm dùng roi dâu quất lên người Tâm, nó la hét và lăn lộn trên mặt đất..."

Sáng sớm hôm sau Tâm được đưa về tiểu đoàn và sau đó được đưa ra quân y viện Nguyễn Tri Phương tại Huế để điều trị. Mấy tháng sau bình phục Tâm trở lại đơn vị thì tôi đã ra toán CAP ở Hải Trường.

Một buổi tối đang ngồi đọc sách dưới hầm, cảm thấy thèm một điếu thuốc, tôi bước ra khỏi hầm đi dạo một vòng, nói chuyện với các người lính, quên tắt ngọn đèn cầy đốt để đọc sách trong hầm.
Tiếng Binh I Chánh la thất thanh:
- Lửa cháy trong hầm Thiếu úy.
Tôi chạy trở lại thì thấy lửa cháy sáng trong hầm.
- Lấy nước dập tắt đi.
Các người lính chuyền nước vào dập tắt ngọn lửa. Tàn lửa cháy loang lổ cái ba-lô và làm hư hại các đồ đạc bên trong, may là chưa bắt qua phát nổ đạn và lựu đạn. Sức nóng của lửa làm hư hại cái máy chụp hình OLYMPUS PEN DEMI của tôi.
Tối hôm đó tôi ngủ lạnh để trả cái lỗi bất cẩn của mình. Sáng hôm sau phải giặt giũ tất cả quân trang, quân dụng còn xài được và vất đi các thứ đã bị cháy hư hại. Kiểm soát lại thì thấy thiệt hại khoảng 50%.

Hai ngày sau, một công điện bất ngờ từ tiểu đoàn chuyển đến. Tôi được chỉ thị ra thay thế Trung úy Lê Văn Minh thuộc đại đội 4 trong chức vụ trưởng toán CAP (huấn luyện) tiểu đoàn 7 TQLC ở xã Hải Trường.
Xếp tất cả các đồ đạc còn lại vào chiếc ba-lô cháy loang lổ của mình. Thằng Mẫn đang ngồi chơi với tôi lên tiếng:
- Lấy cái ba-lô của tao đi Minh, mày vác cái ba-lô này ra làng, họ tưởng mày "ăn xin" đó.
Tôi bật ra cười lớn, thầm nghĩ "Đúng là cái số ăn mày!". Chúng tôi trao đổi cho nhau một số đồ đạc, và sáng hôm sau "Ba-lô lên vai", tôi rời đại đội lên trình diện tiểu đoàn để đi nhận nhiệm vụ mới.

Đứng trên dốc khoảng lưng chừng đồi, nhìn xuống làng Như Lệ, nghe tiếng các dòng suối mùa đang chảy róc rách đâu đây. Khu vực đại đội 3 đóng quân nằm yên lặng dưới chân đồi, phía bên kia dòng suối. Đưa tầm mắt trải dài tới các trung đội bạn 1, 2, dừng lại nơi cái tiền đồn lẻ loi đơn độc của trung đội 3, nhớ lại các kỷ niệm tràn đầy sau hơn một năm tôi sống cùng đơn vị.

Một hình ảnh toàn cảnh hiện ra trước mắt làm tôi chợt thấy bâng khuâng. Trước kia ở góc độ này, nếu nhìn xuống làng Như Lệ là một hình ảnh thật thanh bình, với những dòng suối chảy róc rách, những ngôi nhà nhỏ xen kẽ trong một vùng đồi núi thấp chung quanh. Các thửa ruộng nhỏ xếp thành hình những bậc thang để nhận nước từ những suối nguồn.

Mỗi sáng Chủ Nhật tiếng chuông nhà thờ La Vang đánh thức người dân, và rồi từng đoàn người với các chiếc áo dài khăn đóng, những chiếc khăn mỏ quạ, cùng với các em nhỏ trai gái trong đồng phục đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể lũ lượt từ Như Lệ cũng như những ngôi làng khác quanh đây, vượt qua các ngọn đồi để kéo về thánh đường La Vang đã một thời hưng thịnh.

Hình ảnh đó không còn nữa. Giờ đây là các hầm hố, địa đạo, giao thông hào, chẳng còn một ngôi nhà nào còn sót lại trong làng Như Lệ.
Ôi! Sao tang thương dâu bể, vật đổi sao dời. Tôi quay lưng bước đi, lòng tự hỏi:

“Trong những năm tháng tới đây, quê hương tôi sẽ được nhìn thấy La Vang và các khu làng quanh đây hồi sinh, hay sẽ còn phải tiếp nhận thêm các tai ương trong một cuộc chiến đã hơn 20 năm giữa hai miền Nam Bắc, Quốc Cộng, giữa hai chính thể !?”
Chúng tôi cứ phải nghe, đôi khi phải tuyên truyền thêm về những sự tích anh hùng trong chiến tranh, cứ phải nhìn những cảnh máu đổ, thịt rơi. Trên báo chí cả hai miền Nam Bắc thì đua nhau ca ngợi các chiến thắng lẫy lừng!

"Vậy chứ ai là người thua cuộc khi cả hai bên đều thắng? Chắc là người dân nghèo nơi quê hương tôi, một cổ hai tròng..."

Tôi thở dài, lắc đầu, tiếp tục leo nốt ngọn đồi trước mặt. Xa xa về hướng Đông-Bắc là đồi dương, nơi bộ chỉ huy tiểu đoàn đóng quân, mường tượng tới những hình ảnh nơi tôi sẽ đến làm công tác dân sự vụ, một nỗi vui buồn lẫn lộn trong lòng.
Biết nói gì đây với những người dân, những người lính địa phương?
Tôi bật cười, đá văng một hòn sỏi nhỏ dưới chân, miệng nói khẽ:

"Có gì mà phải lo, mọi sự rồi sẽ ổn thỏa".
CUỐI MỘT CHẶNG ĐƯỜNG

Trong cuộc đời có những khúc quanh hay những chặng đường, lúc đó đời người thay đổi đi lên hoặc đi xuống. Cũng như tất cả những người dân miền Nam, người lính chúng tôi đã phải nổi trôi theo vận nước ở khúc quanh đen tối, đổi đời của toàn thể miền Nam sau sự sụp đổ của Quân Lực VNCH vì những sự điều động bất tài, ích kỷ, nhỏ nhen và không suy tính của những người lãnh đạo vô trách nhiệm.

Sáng ngày 18 tháng 3 năm 1975, như thường lệ tôi lên máy liên lạc với tiểu đoàn thì nhận được lệnh đưa toán CAP trở lại đơn vị.
- Đại Đức đây Mai Sơn.
- Mai Sơn đây Đại Đức.
- Mai Sơn tôi nghe Đại Đức.
- Mai Sơn tự lo liệu cho con cái về nhà bằng mọi phương tiện có thể được.
Thế là tình hình thật căng thẳng rồi. Tôi gọi cho trung đội nghĩa quân thuộc xã Đông Lương và thông báo cho họ biết chúng tôi sẽ chấm dứt liên lạc.
Tiếng người hiệu thính viên của trung đội nghĩa quân chúc tôi trước khi dứt máy.
- Một mùa xuân, chúc may mắn!

Khoảng 10 giờ sáng toán CAP còn lại 6 người, gọn gàng xuống quốc lộ 1 đón Xe đò lỡ từ Quảng Trị vào. Có một ít người dân Quảng Trị biết chuyện đã bắt đầu di tản. Không khí những ngày hôm nay có vẻ lạ lùng vì tin tức thất trận từ Phước Long tháng trước và Ban Mê Thuột tuần qua gây Ra những lo sợ, căng thẳng cho người dân trên toàn quốc. Sau vụ để tang Phước Long, vụ bỏ Tây Nguyên, rồi đến tướng Nguyễn Văn Hiếu chết một cách mờ ám là vụ Phong trào chống tham nhũng của Linh mục Trần Hữu Thanh... Toàn miền Nam xuống dốc một cách thê thảm.

Trưa hôm đó chúng tôi xuống Xe ở cầu Phò Trạch - Phong Điền, tôi hướng dẫn anh em vào trình diện đơn vị. Bước vào bộ chỉ huy tiểu đoàn, gặp Đại úy Nguyễn Trung Việt - trưởng ban 3, anh nói:
- Lệnh Thiếu tá tiểu đoàn trưởng chỉ thị các anh em ở đại đội nào về đại đội đó, còn ông Minh thì qua nhận trung đội 90 ly, bàn giao trung đội với Chuẩn úy Lắng.
Anh Việt vừa mãn khóa tham mưu trung cấp ở Thủ Đức và anh về thay thế cho Đại úy Đức, thuyên chuyển đi tiểu đoàn khác.

Rời bộ chỉ huy tiểu đoàn, chúng tôi chia tay nhau. Ai nấy bùi ngùi sau hơn một năm sống xa đơn vị và làm việc Chung với nhau trong công tác dân sự vụ ở tiểu khu Quảng Trị. Hạ sĩ Cao trở lại trung đội Quân-Y, Trung sĩ I Cát trở về trung đội truyền tin, Trung sĩ Thành - đại đội 1, Hạ sĩ Cứng - đại đội 3 và Hạ sĩ I Đức - đại đội 4.
- Cám ơn tất cả các anh em trong thời gian chúng at làm việc xa đơn vị, chúc các anh may mắn.
- Chúc Thiếu úy may mắn!
Tôi bước về phía Hạ sĩ Cứng, bắt tay anh và nhắn nhủ đôi lời hỏi thăm về các anh em thuộc đại đội 3 và trung đội 3. Cứng là tiểu đội trưởng tiểu đội đại liên của trung đội 3 thời gian tôi làm trung đội trưởng.
Sau khi chia tay tôi hỏi thăm vị trí của trung đội đại bác 90 ly để đến nhận nhiệm vụ.
Ban chỉ huy của trung đội 90 ly nằm ở hướng Đông Bắc của bộ chỉ huy tiểu đoàn, cạnh quốc lộ 1. Chuẩn úy Lắng, sĩ quan an ninh trật tự, chào tôi, rồi lên tiếng:
- Ông về đây hả, tui đỡ lo. Tụi nó khó nói lắm ông ơi!
- Bác khỏe chứ, bác chỉ giùm tôi khu vực bố trí của trung đội 90 ly.
Tôi theo chân của Chuẩn úy Lắng đi một vòng đến từng vị trí của các tiểu đội, phân đội của trung đội súng nặng.
Sau đó tôi gặp Trung sĩ I Vượng, trung đội phó, anh đang điều động anh em để di chuyển trước một số vũ khí nặng mà chúng tôi chưa dùng tới như đại liên 50 ly phòng không.

Trung đội đại bác 90 ly gồm có một tiểu đội đại bác 90 ly không giật, một tiểu đội đại liên M-60, một khẩu đội hỏa tiễn XM-202, và một khẩu đội đại liên 50 ly phòng không với quân số tổng cộng gần 40 người.
Nhiệm vụ chính của chúng tôi là phòng thủ chu vi tiểu đoàn và tăng phái cho các đại đội tác chiến về hỏa lực yểm trợ khi cần thiết.
Vì ở trong tình trạng di chuyển nên chúng tôi được lệnh phải gọn gàng và sẵn sàng, tất cả những vũ khí nặng nề cố định đã được di chuyển trước.

Chiều hôm đó tất cả các đại đội trưởng đến họp tại bộ chỉ huy tiểu đoàn. Sau khi cuộc họp chấm dứt, tôi bước đến gặp huynh trưởng Tăng Bá Phụng khi anh đang trên đường về để điều động đại đội 3.
- À ông Minh, ông về đâu?
- Thưa Đại úy, tôi về trung đội đại bác 90 ly, đại đội chỉ huy.
- Mừng cho ông, chúc mạnh giỏi!
- Cám ơn Đại úy.
- Tôi phải về gấp để bàn giao tuyến cho Biệt Động Quân.
Câu nói của huynh trưởng Tăng Bá Phụng làm cho tôi nghĩ ngay đến tình hình căng thẳng khắp nơi. Trong tuần rồi tôi được tin Thiều, một người bạn cùng khóa thuộc tiểu đoàn 3 TQLC, đã hy sinh khi Việt Cộng tiền pháo hậu xung, tràn ngập đơn vị anh ở An Lỗ. Anh phải xin pháo ngay trên tuyến để ngăn cản các đợt xung phong của địch...

Chia tay huynh trưởng Tăng Bá Phụng, tôi trở lại ban chỉ huy đại đội thì gặp Đại đội trưởng đại đội chỉ huy, huynh trưởng Nguyễn Hữu Bình. Anh Bình người Qui Nhơn, tốt nghiệp khóa 2/69.
Hơn 2 năm trước khi tôi về đơn vị, anh là sĩ quan phụ tá ban 3 của Đại úy Duật. Tháng 5/73 khi huynh trưởng Ngô Kim Anh về đại đội 2 thay thế cho Đại úy Xương thuyên chuyển qua đơn vị mới thì anh Bình nhận chức Đại đội trưởng đại đội chỉ huy và anh được thăng cấp Đại úy vào đầu năm 1975.
- Ông Minh, mời ông ngồi. Huynh trưởng Bình lên tiếng.
- Cám ơn Đại úy.
- Ông nhận bàn giao trung đội 90 chưa?
- Xong hết rồi Đại úy.
- Tiểu đoàn đang bận rộn di chuyển, mình sẽ vào đóng ở đèo Hải Vân, thay thế cho Nhảy Dù di chuyển vô Nam. Ông giúp tôi ngó chừng và giúp đỡ cho thằng Nam bên trung đội 81.
- Tôi biết Đại úy.
- Có gì khó khăn thì ông cho tôi biết.
Ngày hôm sau tôi bắt đầu kiểm soát vũ khí và quân dụng cá nhân của trung đội 90 ly, tôi đã phạt kỷ luật các anh lính ham chơi, bê bối.
Chuẩn úy Lắng nói nhỏ với tôi:
- Tui nói tụi nó không nghe, ông phạt như vầy thì tụi nó mới chịu vô khuôn khổ.

Với trên 20 năm quân ngũ, gia nhập quân đội từ trước 54 và từ Binh II lên đến Chuẩn úy, người miền Nam xuề xòa, dễ dãi, ông Lắng là sĩ quan trật tự của tiểu đoàn, chỉ chăm lo làm tròn nhiệm vụ của mình. Khi đóng quân hay khi đơn vị về hậu cứ, ông có nhiệm vụ kiểm soát các quân nhân thuộc tiểu đoàn rời đơn vị bất hợp lệ hoặc trốn đi chơi. Công việc này làm cho chúng tôi, các sĩ quan trẻ không ưa thích ông mấy khi đi chơi mà bị ông gặp báo cáo về tiểu đoàn. Người nhỏ con, chậm rãi, ít phạt thuộc cấp nên các chiến binh trong đơn vị thường gọi ông là bố Lắng. Những người lính trốn đi chơi bị ông bắt gặp thường bỏ chạy luôn vì ông rượt theo không kịp. Cả một tiểu đoàn lính thay đổi luôn luôn, làm sao ông nhớ hết mặt, hết tên.

Trung đội phó trung đội 90 là Trung sĩ I Vượng người miền Bắc, đạo Thiên Chúa, cũng hiền lành không kém, chịu cực, chịu khó, cứ im lặng làm cho xong công việc. Chẳng thấy anh to tiếng với ai và cũng chẳng thấy anh phạt lính bao giờ. Có lẽ cả hai ông cán bộ đều hiền lành nên lính tráng biếng nhác. Anh Vượng lại bị bệnh lãng tai nên khi ai nói gì cũng phải nghểnh đầu, vận dụng tối đa cái màng nhĩ lủng của mình để cố gắng nghe.

Thời giờ quá cấp bách trong lúc này nên tôi nhờ anh Vượng tập họp những người lính thuộc trung đội 90 ly, ngoại trừ các anh bận gác và đang công tác, lại cho tôi nói chuyện. Tôi trình bày tình hình hiện tại ngắn gọn và yêu cầu các anh giữ đội hình, cố gắng bám sát tiểu đội và trung đội trong khi di chuyển, giúp đỡ nhau đi đến nơi, về đến chốn an toàn vì ai nấy đều phải mang nặng hơn bình thường, chính tôi cũng phải mang một cấp số rưỡi đạn. Mỗi người lính TQLC phải mang vũ khí cá nhân, một cấp số rưỡi đạn, lựu đạn, xẻng, cuốc cá nhân, mặt nạ, ngoài ra anh nào thuộc tiểu đội đại liên M-60 thì mang thêm một dây đạn M-60, thuộc đại bác 90 ly thì mang thêm một trái đạn 90 ly.... Các anh xạ thủ đại bác hoặc đại liên thì nặng sẵn rồi.

Ngày 19 tháng 3/75 hai tiểu đoàn 78 và 79 Biệt Động Quân đến thay thế tuyến tiểu đoàn 7 TQLC và chúng tôi đến thay thế tuyến tiểu đoàn 6 để đơn vị bạn di chuyển trước vào Đà Nẵng.

Sáng ngày 20/3/75 huynh trưởng Bình mời tôi và Nam - Trung đội trưởng trung đội 81 lên họp và nhận bản đồ vùng hành quân mới. Anh cho biết tiểu đoàn 7 sẽ được di chuyển vào Đà Nẵng và trấn đóng khu vực Bạch Mã và đèo hải Vân thay thế cho Nhảy Dù.
Sau đó tất cả đại đội chỉ huy và ban ngành lên xe xuôi Nam về thành phố Huế. Tất cả những người lính TQLC vui vẻ hẳn lên, vô tư và yêu đời thêm, anh này nói đùa với anh kia:
- Chắc mình vô Thành Nội Huế.
- Vô Huế đi ngủ đò sướng lắm, gió mát rượi.

Chúng tôi là một đơn vị có kỷ luật nên nhiều người lính tiểu đoàn 7 TQLC, dù đóng ở Phò Trạch - Phong Điền, An Lỗ, Mỹ Chánh hay Quảng Trị đã 3 năm rồi mà chưa hề được dịp vào thăm thành phố Huế, không mấy người lính được biết về Huế như các thân nhân ở miền Nam thường tưởng tượng.

Theo quốc lộ 1 xuôi Nam, đoàn xe chạy qua khỏi Cầu Mới thì đổi hướng về phía bến phà Tân Mỹ. Tại bến phà tôi đã thấy các đoàn xe của các đại đội 1, 2, 4 đã và đang tiếp tục đến điểm hẹn. Có tin là chúng tôi phải đợi Thiếu tá Phạm Cang - Tiểu đoàn trưởng và đại đội 3 đến theo đường hương lộ 555.
Tại bến phà các tàu chuyển quân LCM của Hải Quân di chuyển ra vào nhộn nhịp. Trong khi chờ đợi các người lính bắt đầu ăn trưa, cơm sấy và thịt hộp. Lệnh thông báo cho tất cả chiến binh không ai được xuống xe vì mất trật tự và khó kiểm soát, chỉ trừ việc thay phiên nhau đi vệ sinh mà thôi.

Chúng tôi, một toán sĩ quan trung đội trưởng, tụ họp lại hút thuốc, bàn tán về tình hình. Tôi nhớ đại đội 1 có Sơn, Hải cận; Đại đội 2 có Toàn, Uẩn sứt, Đại đội 4 có Thành, Cường, Hùng nhí, và tôi với Nam ở đại đội chỉ huy. Đang đứng nói chuyện thì Trung úy Tạo - Đại đội phó đại đội 1 bước đến với bản đồ trên tay. Nhìn vào bản đồ vùng đóng quân của đơn vị trong khu vực sắp đến mà thấy hoa cả mắt. Quá nửa bản đồ là biển, phần còn lại là những vòng cao độ chằng chịt. Những điểm đóng quân của đại đội chỉ huy mà tôi được huynh trưởng Bình cho biết là dọc theo quốc lộ 1, trên đỉnh Hải Vân, nằm ở cao độ từ 600 đến 700 mét...
Chờ mãi cho đến chiều thì lại được lệnh lên xe trở lại, tôi chỉ thị cho các anh lính điểm danh quân số trên xe của trung đội 90 ly.
Đoàn xe lại bắt đầu chuyển bánh trở về đường cũ, qua cầu sông Hương thì trời bắt đầu tối, cả thành phố Huế đã lên đèn. Theo hướng Bắc trên quốc lộ 1 đoàn xe chạy về hướng Quảng Trị, lần này thì đi thiệt, về qua khỏi cầu Phò Trạch - Phong Điền, cây số 23, cầu Mỹ Chánh, Bến Đá, ngược đường ra Đại Lộ Kinh Hoàng, đến ngã ba Hải Lăng, quẹo phải chạy về Hải Thọ, Hải Thiện hướng đến Hội Yên, quẹo phải ở ngã tư Hội Yên vào hương lộ 555, đoàn xe chạy qua khỏi khu nhà thờ hai nóc Thanh Hương thì dừng lại ở làng Điền Môn.
Đã gần nửa khuya, tôi chia khu vực cho trung đội 90 ly trải quân phòng thủ và quay qua anh Vượng tôi nói:
- Cắt gác ngay nhe anh Vượng.
- Dạ, Thiếu úy.
Quá mệt mỏi nhưng tôi vẫn phải đi một vòng quanh tuyến đóng quân, tiếng các người lính than thở lấy lệ.
- Chạy tới chạy lui mệt quá Thiếu úy ơi!
- Chuẩn bị đi anh em, đây mới là tập dượt mà thôi.
- Thiệt hả Thiếu úy!
- Nhà binh thì lúc nào cũng phải sẵn sàng.

Ngày 21 tháng 3/75.
Tôi bước ra khỏi cái lều căng bằng poncho mà các anh lính trong ban chỉ huy căng tạm tối hôm qua. Vươn vai, uốn mình cho đỡ mỏi, ánh trăng thượng tuần chơi vơi gần lặn ở phương Tây, có lẽ khoảng mùng 8 hay mùng 9 ta. Di chuyển cả ngày hôm qua, ăn ngủ thất thường và mệt mỏi nhưng tôi vẫn không ngủ yên vì đến tuyến mới và tâm tư chộn rộn, chắc khoảng 3 giờ sáng.
Trời tờ mờ sáng, tiếng các anh lính đánh thức nhau dậy đi ra giếng nước rửa mặt và làm vệ sinh cá nhân. Hai anh lính ở ban chỉ huy trung đội 90 đã nấu xong một ấm nước trà. Chúng tôi ăn sáng vội vàng, mấy hôm rày người nóng ran vì bón do ăn ngủ thất thường và thiếu rau cải tươi. Nhìn quanh các anh lính trung đội mà thông cảm hơn, trông ai nấy cũng lo lắng và mệt mỏi.

Sau khi đi một vòng quanh tuyến quan sát vị trí đóng quân, tôi chỉ thị cho các Tiểu đội trưởng sửa lại giao thông hào, dời đổi các vọng gác để dễ dàng quan sát và kiểm soát các đường xâm nhập. Trở về lại ban chỉ huy trung đội, chưa kịp ngồi xuống thì nghe tiếng một anh lính trong ban chỉ huy:
- Dạ chào Bác sĩ.
Quay qua thì tôi nhìn thấy Bác sĩ Giang - Trung đội trưởng trung đội quân-y tiểu đoàn 7 TQLC, anh vừa về đơn vị khoảng vài tuần trước.
- Chào Thiếu úy, ông chỉ cho tôi các giếng nước mà ông múc nước nấu ăn ở đâu?
Tôi gọi anh lính ở ban chỉ huy.
- Mày chỉ cho Bác sĩ giếng nước, Bác sĩ đi tìm giếng múc nước uống hả? Tôi hỏi anh.
- Không, tôi muốn kiểm soát giếng nước và sát trùng các khu vực vệ sinh quanh đây.

Anh Giang là anh của một người bạn khá thân của tôi, Vũ Đức Thanh, ở trung đội 1, đại đội 719 tại quân trường Đồng Đế. Anh cũng là một cựu học sinh Nguyễn Trãi, học trước tôi 3 lớp.
Sau khi anh Giang rời khỏi, tôi rơi vào một giấc ngủ chập chờn vì quá mệt mỏi, trở dậy thì trời đã quá trưa.

Ngồi bên chiếc bàn ăn đóng bằng gỗ thùng đạn pháo binh mà các anh lính ở ban chỉ huy mang về làm chỗ ăn cơm, hút một điếu thuốc cho tỉnh ngủ, tôi quay qua khi nghe có tiếng người bước đến. Một anh lính ở ban chỉ huy đại đội đến chào tôi và nói:
- Dạ, Đại úy mời Thiếu úy lên họp.
Bước theo anh về phía ban chỉ huy đại đội, tôi thấy Thiếu úy Nam đang ngồi nói chuyện với huynh trưởng Bình.
- Chào Đại úy.
Nhìn Nam tôi hỏi:
- Khỏe không Nam?
- Dạ khỏe ông anh.
Hai ngày nay công việc tất bật nên tôi cũng chưa có dịp ghé qua thăm trung đội 81 của Nam.
- Ông Nam có chuyện gì cần thiết, nếu không gặp tôi có thể bàn với ông Minh. Huynh trưởng Bình nói.
- Dạ tôi biết Đại úy.
Và anh Bình bắt đầu phân chia công việc cho chúng tôi.
- Nếu không có gì thay đổi thì kể từ sáng mai, ông Minh chịu trách nhiệm khai thông lộ trình trên hương lộ 555 từ ranh giới đại đội 4 đến đại đội chỉ huy và xuống tới ngã ba dưới kia, chỗ sân vận động. Sau khi họp xong, ông qua khu vực 81 ly góp ý kiến với ông Nam và trong trường hợp tôi đi họp vắng mặt, ông lên đây trực và điều động con cái giùm tôi.

Sau khi chấm dứt cuộc họp, tôi ghé qua trung đội của Thiếu úy Nam, và trở về để cắt đặt công việc của trung đội 90 ly.
Tôi nói với Trung sĩ I Vượng:
- 5 giờ 30 sáng mai anh cho mỗi tiểu đội một người, phòng không hai người, ghé qua đại đội lấy máy rà mìn, rồi tập họp tại đây tôi dẫn đi mở đường.

Mờ sáng hôm sau tôi thức dậy đánh răng rửa mặt, uống một ly cà phê. 6 giờ tôi dắt toán dò mìn, an ninh lộ trình ra hương lộ 555. Đoạn đường chúng tôi kiểm soát dài hơn một cây số. Để ý những điểm cần thiết trên con đường, chúng tôi chậm rãi kiểm soát suốt lộ trình trên hương lộ 555, mất hơn nửa tiếng đồng hồ để kiểm soát đoạn đường.
Chiều hôm đó tôi nhắc Trung sĩ Vượng:
- Ngày mai anh dẫn toán rà mìn, lấy hai người cũ theo lộ trình mà tôi đã dẫn họ ngày hôm nay để đi mở đường.
Tình hình có vẻ yên tĩnh một cách kỳ lạ, hơn một tiếng đồng hồ đi về mà không thấy xe cộ và dân chúng đi lại. Trên đường về các anh lính hỏi tôi:
- Chừng nào ban quân lương vô Thiếu úy?
- Chắc họ chờ tụi mình vô Đà Nẵng rồi phát.
- Đọi quá Thiếu úy ơi!
- Lãnh sớm thì hết sớm chớ gì!

Thời gian này chúng tôi trang bị thật gọn gàng, ba lô luôn luôn sẵn sàng lên vai. Tôi chỉ thị cho trung đội 90 là “Khi hô tập họp di chuyển, phải sẵn sàng trong vòng 5 phút, tất cả những gì không cần thiết thì một là nằm dưới đáy ba lô, hai là nằm trong thùng rác. Không được đi ra khỏi khu vực của trung đội. Nếu đi phải cho anh em cùng tiểu đội biết, nghe có lịnh tập họp là phải sẵn sàng vì chúng ta không có thời giờ chờ đợi..."

Sáng ngày 24 tháng 3, tôi gặp huynh trưởng Bình khi đang đi kiểm soát tuyến phòng thủ.
- Ủa ông Minh, hôm nay không đi thông tuyến đường hả?
- Tôi cắt anh Vượng đi rồi Đại úy, tôi đã báo cho anh ấy làm những gì cần phải làm rồi.
- Ông qua trực đại đội giùm tôi, có gì thì ông điều động anh em, tôi phải đi họp ngay bây giờ.
- Tôi qua bên đó ngay Đại úy.
Chúng tôi ứng chiến 24/24, lúc ngủ tôi cũng mặc quần áo sẵn sàng, chỉ cởi đôi giày cho nhẹ chân, vũ khí để ngay bên cửa của căn lều. Chúng tôi tập thói quen là định hướng trước khi đi ngủ, có gì xảy ra thì đã có chuẩn bị sẵn rồi. Bật dậy, xỏ giày, chụp súng, áo giáp và nón sắt, chạy đến vị trí của mình ở giao thông hào...
Bước trở về ban chỉ huy trung đội, tôi ra lệnh cho đánh thức cả trung đội, ứng chiến tại chỗ, bảo anh hiệu thính viên cho anh Vượng biết tôi đang ở ban chỉ huy đại đội, có gì thì liên lạc ngay với tôi.
Khi tôi qua đến ban chỉ huy đại đội, anh lính cần vụ mang đến cho tôi ly cà phê nóng hổi.
- Cám ơn em.
Ngồi xuống trên chiếc ghế, xoải chân ra, vươn vai và đốt một điếu thuốc, lắng nghe các mẫu đối thoại truyền tin trên tần số tiểu đoàn, các báo cáo, liên lạc, chỉ thị bình thường.

Bầu trời u ám, không có ánh nắng. Vừa hết ly cà phê, tôi rót một ly nước trà, định đốt thêm điếu thuốc, lắng nghe các mẫu đối thoại dồn dập trên hệ thống vô tuyến, cùng lúc có các tiếng súng vọng lại từ xa, thì ra đại đội 2 đang chạm địch, chiến xa T-54 có bộ binh tùng thiết, tiếng vũ khí cộng đồng vang lên từ phía đóng quân của đại đội bạn và tiếng pháo yểm trợ của pháo binh TQLC bay qua trên đầu tạo thành những luồng gió rít rợn người.
Tôi gọi anh lính cần vụ và bảo:
- Em chạy qua 90 ly nói anh Vượng cho tất cả ra giao thông hào ứng chiến sẵn sàng, rồi chạy qua 81 ly báo cho Thiếu úy Nam y như vậy. Cùng lúc tôi bảo anh hiệu thính viên đại đội lập lại chỉ thị trên máy vô tuyến cho tất cả đại đội sẵn sàng.
Tay cầm ống liên hợp máy truyền tin tần số tiểu đoàn, tôi nghe tiếng báo cáo từ đại đội 2 của huynh trưởng Ngô Kim Anh về tình hình lúc đó. Giọng bình tĩnh, anh liên lạc xin yểm trợ và điều động trung đội chạm địch của Thiếu úy Trần Mạnh Toàn. Toàn vui tính, nước da ngăm đen nên chúng tôi thường gọi đùa là “Cốc maru”.
Một lúc sau huynh trưởng Bình trở về từ bộ chỉ huy tiểu đoàn, anh nói với tôi:
- Ông về cho con cái gọn gàng, trong tình trạng di chuyển bất cứ lúc nào.

Xế chiều hôm đó đại đội được lệnh di chuyển ra hương lộ 555, trung đội 81 đi đầu ban chỉ huy đại đội và các ban ngành, trung đội 90 ly đi sau cùng với đội hình hàng dọc, anh Vượng đi với tiểu đội đại liên phòng không, tiếp theo là tổ XM-202, tiểu đội đại bác 90 ly, tiểu đội đại liên M-60 và tôi đi sau cùng.
Có lẽ huynh trưởng Bình chiếu cố tôi nên tôi luôn luôn là người đi sau cùng. Anh nói:
- Ông Minh, tôi muốn ông giữ con cái của mình tới nơi tới chốn đầy đủ...
Chúng tôi di chuyển tới ngã ba nơi mà hàng ngày toán mở đường có nhiệm vụ khai thông, anh đưa tôi đến gặp Trung úy (Phương?) - Chi đội trưởng chi đội thiết vận xa loại được trang bị đại bác 106 ly không giật mà tôi sẽ tháp tùng trên đường di chuyển.

Cuộc hành quân triệt thoái từng chặng bắt đầu suốt đêm 24 tháng 3. Tôi chỉ thị cho tất cả trung đội 90 ly đạn lên nòng, khóa cơ bẩm và sẵn sàng. Tôi phân chia các tiểu đội lên xe và nhắc nhở đếm quân số từng xe, liên lạc và nghe chỉ thị từ tôi và anh Vượng. Đoàn xe di chuyển từng chặng rồi ngừng nghỉ, rồi lại tiếp tục như vậy suốt cả đêm, buồn ngủ và mệt mỏi nhưng chẳng ai dám nhắm mắt vì sợ rớt khỏi xe. Tôi nhắc các anh em 90 ly quay súng hướng ra hai bên đường và đề phòng những cành tre quất trúng...

Sáng ngày 25 tháng 3, đoàn thiết vận xa đang di chuyển trên hương lộ 555 gần đến Thuận An, trên khúc quanh của con đường có một bụi tre lớn, là chỗ dừng chân nghỉ mát của bộ hành trong những ngày nắng gắt. Bóng một người dân chậm chân lẻ loi, cô độc đang gánh một đôi gánh nhẹ tênh, chắc chẳng có gì quí giá trong đôi gánh đó.

Khi đoàn xe đến gần, người bộ hành đứng nép vào một bên đường, bỏ đôi gánh xuống và mở chiếc nón lá ra quạt. Bất chợt người đàn ông ngước nhìn lên đoàn xe của chúng tôi. Ôi! Gương mặt người đàn ông với đôi mắt buồn vời vợi, cả một chuỗi hình ảnh trở lại trong tôi...
Sáu tháng trước đây, vào khoảng tháng 9/74, toán CAP (huấn luyện) được điều động từ Hải Trường đến Hải Thiện để huấn luyện cho hai trung đội nghĩa quân 31 và 32 thuộc xã Hải Thọ.

Một hôm tôi được mời tham dự ngày lễ của gia tộc họ Lê, ngồi bên cạnh một ông lão tuổi trạc 60, móm mém, tóc bạc gần như trắng. Trò chuyện với ông một lúc, tôi hỏi ông trước kia có gia nhập quân đội hay không. Ông kể “Vào đầu thập niên 30's tôi là một thiếu niên phải sung công đi Huế để xây dựng lăng Vua Khải Định, mất vài năm thì được trở về làng để tiếp tục đời sống nông dân. Đến giữa thập niên 30's tôi đi lính Khố Đỏ, đóng quân tại Thừa Thiên. Vào đầu thập niên 40's mặt trận Châu Âu trở nên căng thẳng sau khi Đức chiếm các nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi... và trở thành một mối đe dọa cho Pháp.
Một hôm đơn vị chúng tôi được tập trung lại và đưa qua Pháp bằng tàu biển. Sau cả tháng trời ói mửa liên tục, tàu cập bến Marseille...”

Thay vì được đưa đến thăm thủ đô Paris “Kinh thành ánh sáng” để được vui chơi du hí, đơn vị ông được đưa đến vùng biên giới Đức-Pháp, khu Alsace-Lorraine.
Nơi đơn vị đóng quân thuộc quyền chỉ huy của các sĩ quan Pháp là những người lính thuộc địa đến từ Á Châu và Phi Châu.
- Bác có được tiếp xúc với những người bạn ở những đơn vị khác không?
- Không có mấy khi được tiếp xúc và nói chuyện đâu.
- Làm sao bác quen công việc?
- Riết rồi cũng quen, thấy họ mần răng, miềng mần rứa, nói thì ít mà ra dấu thì nhiều.
- Bác có được đi chơi, thăm thắng cảnh không?
- Mô mà có, họ nhốt như nhốt tù, mà miềng có biết tiếng Tây mô mà đi chơi.
Đức xé bỏ hòa ước, tấn công tập hậu chiến lũy Maginot và chỉ trong vòng 6 tuần lễ, Pháp thất trận.
- Bầy tui bị bắt làm tù binh cho tới khi đồng minh thắng trận.

Sau khi được trả về Việt Nam và giải ngũ, ông trở lại quê nhà tiếp tục làm ruộng. Chẳng bao lâu thì Việt Minh nổi dậy và toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Ông lại phải sống lưu vong rày đây mai đó vì cái tịch lính Tây để tránh cái bọn du kích Cộng Sản nằm vùng.

Năm 54 ông trở về làng cũ sau khi đất nước bị chia đôi. Vài năm tạm yên ổn thì đến năm 1960, cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời... Có lẽ vì đời ông có quá nhiều nỗi truân chuyên nên ông không lập gia đình (tôi không hỏi nhưng thấy ông đi đâu cũng một mình thui thủi).

Năm 72 khi trận chiến mùa hè đỏ lửa nổ ra, ông theo đoàn người tị nạn vào Đà Nẵng.
- Trong trại tị nạn tù túng quá eng ơi! Miềng ở quê quen rồi, ở trong trại lạ cảnh xa nhà, không công ăn việc làm, miềng làm ruộng, làm rẫy quen rồi, nhớ quê, nhớ nhà quá!

Cuối năm 73 đoàn người tị nạn hồi cư, ông lại trở về làng cũ. Tôi gặp ông ở Hải Thiện năm 74. Bây giờ bất ngờ lại gặp ông trên đường triệt thoái, ông vẫn thui thủi một mình với đôi quang gánh nhẹ tênh, gần như chẳng có gì, cũng như cả cuộc đời ông chẳng được gì cho đến khi tuổi đã xế chiều.
Ông xấp xỉ tuổi Bố tôi và có những mốc thời gian tương tự. Đầu thập niên 30's Bố ra Hà Nội học nghề thì ông vào Huế lao động xây lăng Khải Định. Đầu thập niên 40's Bố vào Nam xây dựng sự nghiệp thì ông phải qua Pháp chiến đấu chống Đức...
Nhìn ông tôi lại thấy hình ảnh Bố tôi. Đáng lẽ ở lứa tuổi trên dưới 60 này, ông phải được an hưởng tuổi già, ngồi nhìn đàn con cháu lớn khôn.

Tại sao??? Tại sao ông lại phải đứng đây nhìn theo đoàn quân của chúng tôi đang vội vã bỏ đi với đôi mắt buồn hướng về một phương trời vô vọng, trên gò má nhăn nheo đang chảy dài hai dòng lệ tủi hờn !!!?
Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy hai bờ mi cay xé...

Chúng tôi đến cửa Thuận An gần 9 giờ sáng. Anh Bình nói với tôi:
- Ông phải kiểm soát các chiếc ca-nô và bảo đảm họ đưa hết con cái mình qua bờ.
Tiểu đội đại liên và tôi là những người cuối cùng của đại đội chỉ huy qua bến Thuận An.
Những chiếc thiết vận xa M-113 cũng lội qua phá, không biết tại sao hôm đó biển lại có sóng lớn, hai chiếc M-113 trong toán chúng tôi bị nước cuốn, các tài xế phải nhảy khỏi xe để bơi vào bờ.
Tiếp tục di chuyển dọc theo bờ biển về phía Nam khoảng vài cây số, chúng tôi được lệnh dừng lại và xếp hàng từng toán chờ tàu. Anh Bình nhắc tôi đi đôn đốc và kiểm soát các người lính thuộc đại đội chỉ huy, anh phân chia thứ tự lên tàu. Anh nói với tôi:
- Có thể các chiếc LCM sẽ vào bốc tụi mình. Khi lên tàu cũng theo thứ tự như cũ, đừng xáo trộn làm mất trật tự, nhớ kiểm soát đừng để cho các đơn vị khác trà trộn.
Nhìn những chiếc LCM đang lởn vởn trước mặt, các anh lính lại nhỏ to với nhau:
- Kỳ này vô Đà Nẵng thiệt rồi tụi bay ơi!
- Chắc ói mửa dữ nhe, tao chưa được đi tàu lần nào.
Các đợt sóng đuổi theo nhau vào bờ cát, nước thấp và gió mát làm tôi ngủ gà ngủ gật trong khi chờ tàu. Dọc theo bờ cát có đủ các đơn vị quân đội như Biệt Động Quân, Bộ Binh, Cảnh Sát... Có cả các gia đình của họ cũng đi theo để mong lánh nạn.
Cách bờ một khoảng về phía Nam là một chiếc Dương Vận Hạm loại LST. Có một số người cố gắng bơi ra các chiếc LCM nhưng bị sóng nhồi phải bơi trở vào.

Chờ đến quá trưa thì được lệnh phải di chuyển về hướng Nam để bắt tay với các tiểu đoàn bạn thuộc lữ đoàn 147. Lần này huynh trưởng Bình lại cắt 90 ly đi đầu do anh Vượng hướng dẫn, rồi tới ban ngành và ban chỉ huy đại đội, cuối cùng là trung đội 81 và tôi.
Anh nói:
- Ông Minh, tôi muốn ông là người đi sau cùng của đại đội và không có ai bị rơi rớt sau ông.
Chúng tôi tiến về phía các đồi dương chứ không đi dọc theo bãi biển.
Đang di chuyển được chừng một tiếng đồng hồ thì có tiếng nổ chát chúa của đạn AK từ phía Nam vọng tới, dân chúng và các đơn vị khác bám theo chúng tôi chạy tán loạn. Các binh sĩ chạy tản mác ra chung quanh để tìm chỗ ẩn núp. Lòng tôi nóng như lửa đốt, chạm địch trong tình cảnh này thì ai sẽ điều động trung đội 90 ly. Tôi chạy vội lên bắt kịp Nam và trung đội 81. Tôi nói với Nam:
- Cho trung đội dàn hàng ngang hướng về phía trong làng, cẩn thận và không được bắn nếu không thấy rõ địch vì có thể bắn lầm đơn vị bạn.
- Còn ông anh?
- Tôi phải dzọt lên để điều động trung đội 90 ly.

Trong lúc chạy lên phía trước tôi nghe tiếng Nam đang ra lệnh cho 81 bố trí đội hình.
Bám theo những hàng dương tôi chạy lên phía trước, khoảng hơn 200 mét thì nghe tiếng gọi của một người lính.
- Trung đội 90 đây Thiếu úy!
- Mày ở tiểu đội nào? Anh Vượng đâu?
- Dạ, em ở toán XM-202, em không thấy ảnh đâu.

Nép vào một thân cây to, tôi nhìn vào phía trong làng. Phía trước mặt yên tĩnh, thỉnh thoảng có vài bóng người dân mặc thường phục hoặc vài người lính bộ binh đang nấp sau những thân cây quanh đó. Nắng chiều xuyên qua đồi dương làm thành những vệt sáng loang lổ trên bãi cát. Nhìn quanh tôi thấy khoảng hơn chục người lính thuộc trung đội 90 ly. Tôi chỉ tay ra dấu cho họ bám các gốc cây, hướng súng vào phía trong làng và bắt đầu lên tiếng gọi:
- Tất cả trung đội 90 ly hướng súng vào phía trong, không được bắn khi chưa có lệnh. Bên tay phải tôi là đại liên M-60 rồi tới XM-202, bên tay trái tôi là 90 ly rồi tới đại liên 50. Năm phút sau chúng tôi đã làm thành một hình cánh cung. Kiểm soát quân số chúng tôi mất 6 người, trong đó có anh Vượng và người hiệu thính viên.
Tôi nói với hai người lính bên cạnh:
- Tụi mày chạy ra phía sau tìm Trung sĩ Vượng và ban chỉ huy đại đội, gọi anh Vượng lên đây ngay.
Sau khi chúng tôi bố trí xong thì có khoảng gần 20 người vừa dân sự lẫn quân nhân chạy bổ vào phòng tuyến. Các anh lính lên đạn, tôi hét lớn:
- Không được bắn!
Quay về nhóm người này, tôi nói:
- Các ông điên à, sao lại chạy vào đây?
- Dạ, trong làng phía trước mặt có Việt Cộng.
Tôi bảo các người lính đưa họ ra phía sau vì nếu họ ở trong phòng tuyến chỉ thêm một gánh nặng.

Gần nửa giờ sau hai người lính trở lại báo cáo đã gặp anh Vượng và các người khác ở ban chỉ huy đại đội. Khẩu lệnh của Đại úy Bình chỉ thị tôi đưa trung đội 90 ra bãi biển. Theo thứ tự từng tiểu đội di chuyển, chúng tôi đến bãi biển thì trời đã tắt nắng.
Đến gặp anh Bình và theo anh đến nhận tuyến phòng thủ trên một đồi cát nhỏ nơi có chiếc miếu thờ của những người dân làng chài Thuận An.
- Ông cho con cái bố trí chỗ này, bắt tay với trung đội 81, nhớ coi chừng giùm thằng Nam, nó bị thương rồi.
- Nó bị ra sao Đại úy?
- Cũng nhẹ thôi, bị thương vô bắp vế.

Từ ngôi miếu nhỏ về phía Nam, trung đội 90 ly dàn thành một hàng ngang và bắt đầu đào các hố chiến đấu, cái này cách cái kia một sải tay. Sau đó trung đội 81 ly đến nhận tuyến từ cái miếu về phía Bắc, bọc cong theo những bờ cát có những cây dứa dại. Đào hố chiến đấu xong thì trời tối hẳn. Ai nấy cũng cảm thấy ngứa ngáy khó chịu vì mồ hôi, bụi đường, và hai ngày qua di chuyển không ngừng nghỉ. Ngứa nhưng chẳng ai dám tắm vì nước biển rít và khó chịu nếu không có nước ngọt để tắm lại cho sạch. Một anh lính xuống biển múc cho tôi một nón sắt nước để rửa mặt và tay chân.
Ăn cơm xong thì trời đã gần khuya, trăng treo lơ lửng trên đỉnh đầu. Nhìn ra biển thấy các tàu Hải Quân lờn vờn ngoài khơi mà chẳng thấy động tĩnh gì cả. Anh hiệu thính viên trải chiếc poncho trên bãi cát và nói:
- Thiếu úy nằm nghỉ cho đỡ mệt, có gì em kêu Thiếu úy liền.

Tôi gọi anh Vượng cách đó một chục hố, nhắc anh cắt gác và kiểm soát anh em. Nhìn vào hướng làng, tuyến phía trước là khu vực của đại đội 4. Một sự yên tĩnh lạ kỳ đang đè nặng lên chúng tôi. Ngồi xuống trên tấm poncho, đốt một điếu thuốc, hít một hơi thật dài, đầu óc chất chứa quá nhiều lo lắng khiến tôi chẳng nghĩ ngợi được gì. Dập tắt điếu thuốc, tôi thả người trên chiếc poncho, ráng chợp mắt một chút nhưng không ngủ được. Quay qua anh hiệu thính viên bên cạnh, tiếng anh ngáy ngon lành. Tôi nói thầm "Mẹ, vậy mà mày kêu tao ngủ, có gì thì kêu tao liền...".

Càng về sáng càng nhiều sương mù và gió lạnh, không biết đã mấy giờ, thời gian trôi qua một cách nặng nề. Tôi cũng không muốn liên lạc gì với đại đội vì cũng chẳng biết gì để mà hỏi, chỉ chờ đợi.
Trăng vừa lặn thì phương Đông trời cũng bắt đầu ửng hồng, xuyên qua màn sương mờ, ánh đèn tàu di chuyển và tiến vào bờ. Một chiếc tàu loại LCM tiến vào trước và đón xong đợt các binh sĩ bị thương, bộ chỉ huy lữ đoàn 147 và một số các đơn vị bạn gần đó. Chiếc LCM thứ nhì bị mắc cạn vì số người tràn lên quá nhiều, họ tranh giành giẫm đạp lẫn nhau. Bất ngờ một hỏa tiễn tầm nhiệt từ trong bờ bắn ra trúng vào tháp chỉ huy của tàu, thế là hỗn loạn nổi lên. Tôi không trực tiếp nhìn thấy cảnh này vì ở xa bờ, chỉ được nghe các người lính chạy thoát ra khỏi chiếc tàu kể lại khi chúng tôi bị đưa vào căn cứ La Sơn sau này.

Nghe tin tàu vào đón người, một số đơn vị bỏ tuyến chạy ra bãi biển. Bắc quân truy kích và bắn vào phòng tuyến của chúng tôi. Khi Bắc quân tràn qua bãi cát trống tấn công các đơn vị bạn thì gặp sự kháng cự của chúng tôi. Những viên đại bác 90 ly buộc toán Bắc quân truy kích phải rút trở lại trong làng, bỏ lại hàng chục xác trên bãi cát. Chúng tôi chưa kịp mừng thì hàng loạt cối tới tấp rơi vào trung đội 90 ly. Tiếng đạn nổ hàng chập đó đây, tiếng những cành dương gãy, tiếng hò hét xung phong của Bắc quân. Binh I Nam theo hướng tay tôi chỉ, rải những tràng đại liên về phía bờ làng, tôi nghe tiếng la hét, chửi bới của những người lính Bắc quân, và rồi cối lại dồn dập trút xuống trung đội 90 ly. Tôi và Nam - Xạ thủ đại liên bị thương trong trận pháo lần thứ hai này.

Chiều hôm đó sau khi được băng bó ở ban quân-y, tôi bước qua từ giã người xạ thủ đại liên M-60 gan dạ của mình. Mặc dù đang nằm mê man nhưng dường như Nam vẫn cảm nhận được từ tôi tình thương của một người anh, một chiến hữu. Những mảnh băng quấn trên đầu Nam đã thấm giùm tôi những dòng nước mắt.

Bước ra khỏi lều của ban quân-y với một thể xác mệt mỏi, một tâm tư chán chường trống rỗng, tôi chợt nghĩ "Giờ này chẳng còn ai, ngoại trừ các đồng đội của mình". Gần tới khúc quanh để bước lên đồi cát, tôi gặp Thiếu tá Phạm Cang - Tiểu đoàn trưởng và Thiếu tá Lê Quang Liễn - Tiểu đoàn phó đang đứng nói chuyện. Anh Cang lên tiếng hỏi tôi:
- Minh bị thương hồi nào vậy?
- Tôi bị miểng pháo sáng nay Thiếu tá.
- Nếu bị thương sớm có thể đã được tải thương sớm sáng nay rồi.
- Cám ơn Thiếu tá.
Tôi chào hai anh rồi bước lên đồi cát. Có thể nhờ vào mũi thuốc của ban quân-y hoặc là do cái tâm lý là mình vẫn còn các đồng đội đang chờ đợi, tôi cảm thấy bình tĩnh hơn, men theo các bờ cát, tôi bước lên đồi, định hướng trung đội 81 vì phía này có ngôi miếu và các chướng ngại vật thiên nhiên che chắn, ngăn cản tầm nhìn của các xạ thủ bắn tỉa Bắc quân.
Nhìn thấy cái miễu và những gốc cây dương nơi hai trung đội 81 và 90 ly phòng thủ, tới khoảng cách chừng 20 mét, tôi lên tiếng gọi lớn:
- 90 ly, 81 ly.
Vài người lính nhìn về phía tôi. Tôi ra dấu cho họ xích ra, chừa một khoảng trống trong giao thông hào ngay trước mặt để cho tôi có chỗ nhào xuống trong trường hợp địch quân nhắm bắn. Chỉ có chừng 5 giây đồng hồ để vượt một khoảng 20 mét đó, nhưng là cả một cuộc đời.
Hai anh lính dang ra và ra dấu “clear”.
Không hiểu tại sao tôi lại rất bình tĩnh và chạy nhanh như một lực sĩ điền kinh, tiếng đạn địch xé gió trên đầu “chíu” “chíu” khoảng 3 mét cuối cùng, tôi nhào vào giao thông hào. Người tôi đập vào bờ cát với một cảm giác vui mừng, khoan khoái và tự tin vì chung quanh tôi là những người chiến hữu.
Hai anh lính của trung đội 81 phủi bụi cát bám đầy trên người tôi, vừa cười vừa hỏi:
- Sao Thiếu úy không nằm nghỉ dưới đó?
- Mày nói điên, dưới đó toàn là đui què sứt mẻ, biết nói chuyện với ai, trên này vui hơn.
Anh bật ra cười ha hả, nhe hàm răng thiếu mất một cái răng cửa. Anh lính còn lại đốt cho tôi một điếu thuốc và hỏi:
- Thiếu úy bị thương nặng không Thiếu úy?
- Gà mổ vào mặt thôi, tỉnh rồi.
Các anh lính ùa lại thăm hỏi tôi.
- Tao còn đang sống nhăn răng, coi chừng tụi chuột kìa.
Một anh khác bước đến đưa cho tôi bao gạo sấy và một hộp thịt đã mở sẵn, tôi cố gắng đẩy vào họng mình 3,4 muỗng cơm khô khốc. Với tay cầm bình nước anh đưa đến đã gần cạn, tôi làm một hơi cạn luôn và trả lại bi-đông cho anh.
Hút xong điếu thuốc, cảm thấy tinh thần sảng khoái, tôi bắt đầu công việc của mình.

Leo qua đoạn giao thông hào kế tiếp của trung đội 81, tôi thấy xen kẽ với các người lính 81 là một số lính thuộc đại đội 4 và vài anh thuộc tiểu đoàn 5 TQLC, các anh này đã chạy xuống đây sáng nay khi tuyến trên bị vỡ. Bước đến gần Nam, tôi hỏi:
- Sao, Nam bị thương nặng không? Lúc nào vậy?
- Chiều hôm qua sau khi anh chạy lên phía trước. Còn anh bị nặng lắm không?
- Một miểng nhỏ thôi, vào mặt.
- Nam bị thương chỗ nào?
- Bắp vế anh à! Nhưng không sao, còn đi được.
Tôi thông báo cho các anh em về tình hình hiện thời ở dưới bãi cát bờ biển, nhắc nhở các anh em tiết kiệm đạn, chỉ bắn khi nào nhìn thấy địch mà thôi. Mặt đối mặt chiến đấu anh dũng hơn là chạy đưa lưng làm bia cho địch.
Tôi đi trở về trung đội 90 ly và rất mừng vì hầu hết trung đội vẫn còn nguyên vẹn, trừ tôi và anh xạ thủ đại liên M-60 bị thương mà thôi.

Trăng vừa lên, trời vừa chập tối khoảng 7 giờ, nhiều tiếng người và tiếng động vang lên từ bãi biển, tôi gọi anh lính cạnh bên nói:
- Mày xuống coi có chuyện gì rồi lên nói cho tao biết.
- Dạ, Thiếu úy.
Anh lính nhảy lên khỏi hố và chạy xuống bờ biển. Năm phút sau anh chạy trở lên và gọi tôi.
- Thiếu úy ơi! Họ dzọt hết rồi.
Tôi quay qua gọi anh Vượng và các anh em trong trung đội 90 ly.
- Tất cả anh em 90 ly, bỏ tất cả những gì không cần thiết.
Tôi bước đến gần Nam và nói:
- Họ đi hết rồi Nam, tính sao đây?
- Ông anh quyết định giùm đi.
Tôi nói với các người lính trung đội 81 ly:
- Bây giờ dưới kia đi hết rồi, các anh có muốn đi hay ở lại thì tùy các anh.
- Thiếu úy cho dzọt chưa Thiếu úy?
- Bây giờ các anh có thể đi rồi.
Những người lính ở phía trung đội 81 ly bắt đầu nhảy ra khỏi giao thông hào, tôi quay về phía 90 ly và nói:
- Các anh em tan hàng, chúc may mắn!
Các người lính ở trung đội 90 ly chạy theo trung đội 81 ly ào ào xuống bờ biển. Nhìn thấy Nam còn ngồi với hai người lính ở ban chỉ huy trung đội 81 ly, bên cạnh là chiếc máy PRC-25 đã im lặng vô tuyến, chiếc máy PRC-25 của trung đội 90 ly bị trúng pháo bất khiển dụng, còn của trung đội 81 ly, tại sao Nam cắt đứt liên lạc với đại đội?
- Thôi mình đi chứ Nam, tôi lên tiếng.
- Dạ, ông anh cứ đi trước.

Không biết Nam quyết định gì lúc đó. Tôi quay người chạy nhanh xuống bãi biển, vừa chạy vừa suy nghĩ "Tại sao Nam bị thương từ tối hôm qua mà sáng hôm nay không được tải thương theo tàu Hải Quân? Nam bị thương ở bắp vế làm sao mà chạy được? Có phải tôi đã ích kỷ cho anh em bỏ chạy trong khi Nam bị thương không?". Tôi tự an ủi “Cả một Quân Đoàn 1 tiền phương còn bỏ chạy thì mấy chục anh em tôi làm được gì?”.
Ba mươi năm rồi chẳng nghe được tin gì về Thiếu úy Nam - Trung đội trưởng trung đội 81 ly, tiểu đoàn 7 TQLC. "Trông tin Nam"

Khi tôi và các người lính 90 ly chạy xuống tới bãi biển thì Thượng sĩ Ẩn - Thường vụ đại đội chỉ huy và hai anh lính thuộc đại đội chỉ huy còn đứng đó.
- Sao còn ở đây anh Ẩn, dzọt hết rồi hả?
- Tụi tui được lệnh chờ ông đây, Thiếu úy. Họ chạy cả nửa tiếng rồi. Tụi tui kêu quá mà không ai nghe cho đến khi một đứa do ông sai xuống đây chắc ông mới biết.
Chúng tôi nhập lại thành một đoàn chạy xuôi theo bờ biển về hướng Cửa Tư Hiền. Gió mát và tâm tư rối loạn trong đầu khiến tôi chẳng để ý gì nữa, chạy theo đoàn như một kẻ mộng du.
Tiếng Thượng sĩ Ẩn căn dặn hai người lính:
- Hai đứa mày chạy hai bên ổng, có gì thì dìu ổng đi.
Có lẽ anh ta sợ tôi bị vết thương hành, đuối sức chạy không nổi, nên anh chạy ngay sau lưng tôi.
- Khỏi lo anh Ẩn, tui còn khỏe mà.
Chạy được một đoạn, quá nặng trên đầu và nóng hầm hập, tôi vứt cả áo giáp và nón sắt, những người lính vây quanh tôi. Tôi nghe thoang thoáng đâu đây tiếng súng nổ, tiếng kêu réo gọi nhau hòa lẫn tiếng sóng biển.

Chúng tôi lại tiếp tục chạy, rải rác đó đây có những người lính ngã gục, chỗ thì từng toán chết nằm, chết ngồi. Những người này đã từng là chiến hữu của tôi đó. Tôi lặng người nhưng cũng không còn cảm giác nữa vì chính tôi bây giờ cũng là một kẻ đang dở sống dở chết mà thôi.
Nhìn lại phía sau lưng, một đoàn dài những kẻ đuối sức đang ráng bươn chải, hy vọng chạy cho thoát cái chết chóc đang gần kề, trong một sự sợ hãi đến tuyệt vọng.
- Chắc cũng gần tới Cửa Tư Hiền rồi. Anh Ẩn nói.
- Liệu anh bơi qua Cửa Tư Hiền nổi không?
- Một liều ba bảy cũng liều ông ơi!
Tôi nở một nụ cười thảm não thầm nghĩ "Bọn mình như cá trong rọ rồi".

Ánh trăng chênh chếch rọi vào từ hướng biển, ánh sáng nhảy múa đung đưa trên những ngọn sóng trông thật thảm não. Trăng trong thơ và nhạc sao trữ tình quá, còn trăng thực tại của những người chiến bại sao đầy buồn nản và tuyệt vọng!
Thời gian như dài ra vô tận theo nỗi ê chề trên đoạn đường tháo chạy nhục nhã của chúng tôi. Tôi nghĩ rằng hàng chục ngàn người lính trên bãi Thuận An đêm nay không ai biết được có một cuộc “di tản chiến thuật” lạ lùng đến như thế. Hình như chúng tôi được gom tụ lại đây để được bàn giao cho tiện việc sổ sách.
Đôi giày mua trong khu dân sinh Saigon làm thốn cả đôi chân, tôi chạy chậm lại rồi tháo vứt bỏ cả giày vớ. Cát ẩm mát lạnh dưới chân làm cho tôi tỉnh hẳn lại, chung quanh trên bãi biển, quần áo, giày dép, ba-lô v.v.. vứt bỏ bừa bãi cả một đoạn đường dài. Nếu lúc đó mà có ống kính ghi lại cuộc tháo chạy thảm thương này để mà xem thì chắc phải cười ra nước mắt.

Nhìn những người lính trẻ vô tư chạy quanh tôi, vừa chạy vừa sợ hãi nhưng vẫn hồn nhiên cười đùa, chẳng hề nghĩ đến và biết đến chuyện gì sẽ xảy ra.
- Đ.M., chạy làng anh em ơi!
- Một, hai, ba chúng ta cùng chạy.

Tôi cười to làm động đến vết thương bên má phải bị miểng pháo ghim hồi sáng đau điếng, máu lại rịn ra.Tôi tự hỏi không biết mình có đủ sức chạy tới Đà Nẵng hay không? (Chẳng có gì phải xấu hổ khi hôm nay tôi ngồi viết lại cuộc chạy làng thảm thương này).

Khoảng 9 giờ tối thì đoàn người khựng lại, có tiếng súng nổ phía trước và có vài người chạy ngược lại về phía chúng tôi. Đúng là tình cảnh cá nằm trong rọ chẳng biết đường nào ra.

Đoàn người lại xua nhau chạy về phía trước nhưng không xong. Tiếng AK nổ từng tràng chát chúa và ánh đèn pin chiếu loang loáng làm cho cả một dòng người khựng và dừng hẳn lại. "Cùng đường rồi". Lời ai nói đó có phải của tôi không?
Tôi lắc đầu ngồi bệt xuống bãi cát. Những người lính vây quanh tôi.
- Anh em mình phải cố gắng lo cho nhau, đừng làm điều gì dại dột, thiệt thân.
- Bây giờ mình làm gì, Thiếu úy?
- Anh em nào còn súng và lựu đạn thì quăng hết xuống biển đi.
Thượng sĩ Ẩn và những người lính đi về phía biển và quăng hết vũ khí xuống nước.
"Những người lính chiến chúng tôi, những con người bình thường vào sinh ra tử, chúng tôi không phải là anh hùng và chẳng có gì phải hổ thẹn..."
Nhớ tới câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên:

"Đời vốn chẳng nương người thất thế
Thì thôi ô nhục cũng là danh"

Sao những người lính miền Nam phải chịu một kết thúc bi thảm như thế này!

Bây giờ ngồi nghĩ lại, thấy miền Nam từ Tổng Thống, Thủ Tướng, Tổng Trưởng, Thứ Trưởng, Tướng Tá cao cấp hèn nhát bỏ chạy, vứt cả cờ quạt, mang theo tài sản cùng gia quyến thoát thân, bỏ mặc hàng triệu người lính chúng tôi trong lao tù Cộng Sản, còn thê thảm nào bằng!
Họ còn tư cách gì mà bày đặt viết hồi ký, bắt đầu bằng những cái "TÔI". Sao không bắt đầu bằng những cái "TỒI"?

Điều luật của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa là:
"Đào ngũ khi đối diện với địch quân. Tử hình...".

Vậy Tổng Thống, Thủ Tướng, Tướng Tá cao cấp đào ngũ, trốn chạy khi địch quân chưa tới, bỏ cả một triệu lính thuộc cấp, bỏ cả 20 triệu dân miền Nam thì xứng hợp với tội gì...?
Người dân quê hương tôi luôn rộng lượng đối với những kẻ bỏ chiến hữu, bỏ đồng bào này để cho họ sống trong nỗi nhục nhã của những tên đào ngũ trước địch quân. Nếu họ đừng khua môi múa mép làm trò Sơn Đông mãi võ, núp dưới chiêu bài giả hiệu, để tiếp tục lường gạt các người Việt tha hương, cũng như còn kẹt lại tại quê hương trong nghèo đói, làm nhục nhã tập thể những người lính chiến đấu cho tới giờ phút cuối cùng, để bị Việt Cộng trói quặt khuỷu cánh tay ra sau như anh em chúng tôi.

Chúng tôi bị bắt buộc ngồi tại chỗ hàng tiếng đồng hồ. Trăng bắt đầu lên cao, gió thổi mạnh, chúng tôi thấm lạnh, nhưng nỗi lạnh bên ngoài chưa bằng cái buốt lạnh trong tâm tư.
Vài người hô lớn lên:
- Lạnh quá anh bộ đội ơi!
- Cho đi lấy quần áo đi các anh ơi!
Họ ra lệnh cho những người lính thất trận chúng tôi xếp thành từng hàng. Đoàn người xáo trộn hẳn lên, người này gọi người kia, hỏi thăm các bạn thân còn mất.
Một anh lính Bắc quân nói thật lớn tiếng:
- Tất cả anh nào là Sĩ quan hãy bước ra khỏi hàng.
Một sự im lặng đột ngột và dùng dằng trong đoàn người tù binh.
- Tôi lập lại, tất cả các anh nào là Sĩ quan ra xếp hàng ở bên tay trái tôi.
Dòng người bắt đầu chuyển động, các Sĩ quan miền Nam bắt đầu bước ra khỏi đám đông. Những người lính vây quanh tôi lên tiếng:
- Ông đừng đi ra khỏi hàng, Thiếu úy.

Tôi im lặng bước ra khỏi đoàn người đến xếp hàng với những sĩ quan chiến bại của miền Nam.

Sau khi ngồi xuống đất, tôi lấy tay đào một lỗ dưới cát và chôn tất cả giấy tờ tùy thân, thẻ bài để chấm dứt một chặng đường binh nghiệp...
Quay qua nhìn các người bạn không quen chung quanh, tôi phân vân chẳng biết mình đang làm gì? Có lẽ chúng tôi, những người lính chiến đã hoài phí cả một tuổi thanh xuân của mình cho tham vọng ích kỷ của những người lãnh đạo, để được trả lại bằng "Ôi! Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi", và những năm tháng lao tù đang đợi chờ trước mặt. Ngẩng nhìn lên bầu trời cao, vầng trăng gần tròn trên đỉnh đầu, giờ này chắc đã nửa đêm.

Các toán du kích và các anh Bắc quân đem dây cước làm lưới đánh cá, trói quặt cánh khuỷu tay anh em chúng tôi ra sau "những người chiến bại", "những con cá nằm trên thớt!".
Nuốt lấy tiếng thở dài uất ức, tôi tự an ủi mình "Việc gì tới rồi cũng sẽ tới..."

Tôi viết bài này để nói rằng, những người lính tác chiến chúng tôi dù thua cuộc, dù tù đày nhưng vẫn hiên ngang trước những cư xử đầy ác cảm, đôi khi hận thù của một số người anh em ở bên kia chiến tuyến.
Chúng tôi không phải là anh hùng, chúng tôi là những kẻ sa cơ bị bỏ rơi. Chúng tôi càng không phải là những kẻ hèn nhát, đào ngũ khi đối diện với địch quân mà giờ này, nơi này họ lại khua môi múa mép, lợi dụng danh nghĩa của người lính làm những trò tồi bại.
Hàng ngàn, hàng trăm ngàn chiến hữu, thương phế binh QLVNCH bị bỏ rơi, còn kẹt lại tại quê hương trong đói nghèo. Nếu không giúp được họ thì xin đừng lợi dụng danh nghĩa của họ để làm điều xằng bậy...

Kính tặng tất cả những chiến hữu quen biết hoặc không quen biết, đã hy sinh hay còn sống sót trên bãi biển Thuận An đêm 26 rạng ngày 27 tháng 3 năm 1975. Kính tặng tất cả những người lính chân chính của QLVNCH.
Những "Chiến sĩ vô danh" không phải những kẻ "Hữu danh vô thực".
NGƯỢC DÒNG THỜI GIAN - TÌM VỀ NGUỒN CỘI

Tôi sinh Ra và lớn lên ở miền Nam, nhưng từ bé Bố đã kể cho tôi nghe về một miền quê nghèo với cuộc sống cần cù lam lũ của người dân miền Bắc, những hình ảnh đó và câu chuyện sau đây càng làm cho tôi mến yêu quê cha đất tổ.

Rời quê nghèo đầu thập niên 30's lên Hà Nội tìm kế sinh nhai và học lấy một nghề chuyên môn như ông bà at thường nói “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Đến đầu thập niên 40's, để mẹ và hai anh tôi ở lại quê nhà, Bố tôi vào Nam lập nghiệp. Sau gần mười năm xa cách, Bố Mẹ tôi đoàn tụ, anh chị em chúng tôi tiếp tục Ra đời và lớn lên ở miền Nam.

Thuở bé tôi học tại trường tiểu học Trương Minh Ký, sau đổi thành Nguyễn Thái Học, Trung học tại trường Nguyễn Trãi, sau đó là Đại học Khoa Học Sài Gòn.

Như hầu hết các thanh niên thời chiến, năm 1968 sau trận Tết Mậu Thân chúng tôi phải làm quen với súng ống qua chương trình Quân Sự Học Đường. Bị động viên vào đầu năm 1972 mùa hè đỏ lửa, tôi khoác lên người bộ áo rằn RI sọc ngang Thủy Quân Lục Chiến, trấn đóng tuyến đầu Quảng Trị cổ thành cho đến đầu năm 1975, từ giã màu áo hoa rừng để tròng vào người bộ áo tù sọc dọc, còn được gọi là quần áo sọc dưa, từ đó được học thêm nhiều điều cay đắng cũng như những sự nhẫn nại và chịu đựng trong đời.

Từ Thuận An về căn cứ La Sơn, Ra cây số 17 Phong Điền đến Lao Bảo Khe Sanh, về Cồn Tiên Ái Tử, và cho đến cuối tháng 9 năm 1977, một buổi sáng vào Thu, trên đoàn Xe Molotova khoảng 20 chiếc hướng về phương Bắc trên Quốc Lộ 1, hơn 400 anh em chúng tôi thuộc đoàn 76 cải tạo (tù ngụy) được đưa Ra Bắc trong công tác Lao động xã hội chủ nghĩa, vét đập Đô Lương, tỉnh Hà Tĩnh và khai quang lòng hồ sông Mực, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.
Nhìn những ánh mắt ngỡ ngàng thương xót của người dân miền Nam, dõi theo đoàn Xe chở chúng tôi Ra Bắc, anh em chúng tôi đâm Ra xốn xang lo lắng, có lẽ họ linh cảm một điều bất hạnh nào đó sẽ đến với chúng tôi.
Qua khỏi thị trấn Đông Hà, đoàn Xe tiến đến cầu Hiền Lương, một chiếc cầu nhỏ bắc ngang sông Bến Hải trên vĩ tuyến 17.
Chiếc cầu trở thành nổi tiếng trong lịch sử vì đã là một địa điểm mà các thế lực từ thực dân Pháp, tư bản Mỹ đến cộng sản Nga Hoa đã dùng để chia cắt dân tôi hơn 20 năm. Xe bắt đầu lên cầu, nước sông Bến Hải trong xanh nhưng tôi cảm thấy một luồng khí lạnh thấm vào hồn. Cầu Hiền Lương theo tôi nghĩ nên được đổi tên là cầu Thê Lương vì nó đã ngăn cách Bắc Nam, làm cho hơn hai triệu đồng bào tôi phải bỏ mình trong cuộc chiến.
Tôi mường tượng Ra hình ảnh sau hiệp định Geneve 20/7/1954, từng đoàn người lũ lượt qua cầu vào miền Nam mặc cho sự ngăn cản của chính quyền miền Bắc cả ngày lẫn đêm. Lời nhạc trong bài hát “Chuyến đò vĩ tuyến” của Lam Phương làm xúc động tâm hồn, “Sao at lìa cách bởi dòng sông bạc đôi màu...”.
Dòng nước sông không bạc, mà cũng chẳng đôi màu, chỉ có chăng màu máu và nước mắt mà dân tôi phải đổ Ra hơn 20 năm chia cắt. Người nhạc sĩ trẻ miền Nam đã linh cảm hai màu này chăng?
Đến bờ Bắc của cầu Thê Lương, tôi thật sự cảm động thấy như mình đang ngược dòng thời gian trở lại thời trước năm 1954, quốc lộ 1 ở miền Bắc nhỏ hẳn lại, các xóm làng hai bên đường tiêu điều, thưa thớt, nghèo nàn, dân miền Bắc ốm o, tiều tụy, khô héo như cây thiếu nước, đồng ruộng xơ xác, hoang tàn, chẳng thấy bóng trâu bò, gia súc.
Đoàn Xe chở chúng tôi chạy suốt buổi trưa trên quốc lộ 1 hướng về cảng Đồng Hới, dọc đường chúng tôi được dừng nghỉ giải Lao và trút bớt bầu tâm sự mang nặng trong người. Cảng Đồng Hới tôi được học trong Địa Lý là một hải cảng khá lớn ở miền Trung, thật sự lại quá bé nhỏ lạc hậu so với các hải cảng nhỏ ở miền Nam mà tôi được biết, tàu bè nhỏ bé thưa thớt, bến cảng có vẻ tiêu điều, có lẽ hậu quả của những trận bom từ thời Mỹ tấn công miền Bắc vẫn còn là một gánh nặng cho người dân cảng đến bây giờ.
Rời Đồng Hới, chúng tôi trực chỉ thành phố kỹ nghệ Vinh và đến thành phố vào khoảng 2 giờ 30 chiều. Gọi là thành phố nhưng Vinh chỉ vào khoảng một tỉnh lỵ nhỏ ở miền Nam. Những ngôi nhà Chung cư do Đông Đức xây cất vào những năm 60's quá nhỏ và thiếu vững chắc, không được như khu chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn. Đường phố thưa thớt người đi lại, không có những khu phố thương mại dọc theo quốc lộ như các tỉnh lỵ miền Nam, vì xã hội chủ nghĩa không được làm ăn cá thể, không có những cửa hàng tư nhân, lưa thưa vài cửa hàng quốc doanh, vài trụ sở của hợp tác xã, đường phố buồn tẻ, không thấy các bảng quảng cáo, thiếu vắng những màu sắc tươi mát, quần áo chủ yếu là màu nâu, đen, trắng, kaki vàng của công an và xanh lá cây của bộ đội, chỉ chưa đầy mười phút đoàn xe đã ra khỏi thành phố Vinh.

Trực chỉ hướng Bắc trên quốc lộ 1, khoảng hơn 4 giờ chiều chúng tôi đến Đèo Ngang. Sau hơn 15 phút leo dốc, đoàn xe được dừng lại trên đỉnh đèo. Đèo Ngang không cao lắm, nhìn về hướng Đông là biển, trời và nước mênh mông, hướng Tây là núi chạy ra tới biển, hướng Nam là đường về khúc khuỷu gập ghềnh, hướng Bắc là đường đi xa xôi chưa đến, xế về hướng Tây Bắc là một ngôi làng nhỏ hoặc chợ làng. Tôi chợ nhớ tới bài thơ “Qua Đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan được học năm lớp 8.

"Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông rợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta"

Hơn 400 anh em chúng tôi, 400 mảnh tình riêng nhưng không thể nói ra. Quay người nhìn về phương Nam, tôi cảm thấy như đi ngược thời gian về một trăm năm mươi năm trước, được trông thấy đoàn xe của Bà Huyện Thanh Quan đang ngược chiều trên Đèo Ngang, vượt qua chúng tôi trên đường từ Thăng Long vào Thuận Hóa để làm thầy giáo cho các con vua Minh Mạng. Từ bấy đến nay cảnh vật vẫn không hề đổi thay, dân tôi vẫn đói nghèo, lam lũ...
Trời hơi chập choạng tối khi chúng tôi đến Đô Lương, cắm trại trên một khu đất trống cách đó hơn nửa cây số. Mệt nhoài, đêm hôm đó nằm nghe dế kêu, tôi thả hồn vào giấc ngủ.

Buổi sáng đầu tiên ở miền Bắc sao im vắng lạ lùng. Tôi không nghe tiếng kẻng báo thức, có lẽ anh bộ đội trực ban chưa tìm ra một mảnh vỏ đạn để gõ hay sao đây? Hai ngày đầu chuẩn bị, chúng tôi được nhận dụng cụ, rổ rá, cuốc xẻng và những càng tải đất. Thời gian ở Đô Lương thật ngắn ngủi, tổng cộng chỉ khoảng hơn một tháng.
Chúng tôi phải gấp rút tiếp tay cùng thanh niên xung phong ở đây, mở rộng lòng kênh cho kịp mùa nước lũ ở sông Mã chảy về để tưới tiêu cho Đô Lương và hai huyện phụ cận. Đào, cuốc, gánh, tải đất đá từ lòng và hai bên bờ đập để đắp cao bờ đê, ba tuần làm việc ở Đô Lương rồi cũng chóng vánh trôi qua.
Một hôm tôi nhận nhiệm vụ trực khối, gánh cơm, nước cho các bạn ở hiện trường. Trên đường từ nhà bếp đến bãi, tôi gặp một toán thanh niên trẻ đang đào giếng, một cô gái trạc đôi mươi gọi tôi:
- Anh ơi! Anh gánh cái gì thế?
- Gánh nước cho các anh em ngoài bãi.
- Cho chúng em uống với.
Tôi dừng gánh lại cho mỗi người lấy một lon nước. Chắc đó chỉ là cái cớ thôi, vì tôi vừa đặt gánh nước xuống là các cô đã nhao nhao hỏi ngay:
- Anh ở đâu trong Nam thế?
- Sài Gòn.
- Trong ấy đẹp lắm anh nhỉ?
......
- Các bác với chị ấy có ra thăm anh không?
......
Họ hỏi tôi đủ thứ chuyện, tôi vui vẻ và thành thật trả lời. Một cô bé trẻ nhất trong đám thốt lên:
- Các anh trong Nam nói chuyện nghe lịch sự quá, chả bù với các đằng ấy ở đây!
Anh con trai, có lẽ là trưởng toán lên tiếng:
- Thôi, để anh ấy đi, các anh ngoài bãi đang chờ.
Tôi chưa kịp bước đi thì một anh bộ đội thuộc đoàn 76 bước về phía tôi và vẫy tay gọi:
- Anh làm gì thế, anh phản tuyên truyền đấy à?
- Tôi có làm gì đâu cán bộ. Họ xin nước, tôi chỉ cho mỗi người một ca thôi.
- Tôi thấy anh đứng đấy lâu lắm đấy nhé, anh có muốn kỷ luật thì tôi cho anh biết.
Tôi vội vã gánh đôi thùng nước và rảo bước đi. Anh bộ đội bám gót tôi hỏi:
- Anh ở đội nào, chiều nay anh biết tôi.
Giọng các cô gái nhao nhao nói vói theo:
- Anh ấy không có nói gì đâu, chúng em chỉ xin nước thôi.
Có lẽ các cô ấy không biết đã châm thêm dầu vào lửa. Suốt buổi tối hôm ấy tôi cảm thấy hơi lo vì lời hăm dọa của người bộ đội ban chiều, nhưng cuối cùng tự nhủ "việc gì đến cũng sẽ đến...". Tôi thấp thỏm hàng ngày chờ cú đòn thù cho đến khi rời khỏi Đô Lương, "việc gì qua cũng sẽ qua...", có lẽ anh bộ đội ấy đã quên chuyện này rồi.

Buổi chiều cuối cùng làm việc ở đập Đô Lương, nước được tháo vào. Nhìn lòng kênh dâng nước lên, chúng tôi cảm thấy vui lây với lòng dân ở ba huyện này, mong rằng năm nay và về sau họ sẽ đủ nước tưới tiêu, được mùa thu hoạch.
Tuần cuối cùng ở Đô Lương chúng tôi được nghỉ bồi dưỡng ba ngày để giặt giũ và chuẩn bị cho công tác kế tiếp vào Nông Cống, Thanh Hóa.

Sáng Chủ Nhật trước khi rời Đô Lương, tôi tình nguyện vào một toán mười người ra chợ huyện gánh rau quả cho Đội.
Chợ Đô Lương nhỏ bé, nghèo nàn, cũng như hầu hết những người dân tôi ở miền Bắc gầy gò chịu đựng. Trên con đường nhựa độc nhất chạy xuyên qua huyện, tôi thấy vài cửa hàng hợp tác xã bán những thứ hàng chẳng ra hàng, thế mà cũng phải có tem phiếu ưu tiên cho công nhân viên mới được mua, khó khăn như thế thì chừng nào mới đến lượt dân đen hoặc người tù. Cửa hàng ăn mậu dịch bán phở chỉ có vài người khách lèo tèo, có lẽ dân ở đây không thừa tiền ăn hàng, hoặc là ăn ở nhà ngon hơn hàng quán nên chẳng mấy ai buồn đến phở quốc doanh.
Theo chân anh cán bộ hướng dẫn vào trong chợ, trong khi chờ đợi anh ta mặc cả với các bạn hàng, tôi mon men đến một sạp gần đó hỏi nhỏ bà bán hàng: "Bác biết ở đâu có bán thịt gà, thịt vịt chỉ cho cháu?". Bà trả lời: "Làm gì có gà, vịt mà bán chứ anh!". Tôi đi rảo một vòng thì hết chợ, chỉ thấy khoai, sắn, thóc mà chẳng thấy gạo, vài hàng mì sợi khô, có lẽ từ một cửa hàng gia công trước mặt chợ đem vào. Chợ bán chủ yếu là rau quả, hàng gia vị thiếu thốn nghèo nàn làm tôi thấy mủi lòng!

Bài thơ “Chợ Phiên” tôi được học thuở bé, mới hừng đông đã kẻo kịt quang gánh, gà vịt, lợn bò, mà ở đây tôi chẳng thấy gì cả. Không mua được gì, tôi quay qua hàng bánh lá mua lấy vài cái bánh lót lòng để có sức gánh về.
Sau khi chất đầy gánh rau, tôi ra trước cổng chợ chờ cho đầy đủ anh em trong đội.
Ngay góc đường nơi chúng tôi đứng đợi có sạp hàng nước. Bà bán nước vối ngồi dưới một tấm liếp tranh, trên chiếc bàn tre xiêu vẹo có một cái lọ thủy tinh trong đựng vài chục chiếc kẹo vừng, một tủ kính nhỏ có vài gói thuốc lá xé dở, mỗi người khách dừng lại trả vài xu, bà lại lấy gáo khoáy vào lon nước rửa, rồi múc lấy gáo nước rót vào bát đoạn đưa cho khách.

Đầu óc tôi xoay vần, tôi đã được nhìn thấy cảnh này ở đâu đó, nhà văn Thạch Lam trong Tự Lực Văn Đoàn diễn tả cách đây 40 năm rồi mà sao vẫn không thay đổi, vẫn cái bàn xiêu vẹo, nồi nước vối, tấm liếp tranh, lọ kẹo vừng, tủ thuốc lá, chẳng lẽ bà bán nước vối ngồi ở đây từ bấy đến giờ?
Rảo mắt ngó qua phía bên kia đường, tai nghe tiếng chuông nhà thờ gần đó, tôi thấy có hai mẹ con trên đường đến nhà thờ. Bà mẹ khoảng hơn năm mươi tuổi, chị con gái xấp xỉ ba mươi, dắt nhau vào phía sau một thân cây to gần đó, mỗi người mang bên nách một gói giấy, đi chân đất. Mười phút sau họ bước ra từ sau thân cây, trên thân mỗi người bây giờ là một chiếc áo dài đen luộm thuộm còn hằn rõ nếp gấp; hai mẹ con đi guốc, gói giấy kẹp dưới nách, lầm lũi đi về phía nhà thờ. Tôi quay qua hỏi bà hàng nước:
- Ngoài này mỗi năm bác được mua bao nhiêu mét vải?
Bà trả lời:
- Mười năm nay có được mét nào đâu anh!
Sao lại có những cảnh đọa đày dân tôi thế? Chẳng lẽ cả cuộc đời họ cứ chờ đợi đến ngày Chủ Nhật đi lễ mới được mặc áo dài và mang guốc hay sao? Chiếc áo dài cũ kỹ, xấu xí, đôi guốc vông mộc mạc là cả một gia tài trong suốt cuộc đời họ à?

Trên đường về anh em chúng tôi im lặng, cái háo hức ra chợ xem thử dân tình không còn nữa. Quê tôi nghèo nàn quá! Dân tôi bất hạnh quá! Đất nước tôi bị đày đọa quá!
Nhớ lại bức thư một người chú của anh bạn, một "thương binh tự túc", từ miền Bắc gửi cho anh để động viên anh cố gắng học tập lúc ở Cồn Tiên. Tôi hỏi anh "tự túc" nghĩa là gì. Anh ấy trả lời, ông chú bị thương thời kháng Pháp, bị cụt cả hai tay nhưng không được hưởng trợ cấp, chỉ được ưu tiên không phải làm việc đồng áng, hàng ngày dùng đôi chân đạp guồng máy dệt để lấy công điểm, vừa đạp vừa ước mơ có được một chiếc xe đạp Phượng Hoàng cho cả gia đình có phương tiện đi lại. Đã gần hết thế kỷ 20 mà dân tôi vẫn còn những ước mơ tội nghiệp như thế đấy, cứ như những ước mơ trong tác phẩm “Con trâu cái” của tác giả Trần Tiêu ở nửa đầu thế kỷ 20.

Ngày tháng tiếp tục trôi, chúng tôi lại lên đường ngược dòng về phương Bắc. Sau cả một buổi sáng dằn xóc vì ổ gà, chúng tôi đến sông Gianh. Bờ sông thoai thoải, lòng sông rộng. Vì không có cầu, chúng tôi phải chờ qua phà. Không ai được xuống xe. Phà ra đến giữa sông; sông sâu nước chảy mạnh, gió thổi rát cả mặt. Lẫn trong gió tôi nghe như có tiếng kêu gào rên xiết của dân tôi trong cuộc Nam Bắc phân tranh gần 300 năm giữa hai dòng họ Trịnh - Nguyễn.

“Ôi sông Gianh tiếng oán hờn trong gió!”. Chưa có một dân tộc nào bị chia cắt nhiều lần và dài đăng đẳng như dân tôi. Phải chăng đó là một lời nguyền?

Tôi hồi tưởng lại câu chuyện ngắn của một chiến binh Thủy Quân Lục Chiến đăng trên nguyệt san Sóng Thần vào năm 1973, lời mở đầu: “Nếu huyền thoại về một người dân Hời nào đó đứng trên đỉnh Ba Lòng nhìn xuống cuộc Nam chinh của người dân Việt mà thốt lên lời nguyền vong quốc...”, có lẽ dân miền Trung nói riêng và cả dân tộc tôi nói chung phải hứng chịu tai ương của lời nguyền đó.

Tôi đã đi ngược thời gian suốt một chặng đường để trở về nhìn lại quê hương mà tôi ước mơ từ thuở bé, nhưng sao chỉ nhìn thấy toàn những đau thương đến với mọi người.

Đoàn xe trực chỉ Thanh Hóa, khoảng một tiếng sau chúng tôi rời quốc lộ 1 để đi về hướng Tây, xe đánh một vòng cung gần 180 độ. Tôi nhìn thấy mái phía sau của một ngôi nhà tương đối rộng, một nửa lợp tranh, một nửa mái ngói đỏ. Gần năm phút sau thì xe chạy qua trước mặt ngôi nhà đó, thì ra là trụ sở của một cơ quan huyện Nông Cống, nửa mái ngói phía trước đã phai màu, nửa còn lại đã bám rêu. Tò mò tôi hỏi anh bộ đội trên xe của chúng tôi sao lại có cái mái nhà lạ lùng như vậy.
Anh trả lời, "Thế đấy anh ơi, năm nào hợp tác xã Ngói phân phối bao nhiêu thì lợp bấy nhiêu". Tôi buột miệng nói thầm "Cơm độn khoai, độn sắn, độn bo bo. Nói độn Hán chẳng ra Hán, Nôm chẳng ra Nôm. Bây giờ mái nhà cũng độn nửa tranh, nửa ngói!".

Con đường vùng núi đất đỏ sình lầy hơn sau một cơn mưa không lớn lắm, tuy nhiên chúng tôi vẫn phải lấy những tấm ny lông được phát trước khi đi, trùm vội vàng cho khỏi ướt. Phía trước mặt vắng tanh, đồng không mông quạnh, phía sau những ngôi nhà đã nhỏ bé hẳn lại. Đoàn xe cứ tiếp tục lăn những vòng bánh rã rời mệt mỏi và chịu đựng, cũng như dân tộc tôi đã từng rã rời mệt mỏi và chịu đừng hàng bao nhiêu năm qua. Nhớ ngày ở Cồn Tiên, lần đầu chúng tôi đi công tác về phía đường cái, có anh bạn đi ngoài trại về kể lại cho anh em chúng tôi hay anh thấy một cái bảng “dấu hiệu đi đường” rất lạ vẽ hình một người đi xe đạp, chở theo một con heo kêu eng éc và còn có những nốt nhạc trong bảng dấu hiệu đó. Một anh khác nói:
- Mẹ, mầy nói phét, làm gì có cái bảng đi đường kỳ lạ đó?
Anh nọ cười trả lời:
- Thì nó có nghĩa là “đèo heo hút gió đấy”, mày không biết à!
Bây giờ chúng tôi lại rời xa miền đeo heo hút gió ấy để đi sâu hơn vào một miền núi cao, vực thẳm.
Cụ Nguyễn Công Trứ thời làm quan đã khẩn hoang, lập nên hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải. Thời bị đi đày làm lính thú ở Nông Cống, Thanh Hóa có làm những bài hát nói đầy hùng khí mà tôi còn thuộc lòng như bài “Kẻ Sĩ” và “Chí Làm Trai”.

" Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí..."

Hoặc:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể..."

Giờ đây hơn 400 kẻ sĩ chúng tôi được cấp phát dao rựa, cày cuốc, búa rìu. Nhớ ngày xưa “Xếp bút nghiên lo việc kiếm cung”, nay chẳng lẽ lại phải vùi thây nơi đáy hồ sông Mực?
Nghe anh bộ đội chân thành kể chuyện về Bác và Đảng cho khai quang lòng hồ sông Mực để đem cá lên núi, nuôi và gây giống, tôi chỉ tội cho anh bị lường gạt và thương cho sự hiểu biết nông cạn của dân tôi.

Kỷ niệm lúc ở Cồn Tiên lại hiện về. Tôi nhớ anh vệ binh tên Thuật, dẫn chúng tôi đi lao động cuốc đất. Khi đo anh nói: “Anh này cuốc bề ngang 2 mét, dài 20 mét, thế là 40 mét vuông”. Một hôm tôi cuốc bìa ngoài, đụng phải đường cái. Anh Thuật lại đo và nói: “Anh này cuốc hình tam giác, cạnh đáy 3 mét, chiều cao 15 mét, thế là 45 mét vuông”.
Từ đó anh em chúng tôi ai cũng tranh nhau cuốc hình tam giác. Các lô đất chúng tôi cuốc trông chẳng ra hình dáng gì cả. Kẻ cuốc ngang, người cuốc dọc, đâm tán loạn vào nhau để cố tạo ra cho được những hình tam giác. Anh Thuật bị đậu mùa từ thuở bé, thế là chúng tôi đặt cho anh một cái tên rất thích hợp là “Con Bò Lục”. Từ xa nhìn thấy anh chúng tôi nói ngay “Con Bò Lục đến tụi bay ơi!”. Sau biết được nhưng anh không giận, chỉ tủi thân nói “Các anh cứ trêu tôi hoài”. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy có lỗi đối với sự thật thà chất phác của anh.

Đoàn xe bắt đầu chạy đâm vào một khu rừng, sau một hồi lên đồi xuống dốc, đổ chúng tôi xuống một nơi núi rừng thâm u, chằng chịt cây cối xung quanh, đâu đây nghe tiếng nước chảy xiết, sau này biết ra thì chúng tôi ở thượng nguồn sông Mực. Mệt nhoài nhưng chúng tôi phải phát quang, dọn dẹp ngay để có chỗ ngủ và dựng nhà. Cực nhất là những anh em nhà bếp, phải đắp vội vàng những cái bếp để nấu ăn cho cả đội.
Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu làm nhà. Tôi bắt đầu biết được loại tranh nứa. Đó là những ống nứa đập giập xẻ dọc, chặt ra thành những đoạn dài 70 đến 80 phân, kết vào nhau bằng những sợi nứa, cột thành từng tấm tranh, xếp chồng lên nhau, gối nhau khoảng 1/4 tấm tranh; nhìn lên mái nhà thấy ánh sáng xuyên qua, nhưng mưa thì không dột.

Một hôm tổ chúng tôi được phân công chặt nứa bên kia sông, mỗi người một bó 15 cây . Nước sông Mực cuối năm lạnh cóng, sáng sớm chúng tôi phải thức dậy ra bờ sông. Hai bờ sông chỉ cách nhau khoảng 20 mét. Nước chảy khá nhanh và mạnh, chúng tôi phải sexy 100% để bơi qua sông. Ôi chao những thân hình tù tội gầy guộc!!!
Chúng tôi cởi bỏ tất cả quần áo, cho vào trong tấm ny-lông, buộc chặt vào trong cánh tay. Muốn bơi qua bờ bên kia, chúng tôi phải đi ngược lên trên khoảng 30 mét, rồi thả trôi theo dòng nước, chỉ bơi một tay, còn tay kia giữ bọc ny-lông, giơ cao qua khỏi đầu cho đừng ướt.
Nhớ năm học lớp Đệ Tứ ở trường Nguyễn Trãi, Bách nhắn tôi vào trường sớm trước 1 giờ trưa. Hai chúng tôi lẻn vào lớp học. Bách lấy ra một ổ khóa, khóa trái cửa lại. Chúng tôi kéo bàn ghế chận cửa ra vào, rồi leo cửa sổ ra, canh cho chốt cửa sổ rớt đúng vào khe, sau đó xếp hàng vào lớp bình thường với các bạn như không biết gì cả. Cửa khóa không vào lớp được và không còn phòng trống, chúng tôi được cho nghỉ học. Thế là lũ chúng tôi khoảng hơn 10 học sinh kéo nhau về sông cầu Tân Thuận, đến một bãi rác Mỹ gần đấy, nhặt lấy những ống giấy đạn đại bác làm phao bơi ra giữa sông. Tôi biết bơi từ những ngày ấy.
Dòng nước đưa chúng tôi đến bờ bên kia. Chỉ mới hơn 5 phút ngâm nước mà người tôi đã đỏ rần, lạnh cóng, răng đánh bò cạp, vội vàng mặt tất cả quần áo mang theo vào, choàng lấy tấm ny-lông lên vai, lao vào rừng chặt lấy, chặt để, miệng lầm bầm chửi “Tiên sư cha mầy...! Tiên sư bố mày...! Tiên sư cha mầy thằng chết băm! Tiên sư cha mầy thằng chết vằm!".
Vừa làm vừa chửi để trấn áp bớt cơn lạnh và đói cũng như trút bớt đi những bực tức trong lòng, chưa được ăn sáng mà cảm thấy như đã mất tiêu buổi sáng rồi.
Chuyến về còn khổ hơn, phải kéo bó nứa xa hơn đến 50 mét, thế mà vẫn bị nước đẩy, trôi xa khỏi bờ về một khoảng dài, vội vàng tròng hết cả quần áo vào người, vác bó nứa mà chạy như bay hầu cảm thấy được chút hơi ấm.

Rừng càng ngày càng được khai quang bởi sức bọn tù chúng tôi. Khoảng một tháng sau, chúng tôi chạm đến con đường đất đỏ đưa chúng tôi vào đây lúc trước. Thế là cứ một tuần 6 ngày, một ngày 8 tiếng, cộng thêm tranh thủ lao động trước và sau giờ làm, cộng thêm cách tuần lao động xã hội chủ nghĩa sáng chủ nhật, anh em chúng tôi hao mòn dần theo thời gian.

Một buổi chiều về trại với bó nứa tranh thủ trên vai. Tôi tưởng mình nhấc chân sẽ cao hơn sợi dây leo dưới đất, nhưng không..., thế là vấp ngã, nứa một nơi, rựa một nẻo, còn người thì nằm một đống chán chường. Ngửa mặt nhìn trời cho hết cơn mệt, tôi ngồi dậy gom nứa, gom dao, thất thểu từng bước nặng nhọc trở về trại.

Một hôm trên đường chúng tôi gặp một chú bé trai khoảng mười hai, mười ba tuổi, người còm cõi, đi nhặt những cành cây làm củi. Động lòng thương, một vài anh trong đội chặt cho chú bé một gánh củi, còn làm thêm một cái đòn xóc thật gọn cho chú bé. Thằng bé từ chối với lý do là không được mang cây tươi về làng, chỉ được nhặt cây khô và mục mà thôi. Đâm nản, một anh nổi cáu "Thế thì mày đi tìm củi mục đi, làm cho mà lại chê!". Chúng tôi thực sự không biết là mang cây tươi về làng sẽ bị phạt vạ. Anh khác thấy thằng bé ngơ ngác tội nghiệp, múc cho thằng bé một chén chè đậu xanh, đường và đậu anh em chúng tôi cắc củm để dành khá lâu mới có được nồi chè. Thằng bé ăn lấy ăn để, hít hà vì nóng, miệng hỏi:
- Cái gì ngon thế các chú?
- Chè đậu xanh đấy, mầy chưa ăn bao giờ à! Một anh trả lời.
- Từ bé đến giờ cháu mới được ăn lần đầu tiên đấy!
Anh bạn tôi bật cười về sự ngây thơ thật thà của thằng bé nhưng đôi mắt anh rướm lệ, có lẽ anh đang nghĩ về những đứa con của mình ở miền Nam vắng cha, chắc cũng đang thèm thuồng một chén chè đậu như thằng bé đáng thương này. Thế hệ tương lai của dân tộc tôi đấy à!!!, thiếu cả niềm vui thật nhỏ nhoi từ khi còn bé.

Tết ở miền Bắc chúng tôi được nghỉ sớm ngày 30 và 3 ngày Tết. Đội chúng tôi được phân phối một con trâu thịt và con trâu này được tiêu thụ một cách tận tình. Chỉ có phân, lông, hai hàm răng và bốn cái móng là được vất đi thôi. Hai cái sừng được các anh nhà bếp lấy làm đồ trang sức như lược, nhẫn, còn tất cả được tiêu thụ gọn gàng. Chúng tôi được phát những bát canh da trâu hầm nhừ như thạch cao, hoặc canh xương trâu lổn nhổn, thịt thì được chặt to kho mặn. Một anh bạn nhái giọng các anh cán bộ miền Bắc lúc lên lớp.
- “Nàm thì nười, không lói thì nơ nà, lói thì bảo người ta nấy ne, nễ nớn thì đòi ăn thịt trâu, thịt nợn”. *(một số người Bắc phát âm chữ “N” thành “L” hay ngược lại)*
Chúng tôi được phát kẹo và rượu chanh quốc doanh để hơi cay và chua trấn áp bớt mùi mỡ trâu.
Cả năm trời không có chất béo, chất ngọt, vì thế ba ngày Tết, lăng cụ Hồ là nơi chúng tôi xếp hàng viếng thăm nhiều nhất; có anh ở lăng cụ còn nhiều hơn ở trong lán. Đêm nằm nghe tiếng pháo nổ râm ran, mùi thuốc pháo ngửi vào ngộp thở, bụng anh nào anh nấy sôi sùng sục, thế là một màn thuốc Nam, thuốc lá cây dễ tiêu khắp nơi diễn ra suốt mấy ngày Tết. Nằm ngay gần cửa tôi còn thở được, chỉ tội các anh nằm ở giữa nhà chỉ biết rủa tên cúng cơm của Bác.
Ngày vui qua nhanh, mùng 4 tết chúng tôi uể oải bắt tay trở lại lao động một cách biếng nhác, rã rời.

Lòng hồ sông Mực bắt đầu hiện ra lởm chởm, nham nhở như một cái lòng chảo không đẹp mắt vì những chỗ cao, chỗ thấp không đều. Những chỗ cao thì cây trụi lủi, những chỗ thấp thì cây cối vẫn còn rậm rạp. Thì ra bản đồ không chính xác. Song song với công tác khai quang, mỗi khối phải cử 3, 4 người đi sửa chữa những nơi còn sót lại.

Suốt thời gian ở miền Bắc chúng tôi chẳng bao giờ được bữa ăn no, bữa sáng được 200 gr bột mì, bữa trưa 250 gr, bữa chiều 250 gr. Bột mì được vò thành những miếng tròn như lòng bàn tay, anh em chúng tôi gọi đùa "một ngày tiêu chuẩn ba bánh xe". Thời gian đầu không có rau xanh, chúng tôi hái những đọt tàu bay, đôi khi không luộc được, phải ăn sống, mùi rau tươi cay nồng, phải ráng nhai và nuốt cho có chút rau cỏ.

Có một ngày Chủ Nhật không phải lao động xã hội chủ nghĩa và không được ăn sáng, đói quá tôi rủ Thành, người Mỹ Tho, hai chúng tôi lần theo tiếng gà gáy, leo qua hai ngọn đồi nhỏ, quên cả những nguy hiểm có thể xảy ra, chúng tôi thấy một ngôi làng nhỏ, lần theo dốc ngọn đồi để xuống làng. Bước vào căn nhà đầu tiên, tôi hỏi người đàn bà vừa bước ra cửa:
- Bác có gạo bán cho tôi vài cân.
Bà xua tay bảo:
- Ở đây không có gạo bán đâu, các anh đi nơi khác cho.
Có lẽ bà ta sợ liên hệ với chúng tôi. Đi lần vào trong, ngôi nhà thứ hai và thứ ba cũng như thế, không ai dám tiếp xúc và buôn bán gì với chúng tôi. Vào gần tới giữa làng tôi nghe tiếng vọng cổ phát ra từ một ngôi nhà bên phải, tôi kéo Thành bước nhanh về phía đó.
Bước vào sân tôi trông thấy một thanh niên trẻ khoảng hơn 20 tuổi, tôi hỏi vội:
- Anh có gạo bán cho tôi vài cân.
Anh thanh niên trả lời:
- Không có đâu anh, chỉ có khoai sắn, các anh có ăn em để lại cho, 5 hào một cân.
Tôi xin được nấu nhờ bếp, anh vui vẻ chỉ cho tôi bếp, nồi và nước rửa khoai. Vừa châm bếp lửa tôi vừa hỏi:
- Anh nghe vọng cổ mà anh có biết ai hát không?
- Biết chứ anh, Thanh Kim Huệ và Minh Vương.
- Sao anh biết đó là Thanh Kim Huệ và Minh Vương?
- Năm 75 em theo đoàn quân vào tới Sài Gòn, đóng quân bên cầu chữ Y, ở nhà một bà mẹ chiến sĩ, cuối tuần bà thường dắt chúng em đi xem cải lương ở rạp Nguyễn Văn Hảo.

Ký ức tràn về trong tôi như cuốn phim quay chậm. Ngồi nhìn anh nói, tôi như muốn nuốt những lời đó vào lòng.

Từ Đại học Khoa Học Sài Gòn, theo đường Cộng Hòa, chạy xuống ngã tư Nancy, quẹo phải ở đường Trần Hưng Đạo, quẹo trái Nguyễn Biểu, góc đường là rạp hát Văn Cầm, chạy thẳng xuống cây cầu chữ Y, một phía qua lò heo Chánh Hưng, một phía về nhà đèn Chợ Quán, hay dọc theo đường bến Chương Dương đi về phía Cầu Kho, leo đò ngang qua rạch Bến Nghé để đi về phía cầu Dừa, hoặc quẹo trái trên đường Trần Hưng Đạo để đi về phía rạp Nguyễn Văn Hảo... Ôi! Những địa điểm mà tôi đã đi qua, từ tuổi thơ cho đến ngày trưởng thành, tôi thuộc lòng nhiều ngõ ngách, những tên đường của cái thành phố mà tôi đã được sinh ra và lớn lên, từ ngôi nhà mà Bố tôi đã gầy dựng trên đường Hồng Thập Tự khi ông vào Nam hơn 30 năm trước.
Nhớ những buổi trưa chị em tôi đi học sớm, ráng leo lên gần mười bậc cấp của rạp Nguyễn Văn Hào để cố xin cho bằng được tờ chương trình của tuồng cải lương mới "Gánh Hàng Hoa", "Đời Cô Lựu", "Con Gái Chị Hằng", "Sơn Nữ Phà Ca"..., hoặc để được nhìn ngắm các tấm posters, chân dung màu sặc sỡ của Thanh Nga, Ngọc Giàu, Hữu Phước, Hoàng Giang... Tôi nhớ như in hình ảnh một chú bé đừng trên những bậc thềm của rạp Nguyễn Văn Hảo gần 20 năm trước, nhìn về phía trường Trương Minh Ký nơi tôi theo học thuở ấu thơ, cách đó chỉ một góc đường, hình ảnh đó sao thật gần mà như xa xôi quá...
Tối hôm ấy tôi không ngủ được, phần vì quá no, phần vì nhớ nhà, cũng có thể vì tủi thân tù tội.

Một hôm đội tôi công tác gần với các toán thanh niên xung phong, họ thăm hỏi và chúc chúng tôi ra về mạnh giỏi. Những tin đồn sắp đến ngày về cũng làm cho anh em chúng tôi cảm thấy ấm lòng, rồi thì ngày đó cũng đến thật. Chúng tôi được nghỉ, thu xếp gọn gàng chờ xe đến đón.
Ngày rời lòng hồ sông Mực, những toán nhân công và thanh niên xung phong làm việc hai bên đường vẫy tay chào và chúc chúng tôi ra về được bình an. Tôi cảm thấy bản chát những người dân đen cùng khổ từ Bắc chí Nam, lúc nào cũng rộng lượng thương người.

Lúc ra miền Bắc, mỗi lần nghĩ đến bài hát "Em Tôi" của tác giả Lê Trạch Lựu là mỗi lần ngậm ngùi, "Ngày về xa quá người ơi!...". Hôm nay ngày về đến rồi thì lại cảm thấy đường về xa quá, dài đăng đẳng.

Tôi cứ thấp thỏm mong ngóng, sao lâu quá không thấy sông Gianh, cả ngày rồi mà chưa gặp Đèo Ngang, sao mà Vinh xa xôi thế, Đồng Hới đâu mất rồi. Những nơi chúng tôi về qua, tôi nhìn thấy gương mặt vui tươi của những người dân hai bên đường, có phải tại lòng chúng tôi đang vui chăng...?

Rồi thì xe cũng đến sông Bến Hải, chúng tôi thấy lòng rộn rã, những giọng cười, những tiếng thở phào nhẹ nhõm, vui mừng. Chúng tôi náo động hẳn lên và bắt đầu bàn tán, cá cược nơi đến sẽ là chỗ nào; ai cũng đếm thầm từng giây, từng phút.
Xe chạm bờ Bắc sông Bến Hải và vượt lên cầu, cảnh vật vẫn chẳng có gì thay đổi so với năm trước. Nhìn xuống dòng nước trong xanh lặng lờ trôi, tôi rướn người đứng dậy, gió thoang thoảng thổi mát rượi vào mặt, tôi rùng mình và chợt cảm thấy cầu đã đổi tên lại là cầu Hiền Lương để nối lại hai bờ Nam Bắc, để cho chúng tôi có đường về, để cho dân tộc tôi lại được thông thương, và để cho dòng máu Việt Nam lại chảy xuôi từ Bắc vào Nam theo nhịp đi của dân tộc.

Dọc đường quốc lộ 1 dẫn về căn cứ Ái Tử, những người dân miền Nam ngẩng lên nhìn chúng tôi với những gương mặt rạng rỡ, cảm thông như nhìn thấy người thân sau một thời gian dài xa cách. Vài "O" đã thảy lên trên đoàn xe chúng tôi những gói lá thức ăn, một gói may mắn đã rơi vào trong xe chúng tôi. Có lẽ đó là bữa ăn của họ “những người dân nghèo khổ”. Họ sẵn lòng nhịn đói để cho chúng tôi bớt đói lòng.
Bâng khuâng với niềm vui khó tả, tôi chợt thấm thía câu ca dao đầy tình tự quê hương.

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước phải thương nhau cùng".

Năm mươi năm sau ngày cha tôi rời quê nghèo, tôi cũng vượt biên để được tạm cư tại một nước thứ ba, rồi cũng như những người dân Việt đã cần cù lam lũ hơn 4 ngàn năm, tôi lại tiếp tục cần cù lam lũ để xây dựng hơn nửa đời còn lại nơi xứ người. Trong thâm tâm vẫn mang một ước nguyện, một ngày nào đó được đưa các con tôi về lại quê cha đất tổ, để được đi tiếp chặng đường còn sót lại về lòng đất quê hương.
Từ Thanh Hóa đến Tam Điệp, theo chân đoàn quân của Quang Trung Hoàng Đế về Thăng Long đập tan Tôn Sĩ Nghị, để được ngâm lại bài thơ "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan.

"Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn bền gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm sử sách soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường"

Hoặc được trốn học để cùng đi với chàng thư sinh Nguyễn Nhược Pháp trẩy hội chùa Hương, để hẹn hò cùng cô bé mười lăm bới tóc đuôi gà.
Được nghe lời thề quyết thắng của Hưng Đạo Vương “Nếu không thắng giặc, thề không trở về lại trên dòng sông này”. Được xem Đinh Bộ Lĩnh tập trận cờ lau. Về Bạch Đằng Giang xem Ngô Quyền cỡi sóng phá tan giặc Nam Hán, chấm dứt một ngàn năm nô lệ Bắc phương. Về Cổ Loa theo dấu lông ngỗng để được xem chuyện tình Trọng Thủy Mỵ Châu. Đến Mê Linh nghe trống trận của Hai Bà, xem Triệu Ẩu cỡi voi đuổi giặc, hoặc ngã người trên chiếc thuyền nan nghe tiếng sáo Trương Chi mà tương tư nàng Mỵ Nương xinh đẹp, theo chân hoàng tử An Tiêm vào cung dâng dưa hấu cho Phụ Hoàng. Mộng thấy thần tiên mách bảo cho chàng hoàng tử út hiếu thảo làm bánh chưng, bánh dày nhân dịp Xuân về Tết đến. Ước mong nhất là được nhìn thấy tổ tiên chúng tôi, Lạc Long Quân và Âu Cơ bịn rịn chia tay, 50 người con theo cha lên núi, 50 người con theo mẹ xuống biển tạo nên dòng Bách Việt ngày nay.
Quê hương tôi đó lịch sử rạng ngời. Tôi mong có ngày được đưa các con tôi về để nhìn thấy dân tôi ấm no, hạnh phúc, đất nước tôi thống nhất, thanh bình, chứ đừng như anh em chúng tôi 25 năm trước, ngược dòng thời gian để chỉ phải nhìn thấy quê hương tôi và dân tộc tôi trong tang thương, đói nghèo và lạc hậu.

Anh Cao Xuân Huy, một niên trưởng Nguyễn Trãi, cũng là niên trưởng Thủy Quân Lục Chiến có lần nhắc lời cụ tổ chúng tôi trong bài hịch "Bình Ngô Đại Cáo" vang rền lịch sử "Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn".
Hung tàn còn đó trên quê hương tôi, muốn được làm một nghĩa quân Lam Sơn nhưng đại nghĩa đâu không thấy, chỉ thấy rặt một phường xôi thịt, đỉnh chung, chưa cầm quyền đã buôn quan bán tước. Chắc là phải noi gương một cụ già xưa, đêm đêm thắp nhang cầu cho bạo chúa sống lâu, cho dân tôi bớt khổ.

"Cây có cội, nước có nguồn", "Chim có tổ, người có tông".

Thật đáng thương cho những kẻ tự xưng mình mang dòng máu Lạc Hồng, lại vì chút hiềm thù, tư lợi nhỏ nhen hoặc bè phái, đã và đang làm những điều xúc phạm đến dân tộc, đến quê hương.
Nguyện cầu hồn thiêng sông núi và anh linh tiền nhân rộng lòng tha thứ...

Viết để kính tặng và tưởng nhớ anh Lực, một kẻ sĩ đã ở lại sông Mực và kính tặng 400 anh em chúng tôi trong chuyến Bắc du năm 1977-1978
NGÀY VỀ

Khi sinh Ra AI cũng mong muốn có một cuộc đời an nhàn sung sướng. Nhưng người dân quê hương tôi hầu như không AI có được một cuộc đời lành lặn. Sự thống trị của ngoại bang, chiến tranh chia cắt làm tan nát biết bao nhiêu gia đình người dân hiền lành vô tội. Có lẽ chúng at chỉ còn lại những mảnh đời không lành lặn, được chắp vá với nhau qua những chặng đường đời. Hôm nay xin được kể cho các bạn nghe về những mảnh đời dang dở đó.


Đoàn tàu chưa dừng hẳn chúng tôi đã nhảy xuống khỏi LAN can ở toa cuối cùng, chạy vội vã vào trú mưa dưới mái nhà Ga. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy đã hơn 11 giờ khuya trên chiếc đồng hồ treo tường. Ánh đèn vàng vọt, Ga vắng người, chỉ có một số hành khách lên xuống các toa vào đêm hôm khuya khoắt như thế này. Hùng, Huy, Thành và tôi cố tìm trong Ga một vài hàng bán thức ăn, để dằn cơn đói mà từ chiều tới giờ vì chống chỏi với cái lạnh và các nỗi lo sợ vây quanh mà anh em chúng tôi đã quên mất.

Ba giờ chiều hôm đó anh Thuyên đưa anh Hùng, Ngọc và tôi đến sân Ga Huế. Các người bạn tù ở Huế đã hướng dẫn chúng tôi bọc vòng sân Ga để vào theo ngõ các đường rầy.
Đồng Sỹ Tường nói với tôi:
- Cất tiền để đi đường ăn. Tù...! Tội gì phải mua vé! Vé tàu Thống Nhất cũng không tới phiên MI, công nhân viên còn phải đợi cả tháng.
Tôi thấy Miễn ngồi trên chiếc Xe đạp, trong một góc, nhìn chúng tôi cười, vẫy tay hỏi thăm, chúc xuôi Nam mạnh giỏi. Có chừng hơn mười người bạn ở Huế Ra Ga đưa tiễn chúng tôi.

Một người bạn nói “Dự báo thời tiết cho biết, có mưa giông cấp 5, cấp 6 tối nay. Tụi MI ráng đi cho kịp, không thì kẹt lại đó".
Một anh khác thêm vào: "Tụi MI chia Ra mỗi thằng lên một toa, kiếm một góc nào đó chui vào, ráng chờ cho tới khi nào tàu chuyển bánh thì yên".
Quay qua nhìn Hùng, thấy khuôn mặt lo lắng của anh tôi cảm thấy không yên.

Thường thì cảnh tiễn đưa ở sân Ga bao giờ cũng rất là buồn. Buồn vì cảnh kẻ ở người đi... Nhưng anh em bạn tù chúng tôi thì ngược lại, họ không mong chúng tôi ở lại mà lại mong cho chúng tôi đi khuất mặt để về với gia đình đang mong đợi trong Nam.

"Những chiếc khăn hồng lất phất bay,
Những bàn tay vẫy những bàn tay,
Những đôi mắt ướt tìm đôi mắt..."

Chưa bao giờ trong cuộc đời tôi lại có một buổi chia tay lý tưởng như vậy! Chia tay nhưng vui, chia tay nhưng không có nước mắt mà chỉ có nụ cười đưa tiễn.

Hơn bốn giờ chiều Loa phóng thanh thông báo tàu Thống Nhất 2 sẽ đến Ga lúc 4 giờ 30 phút. Tôi cảm thấy nóng ruột. Quay qua thì Ngọc đã lủi đi một góc nào rồi, theo đúng sự cố vấn của các bạn tù Huế. Hùng gương mặt rầu rĩ, lo lắng hỏi tôi:
- Sao đây Minh?
- Tàu đến mình cứ Leo đại lên toa rồi tính sau.
Khoảng gần 4 giờ 30, còi tàu hú vang ở khúc quanh khuất tầm mắt cuối đường rầy, và chẳng bao lâu đoàn Xe lửa Thống Nhất xuất hiện. Đoàn tàu trông có vẻ mới mẻ, đẹp mắt, khác với những đoàn tàu cũ kỹ mà tôi đã nhìn chán mắt ở Ga Saigon mỗi ngày tôi đi đến trường Trương Minh Ký thuở xưa.

Hai chị em tôi thường đi tắt xuyên qua Ga Saigon, rút ngắn được một khoảng đường hơn cây số. Tôi thích những hòn than đá nhặt được trên đường rầy, chúng đen mượt và óng ánh dưới nắng như những hòn ngọc đen.
Tàu dừng hẳn. Các cửa toa được mở Ra. Sau khi các hành khách xuống xong thì các hành khách mới lên tàu. Anh em chúng tôi bắt đầu chia nhau Leo vào các toa. Thật là số “giẫm phải ổ kiến lửa", tôi chui vào đúng ngay cái toa dành cho các anh bộ đội đi công tác. Vừa không có chỗ trống, lại trông thấy tôi lạ, có lẽ vẫn còn hình ảnh của người bên kia chiến tuyến nên các anh ấy la ầm lên:
- Anh này ở đâu vào đây thế?
Hai cô soát vé nghe thế tiến lại, hỏi vé tàu và mời tôi đi xuống.
Chân vừa chạm đất thì thấy Hùng hốt hoảng chạy tới, hai anh em chúng tôi lại Leo lên toa Xe kế. Hình như đã được báo động, các cô soát vé lại chận chúng tôi và mời xuống lần nữa.

Thất vọng nhưng vẫn bình tĩnh, tôi kéo Hùng chạy về phía toa cuối cùng, nhưng chúng tôi dã bị chận lại ngay cửa toa.
"Bất Quá Tam", ba bận không được, tôi không nhảy lên xe nữa mà ngồi tính kế.
- Hùng à! Đợi xe bắt đầu chạy mình nhảy lên. Tôi nói với anh cùng với một cái gật đầu cảm thông và khích lệ.

Hơn 5 giờ chiều, còi hụ, đoàn xe bắt đầu chuyển bánh. Thế là tôi nhanh chân nhảy ngay lên một toa gần đó, Hùng cũng bám theo tôi.
Tôi nhớ mãi cô gái soát vé la toáng lên:
- Các anh có xuống không...?
Cô ta cung tay làm như chuẩn bị xô anh em chúng tôi xuống. Lặng người một giây, tôi suy nghĩ thật nhanh... Quay mình nhảy khỏi toa tàu, Hùng cũng nhảy theo tôi. Đoàn tàu Thống Nhất 2 rời ga xe lửa Huế...
Nhớ lời một anh bạn tù nói với chúng tôi ban chiều "Tụi mi xui. Tụi mi tới sớm một chút đi tàu Thống Nhất 1, tàu Saigon dễ hơn. Tàu ni tàu Hà Nội". Thì ra có bốn chuyến tàu Thống Nhất. Tàu số lẻ 1 và 3 xuất phát từ Saigon, hầu hết nhân viên trên tàu người Nam. Tàu số chẵn 2 và 4 xuất phát từ Hà Nội, thảo nào toàn là dân Bắc.

Đoàn tàu bắt đầu tăng tốc độ. Tôi nghe tiếng Đồng Sỹ Tường hét lớn "Nhảy lên! Nhảy đại lên!". Quay người lại thì toa cuối cùng cũng vừa trờ tới nhưng cửa toa tàu đã đóng kín, tôi nhảy đại lên, bám vào lan can sắt, nghiêng người lại kéo Hùng cũng vừa nhảy bám theo sau. Tiếp theo Hùng là Thành và Huy, hai người không biết ở đâu lại xuất hiện bất ngờ, tôi và Hùng nép qua một bên để Thành và Huy có chỗ đu vào.
Chúng tôi vừa đặt chân xuống lan can thì tiếng còi tàu vừa chấm dứt, tàu bắt đầu lao về phía trước với tốc độ nhanh hơn. Bốn anh em tù chúng tôi, những người khách cuối cùng, những người khách không được chấp nhận của đoàn tàu Thống Nhất 2 vừa rời ga Huế. Nhìn ngược về phía sân ga, các bạn tôi vẫy vẫy tay tiễn đưa, xa dần, xa dần mà trong lòng còn nhiều xúc động...

Hơn một giờ sau đoàn tàu chạy qua Vinh Hiền. Nhìn về hướng Đông tôi nhớ đến ngày 26/3/75 tại cửa Tư Hiền, nơi anh em chúng tôi chấm dứt chặng đời binh nghiệp, để bắt đầu cuộc đời tù đày.

Trời nhá nhem tối, những đám mây đen từ biển kéo vào vần vũ và cơn bão bắt đầu đổ bộ. Mưa tầm tã khi đoàn tàu gần đến Lăng Cô, chân đèo Hải Vân, trời tối mù mịt, chắc vào khoảng gần 7 giờ tối. Thành lôi ra tấm poncho, hai chúng tôi trùm lấy cho nhau giữ hơi ấm. Hùng và Huy cũng lấy ra những tấm ni lông, chúng tôi nép vào nhau để chống chọi cơn bão và những hạt mưa tới tấp quất lên người.

Đoàn tàu ì ạch leo đèo Hải Vân dưới mưa bão. Có những khúc quanh gắt, tàu chạy chậm hẳn lại. Tôi nghe những tiếng móc sắt mà những tài xế đoàn tàu thả xuống để bám đường rail “cọc, cạch, cọc, cạch, cọc, cạch ...” Những tiếng sắt va chạm trong đêm làm cho tôi tưởng nhớ đến một đoạn thơ, thật là hợp lúc nhưng không hợp tình.

“Tôi thấy tôi thương những chuyến tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có gì vương vấn trong hơi máy
Những chiếc toa, đầy nặng khổ đau”.

Không biết chiếc toa cuối cùng đầy nặng khổ đau này có thông cảm cho bốn người khách bất đắc dĩ đã gửi thêm sức nặng lên mình nó không nhỉ?
Nhìn về hướng biển, làng Lăng Cô dưới chân đèo chìm trong màn mưa bắt đầu nặng hạt, xa xa lờ mờ vài ngọn đèn leo lét, mưa bão như thế này mà kéo dài vài ngày thì làm sao các ngư dân ra khơi để kiếm ăn. Khoảng tám giờ tối đoàn tàu chui qua một đường hầm dài, từ đó trở đi chúng tôi không còn thấy gì ngoài ngoài màn mưa và sương mù dày đặc từ các hốc núi bốc ra.

Càng lên cao tàu càng chậm dần, có những lúc tàu như dừng lại. Tiếng máy hú rền lên trong đêm, nhìn về phía trước những đóm lửa từ đầu máy phun lên không gian mờ mịt, tôi cảm thấy lạnh người...

Những ngày còn bé tôi thích nghe người lớn kể chuyện ma, hai chân rút lên giường, lấy chăn hay bất cứ một mảnh vải nào trùm lấy cho đừng cảm thấy lạnh. Có những đêm quá khuya, mẹ tôi mắng “Thằng này có đi ngủ không, mai còn đi học”. Trèo lên gác, chui vào mùng, chụp vội cái chăn để trùm kín người từ đầu đến chân mặc dù trời không lạnh lắm, co người lại tôi thầm nghĩ “Trùm kín thế này chắc ma không nhìn thấy mình đâu, nhưng nếu ma kéo chăn ra thì làm sao?”. Nghĩ thế tôi càng co người lại.

Nhìn theo ánh đèn xe lửa xuyên màn mưa và sương mù dày đặc, tôi chợt nhớ đến câu chuyện “Bóng Người Trong Sương Mù” trong tập truyện ngắn “Anh Phải Sống” của Khái Hưng và Nhất Linh. Tôi rụt đầu vào poncho, không muốn nhìn và nghe thấy những âm thanh ma quái vang lên trong đêm với bóng người trắng trong sương mù, vẫy vẫy đôi tay kêu gọi con tàu “Dừng lại! Dừng lại! Dừng lại!”. Bên cạnh tôi Thành vẫn còn lầm bầm chửi “Mẹ mầy, con mẹ Bắc Kỳ!”

Ngày đơn vị dừng chân ở chợ Sải, Triệu Phong, tôi quen Thành. Mỗi lần không vừa ý một người bạn miền Trung thì anh lại nói “Mẹ mầy, thằng Nẫu!”. Không vừa ý ai Bắc Kỳ thì “Tao nói rồi, cái thằng rau muống!", nhưng chưa nghe anh than van về "giá sống" bao giờ. Có điều là nói hay chửi xong anh lại cười xòa chứ không như lần này, anh lầm bầm cả buổi tối...

Bên bờ sông Vĩnh Định, chợt thức giấc một đêm khuya, tôi thấy Lên, người hiệu thính viên, chồm người ra khỏi võng chụp lấy cái đèn pin dã chiến, làm băng pin PRC-25, bóng đèn được bọc bằng giấy bạc bao thuốc lá. Anh hối hả vặn lên, có lẽ quá vội vàng, anh lộn giây, đèn lóe sáng rồi tắt lịm. Chồm qua phía chiếc radio, Lên chụp lấy, vặn thật lớn giữa đêm khuya. Tôi bực mình hỏi:
- Mày làm cái gì vậy Lên?
Lên im lặng không trả lời. Tôi gắt:
- Tắt đi, làm gì mà mầy mở radio giờ này!
Anh vặn tắt radio rồi chúi đầu vào trong cái võng. Lần đó chúng tôi qua đêm tại căn bếp của một ngôi nhà ba gian đã bị sập vì đạn pháo bên bờ sông Vĩnh Định. Tôi và Lên mắc võng vào những cây cột nhà bếp, đâu chân vào nhau, chiếc máy truyền tin dựa vào cây cột ở chân võng. Sáng hôm sau tôi hỏi Lên:
- Làm gì mà mày bật đèn, bật radio giữa khuya vậy?
- Em thấy ma.
- Ở đâu?
Đưa tay chỉ về phía ngôi nhà chính đổ nát không ai dọn dẹp, cả ngôi nhà ba gian sập hoàn toàn trên nền nhà...
- Mày thấy như thế nào?
- Một cô gái tóc thề, mắt sáng như đèn, nhìn chòng chọc vào em với gương mặt giận dữ.
- Thiệt không mậy?
- Em nói thiệt.
Quay qua anh Xê và những người lính trong ban chỉ huy, tôi nói thật gọn:
- Mình dời nhà.

Lần khác, trung đội tôi làm tiền đồn cho đại đội sau ngày ngưng bắn ở La Vang Thượng trong một ngôi làng nhỏ tên là Như Lệ. Những ngày mưa dầm ướt át, ngồi bó gối nhìn quanh, buồn muốn khóc. Thảo nào làng lại chẳng có tên là "Như Lệ".

Khi bàn giao tiền đồn, chúng tôi vét lại giao thông hào, Hạ Sĩ Tâm nhìn thấy một xương sọ người và một đôi dép râu. Tinh nghịch anh đặt chiếc xương sọ lên bờ giao thông hào rồi lấy đôi dép râu gác trên đầu chiếc xương sọ, miệng nói "Sinh Bắc Tử Nam".
Tối hôm đó Tâm lên cơn điên lồng lộn như bị ai đấm đá dữ dội, chúng tôi phải trói anh lại, và đang đêm cho hai người lính dẫn anh vào đại đội gặp Trung Sĩ Nhất Trần Ngâm, người Việt gốc Miên vùng 4. Anh Ngâm dùng roi dâu quất vào người Tâm, Tâm quằn quại trên mặt đất. Hôm sau Tâm được đưa ra điều trị tại Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, vài tháng sau được trả về đơn vị anh vẫn chưa tỉnh trí.

Trong đời lính tôi đã gặp quá nhiều chuyện ma quỉ như thế này rồi; đêm nay dưới cơn mưa bão trên đèo Hải Vân, tôi không muốn nhìn thấy thêm một lần nữa.
Tôi quay qua chọc Thành, hy vọng anh em chúng tôi có những tràng cười để qua cơn chịu đựng. "Ai biểu mày là giá sống làm chi! Nếu mày là rau muống, chắc mày đã bỏ thây trên đường mòn Hồ Chí Minh rồi". Chúng tôi cười khúc khích, cảm thấy thương cho những người "Sinh Bắc Tử Nam!".

Gần mười giờ khuya đoàn tàu bắt đầu đổ dốc. Anh em chúng tôi thật căng thẳng ở những khúc quanh gắt. Bám chặt vào lan can tàu, anh em chúng tôi níu lấy nhau, nghe tiếng bánh sắt nghiến trên đường rail, nhìn những tia lửa bắn ra do sức ma sát của những bánh sắt trên đường tàu trong đêm mù sương, có lẽ các bạn tôi cũng như tôi đang thầm cầu nguyện cho con tàu bình an đến Đà Nẵng.

Nhớ lại cảnh anh em chúng tôi đi Roller Coaster trên đèo Hải Vân năm xưa mà trong lòng còn kinh sợ, khác hẳn với cảnh Roller Coaster ở Magic Mountain hoặc Disneyland bên này, hét lên vì cảm giác và thích thú.
Nửa khuya hôm đó tàu rời ga Đà Nẵng mang theo bốn anh em chúng tôi, những hành khách không ngủ; thật tình thì không dám ngủ, sợ lơi tay bỏ mạng dọc đường. Thành thì cứ tiếp tục "Mẹ mày! Con quỉ Bắc Kỳ".

Trời vừa sáng tỏ thì đoàn tàu chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Tò mò, chúng tôi rời lan can tàu đi dần về các toa trước để hỏi thăm tình hình, thì ra tàu hỏng máy. Chúng tôi mừng thầm và tự an ủi, “Nếu tàu hỏng máy lúc leo đèo Hải Vân, có lẽ anh em chúng tôi đã nằm vương vãi đâu đó dọc Lăng Cô”.

Nhìn qua cửa sổ một toa xe, tôi trông thấy Quý, một bạn tù trước cùng học ở Khoa Học Saigon. Anh học Lý Hóa Vạn Vật, còn tôi Toán Lý. Tôi gọi Quý và gửi cái ba lô đẫm nước mưa của tôi, để được dễ dàng xoay xở. Sau này về Saigon, đến nhà anh nhận lại "gia tài tù" thì nó đã được giặt, phơi khô và xếp cẩn thận lại rồi.

Đoàn tàu Thống Nhất 2 nằm chịu trận giữa đường chờ sửa chữa. Chúng tôi nhờ các bạn may mắn hơn đã ở yên trong các toa mua hộ thức ăn dằn bụng.
Khoảng 2 giờ chiều đoàn tàu chợ Đà Nẵng - Qui Nhơn xuất hiện. Chúng tôi rời lan can tàu Thống Nhất 2 để nhảy lên các toa của đoàn tàu chợ Qui Nhơn. Đoàn tàu chợ không có cửa như tàu tốc hành Thống Nhất. Kiếm một góc toa chúng tôi ngồi xuống nghỉ mệt sau gần một ngày đêm căng thẳng và không được nghỉ ngơi.

Ì à ì ạch dọc đường, ghé các ga, cuối cùng đoàn tàu cũng về đến ga Diêu Trì, Qui Nhơn khi trời vừa sẩm tối. Tàu chưa dừng, loa phóng thanh đã oang oang thông báo: “Hành khách có vé xếp hàng bên trái, hành khách không có vé xếp hàng bên phải, ai không có vé phải mua vé phạt 100%”. Giá vé Đà Nẵng - Qui Nhơn 26$, ai không có vé phải trả 52$. Tính thầm số tiền còn lại trên người, thì nếu phải mua vé chỉ một lần này thôi đã quá nửa số tiền anh em chúng tôi được phát là 95$ tiền vé xe lửa về Saigon và 7$ tiền ăn dọc đường.

Nhìn về phía cổng ra vào của nhà ga. Tôi trông thấy một người lính công an đang đứng gác. Kéo các bạn ra khỏi hàng, vừa đi về phía cổng tôi vừa nói "Công an giữ mình thì bây giờ công an thả mình". Tới trước mặt anh công an, tôi mở lời:
- Chào cán bộ.
- Gì thế! Các anh muốn gì thế?
Giọng nói miền Bắc, có lẽ anh là một công an thuộc ngành hỏa xa được điều động vào làm việc trong Nam.
- Thưa cán bộ, anh em chúng tôi học tập cải tạo được thả từ Huế. Gần một tuần nay, chúng tôi đi đường không còn đủ tiền, xin cán bộ cho ra Qui Nhơn gặp người quen mượn tiền về quê. Tôi trình bày hoàn cảnh và xin được cho ra khỏi ga.
- Có thật anh hết tiền không nào?
- Thật mà cán bộ. Tôi bị kẹt ở Huế cả tuần, chờ tàu Thống Nhất mà không mua được vé nên tiêu hết tiền.
- Còn anh này? Anh công an quay qua hỏi Thành.
- Tui cũng vậy! Cán bộ không tin cứ xét, không nghe nó lầm bầm "Mẹ mày Bắc Kỳ" nữa!
May phước anh công an không hỏi Hùng và Huy. Hai anh chàng này chả bao giờ dám nói láo.
- Các anh nói dối là các anh chết với tôi đấy nhé!
Có lẽ thông cảm hoàn cảnh, anh đưa chúng tôi ra cổng và nói với nhân viên gác cổng:
- Cho các anh này ra.

"Thương người là tính bẩm sinh của dân tôi"

Sau khi ra khỏi ga, chúng tôi kiếm một hàng bánh mì nhét đầy bụng rồi ghé đến một vòi nước công cộng uống cho thật no.
Đêm hôm đó bốn anh em chúng tôi nằm ôm nhau ngủ say như chết trên một vỉa hè của thành phố Qui Nhơn bỏ mặc dòng người qua lại.
Tờ mờ sáng nghe Thành hét lên:
- ĐM! Thằng nào rọc túi tao rồi.
Chiếc áo jacket sờn vai cũ kỹ của Thành bị rọc ở một góc túi, thiệt là hết nói “Ăn xin gặp ăn trộm”.
Chúng tôi kéo đến vòi nước công cộng để rửa mặt rồi trở lại ga Qui Nhơn với hy vọng có tàu xuôi Nam.

Tôi chợt nhớ tới Phan Văn Châu với lời nhắn trước khi được thả ở Cồn Tiên, nhét vào tay tôi tấm giấy xếp nhỏ và nói "Chừng nào về, trên đường xuôi Nam, đến Qui Nhơn, nhớ ghé nhà tao".
Châu cùng học với tôi ở Khoa Học, tôi hỏi nó kỷ niệm nào nhớ nhất khi lần đầu vào Saigon. "Chiếc xích lô máy", Châu trả lời. "Tao vừa xuống xe đò thì một chiếc xích lô máy trờ tới, tao leo lên để đến địa chỉ người quen, thiệt là xanh máu mặt. Tao thấy nó chạy như đâm vô đít người ta, rồi lạng qua lạng lại. Ngồi trên xe tao né qua trái, rồi né qua phải; thằng cha tài xế vừa lái xe vừa nhìn tao, vừa cười sằng sặc. Khỏi có lần thứ nhì!".

Đêm cuối ở trại, trước khi ra về, trao cho tôi chiếc ba-lô mà gia đình nó đem ra kỳ thăm viếng trước đó, Châu nói:
- Ê Minh, hồi chưa quen mày, tao ghét mày lắm!
- Còn bây giờ thì thù tao chớ gì?
- Không, tao thấy mày chơi với bạn thiệt tình ...
"Xin lỗi bạn nhe Châu, tờ giấy xếp tư còn nằm trong đáy bóp nhưng tôi không dám lôi ra, không muốn đến làm phiền bạn. Giờ này bạn ở đâu? Cho gửi lời thăm hỏi!".

Ga Qui nhơn đông nghẹt người nhưng bảng thông báo cho biết không có xe lửa rời ga ngày hôm đó. Chờ đến 9 giờ sáng cũng không có gì thay đổi. Chúng tôi hỏi thăm đường sá và kéo nhau ra bến xe đò. Khi đến nơi thì chỉ còn vài chuyến cuối cùng, chẳng có bán vé gì cả, muốn đi thì cứ móc túi ra trả 55$ một người. Nóng lòng muốn về anh em chúng tôi phải bấm bụng lấy tiền mua vé.

Vượt đèo Cù Mông, vượt cầu Đà Rằng xe phom phom xuôi Nam. Khoảng ba giờ chiều xe đến đèo Rù Rì. Nhìn về phía trại lính trên đèo bị bỏ hoang phế, lại nhớ đến thời gian sau ngày đi chiến dịch chúng tôi được về trú đóng ở đây, rồi thì đến ngõ vào trung tâm huấn luyện Đồng Đế, nơi đã rèn luyện chúng tôi thành một người lính. Ngày nhập trại chúng tôi chỉ vào tượng đồng đen của người lính trước cổng nói đùa "Chừng nào phơi nắng đen như thế này thì mình ra trường..."

Trên ngọn đồi sau trường không còn bức tượng người lính ở đó nữa, dù sao cũng hơn là họ đổi cái nón sắt của anh thành cái nón cối. Mỗi chiều hoàng hôn nhìn lên tượng người lính trắng và ngọn đồi in hình trên bầu trời thì sẽ thấy câu thơ mà ai đã từng ở trường Đồng Đế phải biết:

"Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ,
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh."

Xuống xe ở Nha Trang gần bốn giờ chiều, đường phố ướt át và mát rượi sau cơn mưa. Gần sáu năm rồi sau ngày thống nhất đất nước, Nha Trang trông có vẻ tàn tạ, những tấm bảng bích chương, quảng cáo, cổ động vẽ hình các công nhân, bộ đội và các khẩu hiệu "Lao động là vinh quang" mà khi còn ở trong tù anh em chúng tôi thường đùa là "Lao động là vất vả, nằm ngả là vinh quang" trông có vẻ lạc lõng làm sao ấy. Gần sáu năm rồi mà chúng tôi chẳng được nghe thêm một bài hát hoặc một bài thơ mới về cái thành phố miền biển đáng yêu này.
Có lẽ văn nhân, nghệ sĩ đã bỏ bút, bỏ đàn để cầm cày, cầm cuốc đi kiếm ăn rồi, còn ai mà mơ về “Nha Trang là miền quê hương cát trắng, Ai qua không ghi vào lòng một niềm luyến tiếc bâng khuâng”, luyến tiếc gì trong khi bụng không có một hột cơm.

Chúng tôi đi lần về ga xe lửa, gần đến ga thì thấy Ngọc và Hiệp đi về phía chúng tôi.
"Tiên sư mày, giờ này sao còn ở đây. Ông tưởng mày về đến Saigon rồi." Tôi nhìn Hiệp miệng nói lớn. Nó trả lời "Mẹ, nhớ Nha Trang quá ghé lại thăm".
Hiệp cùng học Khoa Học với tôi, gia đình ở Hố Nai, Biên Hòa.
Hiệp kể: “Tao với một thằng bạn, không phải thằng Ngọc này, leo lên tàu Thống Nhất 1 tại Huế lúc ba giờ chiều. Xe đã chạy rồi, hai con nhỏ soát vé vào hỏi vé, hai thằng tao gốc Bùi Chu, Phát Diệm nói giọng Bắc đặc, thế là tụi nó đuổi chúng tao ra lan can. Xe leo lưng chừng đèo Hải Vân thì mưa bão ập vào. Hai thằng tao ướt như chuột lột, tụi tao ngồi rủa "hai con quỉ ác độc". Một lúc sau nghe bên trong có tiếng nói chuyện qua lại, cửa sổ mở ra và một con nhỏ soát vé ló đầu ra hỏi:
- Có phải hai anh là tù cải tạo không?
- Vâng, tụi tôi là tù cải tạo được thả ra ở Bình Điền. Tao trả lời.
Thế là cửa mở rộng, hai nàng tiên kiều diễm lách ra để hai tụi tao vào.
Những người dân miền Nam trong toa nhường chỗ cho tụi tao ngồi, người thì đưa khăn lau, người thì đưa nước uống, có người còn đi mua thức ăn cho tụi tao. Khi tới Nha Trang tao xuống ga, họ ngăn cản, nói là nên đi luôn vì một lần đi là một lần khó khăn. Tao nói là còn một chuyện nợ nần tình cảm ở Nha Trang nên phải xuống để giải quyết. Thằng bạn kia hãi quá không dám xuống."

Còn thằng Ngọc kể: "Ở Huế tao lủi vô một góc, nhìn kỹ không có động tĩnh, tao leo lên toa của những người dân buôn, tao xề xuống chỗ của một bà quấn khăn người miền Nam. Biết tao là tù cải tạo, bà để yên cho tao ngồi. Tàu chạy, tụi nó đến soát vé và đòi tiền phạt, những người dân buôn miền Nam chung tiền góp cho tao, thấy thế nó làm ngơ, thế là tao có thêm ít tiền."

- Thế thì mày xuống đây làm gì, không đi về luôn cho êm chuyện.
- Nhớ Nha Trang quá, sẵn dịp đi ngang ghé lại thăm, hồi tưởng lại quãng đời quá khứ, không biết còn có dịp trở lại nữa không...
Sáu đứa chúng tôi tạt vào một quán nước bên đường, ngồi ăn uống qua loa và nghỉ mệt. Thực sự thì chỉ có bốn đứa tôi cần nghỉ mệt, hai thằng kia có mệt gì mà nghỉ.

Anh chủ quán nghe chúng tôi kể chuyện đường về đâm ra thông cảm, đem tặng cho chúng tôi hai xị rượu thuốc và một ít mồi lai rai.
Rời quán chúng tôi đi dạo vòng quanh thành phố để nhớ lại những địa điểm mà một thời đã hằn dấu trong cuộc đời chúng tôi, những người lữ khách.

Trở về ga thì trời đã tối hẳn, chúng tôi tìm một góc trống ngồi nghỉ chuẩn bị cho ngày mai. Ngọc lôi cây đàn ra, cây đàn đã làm cho tôi và nó bị kiểm điểm nhiều lần về tội hát nhạc vàng. Đêm hôm đó nơi sân ga, nước mắt lưng tròng tôi ngồi hát bài "Nha Trang ngày về" của Phạm Duy. Hùng càng làm cho không khí thêm se lạnh với bài "Đêm Đông" của Nguyễn Văn Thương. Chung quanh chúng tôi khoảng năm mươi người lữ khách ngồi quây quần im lặng thưởng thức, không một tiếng vỗ tay, không một lời tán thưởng. Hiệp, Ngọc và Thành thay phiên đàn cho chúng tôi hát gần hai tiếng đồng hồ.
Anh công an gác ga đi qua đứng nhìn chúng tôi rồi yên lặng bỏ đi. Có lẽ anh đến một góc nào đó trong sân ga để cảm thấy rằng, anh cũng như chúng tôi, tất cả đều là những lữ khách trên chính quê hương Việt Nam đã tàn tạ vì chiến tranh, chia rẽ, hận thù...

Chúng tôi bị thức giấc bởi những tiếng náo động của những người đi buôn tràn vào sân ga sớm lúc 5 giờ sáng. Theo dòng người chúng tôi vòng ra ngoài rồi theo ngả các đường rầy để leo lên đoàn tàu chợ Nha Trang - Saigon. Hùng không muốn mạo hiểm một lần nữa nên xếp hàng mua vé. Còn năm thằng chúng tôi leo lên xe ngồi trước. Khoảng 7 giờ sáng hành khách có mua vé được lên xe. Thì ra những người dân buôn đã chọn trước những chỗ tốt rồi.

8 giờ sáng tàu rời sân ga, chạy đến Cam Ranh thì nhân viên soát vé tàu vào toa của chúng tôi. Trước đó, khi biết chúng tôi là tù cải tạo những người dân buôn vội vàng nhét những bao hàng dưới chỗ ngồi chúng tôi ngồi. Anh nhân viên soát vé sau khi coi xong giấy tờ của tôi thì nói "Chúc mừng các anh, chúc các anh may mắn!" rồi bỏ đi. Anh độ chừng hơn 30 tuổi, chắc cũng có thời là chiến binh miền Nam.

Tàu ghé qua các ga Mường Mán, Hàm Tân, Long Khánh và nhiều ga khác nữa mà tôi không nhớ tên, lòng lâng lâng nghĩ đến lúc về tới nhà chắc bố mẹ tôi ngạc nhiên lắm. "Tam thập nhi lập", bố mẹ tôi đã già, tôi không có dịp phụng dưỡng mà còn là một gánh nặng cho gia đình.
Chúng tôi lót lòng bằng các thức ăn mua trên xe lửa hoặc ở các ga dọc đường. Tôi không cảm thấy đói, mệt gì cả vì nỗi vui mừng sum họp với gia đình đã xóa mất đi rồi.
Đoàn tàu đến Thủ Đức thì trời đã hoàng hôn, song song với đường tàu từ Thủ Đức về Bình Triệu là Quốc Lộ 1. Con đường tôi đã đi lại rất nhiều lần từ thời Trung Học, những ngày đi chơi ở Thủ Đức, Biên Hòa, Lái Thiêu... Tôi còn nhớ những khúc quanh trên đoạn đường này.

Gần đến Bình Triệu xe lửa từ từ chậm lại. Tôi thấy các người dân đi buôn bắt đầu quăng hàng hóa xuống đường. Dọc theo đường là các xe Honda ôm, xích lô, ba gác, ba bánh gắn máy chờ đón để chở đi những hàng hóa mà dân buôn sợ phải đóng thuế khi vào đến ga.
Tôi hỏi một thanh niên trẻ đứng cạnh cửa:
- Chừng nào thì đến ga Saigon?
- Ga Saigon giải tỏa rồi, tàu chỉ đến ga Bình Triệu mà thôi.
- Thế thì chúng tôi xuống đâu?
- Các anh xuống đây tốt nhất, đi xe ôm hoặc xe xích lô về Saigon.
Anh em chúng tôi bắt đầu nhảy ra khỏi tàu, Ngọc, Hiệp, Thành, Huy và tôi.

Chân vừa chạm đất tự nhiên đôi dòng lệ vui mừng trào ra. Tôi đã thật sự đặt chân đến Saigon, nơi mà gần 30 năm trước tôi được sinh ra ở nhà thương Từ Dũ. Nơi mà bố và các anh chị đã đến đón mẹ và tôi ngày ra đời, cũng là nơi mà tôi đã theo bố đến đón mẹ và các em tôi sau này. Nhớ đến ngôi nhà mà tôi đã được dưỡng nuôi từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, tôi đột nhiên xúc động.
Bài nhạc "Ngày về" của Hoàng Quý chợt thoát ra từ cửa miệng.

"Tung cánh chim tìm về tổ ấm,
Nơi sống bao ngày giờ đằm thắm,
Nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi, luyến tiếc bao nhiêu ngày qua..."

Chúng tôi 5 đứa nhảy lên một chiếc xe ba bánh gắn máy để đi về Saigon. Xe quẹo trái ở ngã tư Bình Triệu. Từ trên dốc cầu Bình Triệu nhìn về phía Saigon, những hàng đèn sáng rực càng rực sáng hơn lên trong lòng tôi.

"Saigon đẹp lắm Saigon ơi, Saigon ơi!"

Ở cuối con đường này là nhà tôi, gia đình tôi đang chờ đợi...
Những cánh chim tha phương sẽ bay về tổ cũ và mái ấm gia đình, sẽ hàn gắn lại những vết thương đời, chiến tranh, tù tội, xóa đi các vết chàm đã khắc sâu vào thể xác cũng như tâm hồn những niềm đau âm ỉ không nguôi.

Tối hôm đó Hùng về thẳng nhà người em gái ở Phú Nhuận, Huy theo Thành đến trọ nhà người bà con ở Phú Thọ Hòa, Hiệp và Ngọc ở lại nhà tôi qua đêm. Sáng sớm hôm sau Hiệp về Hố Nai - Biên Hòa, Ngọc về Bình Tuy. Hai ngày sau đó Thành về Mỹ Tho, Huy về Vĩnh Bình.

Anh em chúng tôi không gặp lại nhau từ đó. Bây giờ Hiệp ở Santa Ana, Hùng ở San Jose, California, Thành ở Chicago, Illinois. Chỉ buồn cho Ngọc, Ngọc vẫn chưa dứt nợ súng đạn, đã qua đời sau một cuộc đọ súng với cướp khi đang làm việc trong một tiệm Liquor ở Texas. Huy quyết định ở lại Việt Nam chỉ với một ý nghĩ đơn giản "Xin chọn nơi chôn nhau cắt rốn, làm nơi gửi nắm xương tàn".

Còn tôi, ngồi đây với những mảnh đời dở dang được viết ra trên giấy...

MX NGUYỄN NGỌC MINH
Nguyễn Trãi B363
Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến
Sinh Tồn chuyển
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn