Hương Lộ 555 Lẻ Loi – MX Lưu Văn Phúc

Thứ Ba, 09 Tháng Ba 20217:04 CH(Xem: 6478)
Hương Lộ 555 Lẻ Loi – MX Lưu Văn Phúc

MX Lưu Văn Phúc

https://i2.wp.com/tqlcvn.org/images/TD1PB.gif

Lời mở đầu của người viết:
Đã hơn 28 năm qua, bây giờ viết lại chỉ mục đích nhắc lại một giai đoạn ngắn của cuộc hành quân triệt thoái chiến trường Quảng Trị.
Với cái nhìn hạn hẹp của một người chỉ huy cấp Pháo đội. Mong rằng những gì không được đẹp lòng, xin quý vị có liên quan rộng tình thứ lỗi.


Thứ I: Những ngày trung tuần tháng 3 năm 1975.

Cuộc họp được biết qua tình cảm bạn hữu, một vị Sĩ Quan có mặt trong cuộc họp đã tiết lộ chút ít nội dung: “Hai Lữ Đoàn 258 & 369 Thủy Quân lục chiến cùng Bộ Tư Lệnh và các Tiểu đoàn tác chiến, Quân Y, Truyền Tin, Công Binh, Yểm Trợ Thủy Bộ… sẽ hành quân về Đà Nẵng.

Nhiệm vụ thay thế Sư Đoàn Nhảy Dù. Ngoại trừ một Pháo đội thuộc Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC được chỉ định ở lại Quảng Trị; Thiếu Tá Lạc đã chọn Pháo đội B nhận lãnh trách nhiệm đó. Cá nhân tôi thoáng một chút lo âu, bối rối. Vì cách ngày này một tuần lễ, tôi có xin phép Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn để cho vợ tôi đem 2 đứa con nhỏ (3 tuổi và 9 tháng) ra thăm. Dự định, chờ chuyến liên lạc gần nhất sẽ cho vợ con trở về Sài Gòn. Bây giờ biết giải quyết ra sao?
Tôi hỏi lại người bạn: “Có chắc rằng Thiếu Tá Lạc chỉ định Pháo đội B?”.
Người bạn đáp: “Chắc. Mày ráng mà liệu cho vợ con của mày về Sài Gòn càng sớm càng tốt”.
Ngay trong buổi chiều, tôi thu xếp và nhờ Trung úy Huỳnh Thái Sơn, Pháo đội phó, người Sĩ Quan phụ tá, đưa dùm vợ con của tôi ra Huế. Cố gắng mua vé máy bay Hàng Không Việt Nam cho vợ tôi và 2 con rời Huế, về Sài Gòn.

Cám ơn Thượng Đế, cám ơn Sơn, may mắn đã mua được vé phi cơ chuyến chót Huế – Sài Gòn. Trung úy Sơn liên lạc với tôi từ phi trường Phú Bài, Huế bằng máy PRC 25 qua trung gian tiếp vận tại hậu trạm. Biết được vợ và 2 con đã ngồi trên máy bay rời Huế về Sài Gòn, tôi thật sự thở phào nhẹ nhõm.

3. Nhận lệnh:
Gần tối 14-03-1975, Thiếu Tá Lạc cho lệnh gọi tôi lên Bộ Chỉ huy TĐ1/PB/TQLC họp hành quân. Ông nói rằng họp hành quân cũng không đúng ý nghĩa. Vì Thiếu Tá Lạc ra lệnh trực tiếp cho Pháo đội trưởng PĐB, không có bất cứ Sĩ Quan nào hiện diện, kể cả Thiếu Tá Tiểu đoàn phó hoặc Đại úy Trưởng ban 3. Cũng tương tự như những gì tôi đã được người bạn thân tiết lộ. Chỉ có vài chi tiết sau đây, cho đến bây giờ ngồi viết những dòng chữ này, sau hơn 28 năm trời dài đằng đẵng, tôi vẫn chưa tìm được câu giải đáp; đó là: “PĐB/TQLC sẽ đơn độc, không có một đơn vị tác chiến nào bảo vệ phòng thủ vòng ngoài, hay yểm trợ an ninh. (Ai đã quyết định như thế?)

Advertisement
Report this ad

Chiều 16-03-1975, PĐB phải chuyển giao tất cả 7 xe G.M.C cơ hữu cho Bộ Chỉ huy Tiểu đoàn. (Pháo không xe kéo! Trong lúc quân bạn không còn hiện diện tại vùng hành quân. Một lệnh kỳ quái nhất, chưa từng xảy ra trong lịch sử cuộc chiến!) “Lãnh tiền ăn (mua thực phẩm ở đâu?) và gạo cùng điện trì cho 10 ngàỵ.”

4. Thủy Quân Lục Chiến rời vùng Quảng Trị.
Sáng sớm ngày 17 tháng 03 năm 1975, BCH/LĐ258/TQLC, các đơn vị trực thuộc đó là 3 tiểu đoàn tác chiến TQLC, TĐ1/PB gồm BCH/TĐ và Pháo đội A, Pháo đội C, các đơn vị Thiết Giáp tăng phái…lần lượt di chuyển đoàn xe rời vùng hành quân.
Vẫy tay chào quân bạn mà lòng chẳng có gì đáng vui.
Đã chấp nhận vào cuộc chiến là chấp nhận hy sinh, nhưng chỉ phiền rằng cấp trên đã “lột” hết phương tiện di chuyển và đem con bỏ bơ vơ một mình.

Trương Công Thông – Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC Thần Tiễn – dòng sông cũ



Thứ II: PĐB/TQLC hành quân đơn độc 4 ngày Hương Lộ 555.

1. Nhiệm vụ Yểm Trợ:
Phòng tuyến của LĐ258/TQLC được bàn giao cho Liên đoàn 913 Địa Phương Quân/Tiểu Khu Quảng Trị gồm 4 Tiểu đoàn.

Phòng tuyến của LĐ369/TQLC chỉ còn lại TĐ6/TQLC. Pháo đội B có nhiệm vụ yểm trợ tất cả các lực lượng kể trên. Nhận lệnh trực tiếp từ Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh BTL nhẹ SĐ/TQLC/Hành Quân. Pháo đội B đã nhanh chóng liên lạc với Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Khóa 13 Võ Bị Đà Lạt), báo cáo tình hình: quân số (không quá 90 pháo thủ), vũ khí (6 Đại bác không xe kéo, cùng các vũ khí cá nhân), đạn đại bác, đạn súng cá nhân, 10 ngày gạo + điện trì, không phương tiện mua và tiếp tế thực phẩm!

Nội dung cuộc điện đàm qua hệ thống vô tuyến giữa Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt (Đà Lạt) với Đại úy Lưu Văn Phúc (Phúc Yên)
– Phúc Yên: kính chào Thẩm Quyền Đà Lạt, tôi Phúc Yên, Bravo 1.
– Đà Lạt: chào Phúc Yên, đây Đà Lạt, nghe bạn rõ. Cho biết tình hình của bạn. (Bằng ngụy hóa, Phúc Yên đã báo cáo đầy đủ lên Đà Lạt như nêu trên).
– Đà Lạt tiếp: Đây là các tần số liên lạc yểm trợ. Tôi đã ra lệnh các Đề Lô vào hệ thống tác xạ của bạn. Bạn có câu hỏi gì cần giải quyết?
– Phúc Yên: Chúng tôi đơn độc. Cần đi, lại dễ dàng. Nhưng cả 7 GMC của Pháo đội B, Lạc Long trưng dụng. Mong Thẩm Quyền can thiệp và hơn nữa Lạc Long còn lệnh cho chúng tôi dọn sạch các kho đạn: Hội Yên, Phong Điền, Điền Môn đưa về Thuận An.
– Đà Lạt: Tôi can thiệp để Lạc Long hoàn trả bạn những GMC ngaỵ (Thế nhưng mãi chiều ngày 19-03-1975, Pháo đội B mới đón nhận được đoàn xe trở về vị trí. Cám ơn các tài xế, các bạn đã hoàn thành xuất-sắc nhiệm vụ khó-khăn, vượt lằn đạn pháo của địch từ cây-số 17 trở ra Hội Yên với Pháo đội).

2. Diễn tiến từ 17 đến tối 21/03/1975
Sau cuộc liên lạc với Thiếu Tá Đạt, Pháo đội B đặt trong tình trạng ứng chiến. Sẵn sàng “Yểm trợ Quân Bạn” và tự “Phòng Thủ”.

Ngay chiều và tối 17/03/1975, nhiều đơn xin Tác xạ các Sĩ Quan Tiền sát viên thuộc 4 Tiểu đoàn Địa Phương Quân và Tiểu đoàn 6/TQLC.
Thiếu hẳn Trung tâm Phối hợp Hỏa lực nên không có sự thống nhất chỉ-huy. Pháo đội B tính yếu-tố bằng 3 xạ bảng, 3 hệ thống tác xạ khác nhau, cố gắng thỏa mãn những yêu-cầu Yểm Trợ. Cần thêm đạn – dược, Pháo đội phải xử dụng 1 xe jeep chuyên chở đại-bác không thùng gỗ, và vác bộ bởi các pháo thủ được cử ra của mỗi khẩu đội, các ban Truyền tin, đại liên, tạp vụ…và mỗi khẩu đội cử 2 người làm vào công tác chuyển đạn từ Tiền trạm Hội Yên về vị trí Pháo đội (khoảng cách chừng non 1 cây số).
Gần nửa đêm, chấm dứt Tác xạ Yểm Trợ. Pháo đội chia phiên tăng cường phòng thủ, thay nhau ăn, ngủ, canh gác, dọn dẹp dư liệu tác xạ…
Một đêm nặng – nề trôi qua . Những ngày sắp đến ra sao?

Ngày 18/03/1975, mới từ sáng sớm tôi được đánh thức bởi Hạ sĩ quan trực, dù rằng chỉ chập-chờn ngủ hơn 1 tiếng đồng hồ trước đó.
– “Ông thầy dậy đi, vọng lính gác cao nhất phát hiện có nhiều quân di chuyển về hướng mình” [Sở dĩ anh ta gọi tôi là “ông thầy” vì vào năm 1967, chúng tôi là thầy trò cùng một toán Tiền sát Pháo Binh].
Nhanh chóng đi đôi giầy trận, tôi theo Trung sĩ Thiềng, người Hạ sĩ quan trực, tiến lên vọng canh gác. Chiếu ống nhòm quan – sát, quả thực nhiều cánh quân đang di chuyển về phía chúng tôi. Quay sang Trung sĩ Thiềng, tôi nói: “Kẻng báo động”
Pháo đội từ Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh sĩ gần 90 pháo thủ nhanh chóng vào vị – trí với đầy đủ súng, đạn cá nhân, áo giáp, nón sắt, mặt nạ. Tiếp tục quan sát, vào hệ – thống Tiền sát viên để liên lạc, biết được quân bạn là các đơn vị Địa-Phương Quân đã rời tuyến phòng thủ bên bờ Thạch-Hãn để tái phối – trí lực-lượng tại phía tây cầu Vân Trình đến Quốc lộ 1.

Tuy nhiên, còn được an – ủi phần nào vì Tiểu đoàn 6 Thủy Quân Lục Chiến vẫn vững tay súng gần thị – xã Quảng Trị đổ nát. Kể từ lúc này, trước mặt và bên hông phải không còn quân bạn. Pháo đội B: “6 Đại bác + không xe kéo súng + gần 90 pháo thủ chưa từng tác chiến bộ binh” ở vị trí cao nhất, xa nhất! Từ điểm đóng quân Pháo đội về đến Hương Điền, nơi đặt Bộ Tư Lệnh nhẹ Sư Đoàn không còn quân bạn, ngoại trừ một toán (tương đương cấp tiểu – đội) canh gác kho đạn Điền Môn! Tha hồ mà mát mẻ, anh em pháo thủ Pháo đội B ơi! Mát cả mặt, mát lưng và lạnh cẳng! Nhưng ngoài mặt, tôi với nhiệm vụ Pháo-đội-trưởng vẫn cố giữ vẻ bình thản. Chỉ bàn riêng với Trung úy Pháo đội phó Huỳnh Thái Sơn và 3 Sĩ Quan Trung đội trưởng. Tăng cường canh gác và phòng thủ. May thay! Quân Cộng Sản Bắc Việt chưa biết phòng tuyến Thạch Hãn đã bỏ trống. Hay chúng lo ngại “nghi binh để lừa chúng vào vòng” của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng Hòa?
Nhưng đối với tôi, 1 đơn vị nhỏ cấp Pháo đội = cấp Đại đội, cứ yên được lúc nào hãy mừng lúc đó.
Một đêm 18/03/1975 nặng nề, u ám đã qua .

Ngày 19/03/1975, tôi ngủ thiếp trong đài tác xạ. Giật mình thức vì tiếng súng đại bác. Ngồi dậy, tôi hỏi: Yểm trợ đơn vị nào?
– Trung úy Sơn nói: Dạ, yểm trợ cho Tiểu đoàn 6/TQLC.
– Pháo đội trưởng: Pháo đội yểm trợ lâu chưa?
– Trung úy Sơn: Mới tác xạ điều chỉnh xong và bắt đầu bắn hiệu quả.
– Phúc Yên: Sơn có cho lấy thêm đạn từ kho đạn về không?
– Trung úy Sơn: Anh em đang vác thêm.
Không dùng xe Jeep, vì tài xế cho biết còn rất ít xăng!
– Phúc Yên: Đáp ứng theo yêu cần của quân bạn. Nhưng tác xạ 5 khẩu, còn 1 khẩu phòng thủ. Giải quyết cho hết số đạn tại kho đạn Hội Yên!
Quay sang âm thoại viên, tôi bảo:
– Dùng máy PRC25 khác gọi Hậu Trạm (Thành nội Huế).
Sau khi gọi nhiều lần. Chúng tôi liên lạc được Hậu Trạm, đoàn xe cơ hữu của Pháo đội B mới từ Đã Nẵng về đến Huế.
Mỗi xe một tài xế, không lực lượng hộ tống! Can đảm thay và cũng thương các chiến sĩ tài xế này. Vắn tắt, tôi an ủi anh em và bảo họ nghỉ ngơi vài tiếng tại Hậu Trạm, yêu cầu Ban 4 Tiểu đoàn (còn lại vài nhân viên) cho lãnh nhiên liệu, thu xếp vào vị trí Pháo đội trước 4 giờ chiều.
Các tài xế thi hành nghiêm chỉnh lệnh, và chiều ngày 19/03/1975 đoàn xe 7 GMC đã chạy ngược từ Huế (tương đối còn an toàn) vào Hội Yên, Hải Lăng, Quảng Trị đầy dẫy bất trắc dọc đường vì đạn địch pháo kích, quân bạn chạy ra Huế, dân chúng chạy theo…
Toàn thể Pháo đội hoan hô và tuyên dương các bạn tài xế.
Trung úy Thái Sơn ra lệnh phân tán các GMC để tránh đạn pháo kích của địch.
Trung úy Tri Thường, Thiếu úy Lương Văn Phúc, Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn đôn đốc việc phòng thủ.

Ngày 19/03/1975 là ngày đầu tiên chẳng được đơn vị nào “cover” phía trước. Sau này tôi được biết: TĐ 7/TQLC bàn giao vị trí phòng thủ cho Tiểu đoàn 6/TQLC. Trong ngày này, TĐ 6 di chuyển vào Đà Nẵng.
BCH/TĐ7/TQLC phòng thủ tại cầu Phổ Trạch, một Đại đội ngược hướng Bắc đến ngã tư Hội Yên (nơi Pháo đội B đang chiếm đóng đơn độc) và Hương Lộ 555. (Nhưng thời gian ấy, Pháo đội không được nhận được bất cứ lệnh gì từ bất cứ cấp chỉ huy nào).

Ngày hôm sau 20/03/1975, TĐ 7/TQLC nhận được lệnh của Đại tá Tư lệnh phó SĐ/TQLC chuẩn bị di chuyển vào Đà Nẵng thay thế TĐ 11 Dù nằm trên đèo Hải Vân. (Cam Ranh: TĐ 7/TQLC và LĐ147, những ngày cuối tháng 3 tại chiến trường Huế).

PHÚC YÊN TỰ QUYẾT ĐỊNH LUI BINH:
Màn đêm buông xuống, cảnh vật vắng lặng đến “lạnh mình”, đằng trước không quân bạn!, liên lạc cấp trên không có trả lời.
Hệ thống truyền tin “im lặng vô tuyến”.
Lòng tôi buồn vời vợi, lo âu ngập tràn. Tôi “uống thuốc liều”, ra lệnh các sĩ quan họp khẩn cấp, và quyết định: LUI BINH, chấp nhận mọi hậu quả đến với cá nhân mình sau này.
Thứ 1: Rút toán tiền trạm Hội Yên và Pháo đội cho GMC gom hết tất cả đầu nổ đạn Đại bác – Di chuyển thêm đạn dược được chừng nào hay chừng nấy.
Thứ 2: Lợi dụng ban đêm, hơn 7 giờ tối Trung úy Sơn cùng Thiếu úy Lương Văn Phúc dùng 3 GMC kéo 2 đại-bác, đạn dược, truyền tin, tác xạ di chuyển về hướng Nam, theo Hương lộ 555, đóng quân gần ngã ba Vân Trình, sẵn sàng yểm trợ Pháo đội. Chỉ hơn 2 tiếng đồng hồ sau, Bích-Chiêu 3 do Trung úy Thái Sơn giám-sát và Thiêú úy Lương V. Phúc trực tiếp chỉ huy đã báo cáo: “sẵn sàng”.
Thứ 3: Trong khi chờ Bích Chiêu 3 hoàn trả 3 GMC về Pháo đội. Tôi chỉ thị Trung úy Tri Thường đem con cái Bích Chiêu 1 cùng 2 đaị-bác, đạn dược, lương thực, vũ khí cá nhân, dùng 3 GMC khác: “Thế lên đường” và suôi nam Hương lộ 555, qua mặt Bích Chiêu 3, tìm vị trí thuận lợi đóng sau Trung đội 1/B/TQLC khoảng 3 cây số. Hướng súng yểm trợ Bích Chiêu 3 và Pháo đội. Chú trọng việc phòng thủ vị trí. Gửi trả Pháo đội 3 GMC. Báo cáo sẵn sàng.
Thứ 4: “Đúng là trời đất mênh mông, đâu là quân bạn?!” Trung đội 2/Pháo đội B/TQLC với Ban Chỉ huy Pháo đội chưa đếm đủ con số 40, bây giờ ở ngay “tuyến đầu”. Chốt sang sông, đâu mong gì trở lại. Nhưng khi gom đủ 7 GMC, Phúc Yên nói Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn (ông SQ trẻ này đã được Phúc Yên chấp thuận cho rời nhiệm vụ vào ngày 25/4/1975 tại Long Thành để cùng cha mẹ, vợ con di tản sang Hoa Kỳ ngày 28/4/1975, hiện định cư tại tiểu bang Wisconsin) thu dọn tất cả đạn dược, cuộn mìn Claymore dọc theo các vòng rào phòng thủ, đem tất cả những gì có thể đem được, chất lên 7 GMC và 1 jeep. Báo cáo Phúc Yên khi sẵn sàng, nhưng đừng quên canh gác trong lúc dọn dẹp vị trí Pháo đội. Thiếu úy Kim Sơn cho biết: Đạn dược chỉ có thể mang theo 1 cấp số và tất cả đầu đạn. Tôi ra lệnh: “Gài chất nổ các kho đạn để phá hủy.” Đây là 1 quyết định LIỀU LĨNH. Nhưng cấp trên đã bỏ chúng tôi, chúng tôi phải làm như thế để tìm con đường SỐNG! Liên lạc Thái Sơn & Tri Thường theo dõi “những vòng bánh xe âm thầm” của gia đình Bích Chiêu (PĐ-B (-)). Vẫy tay vĩnh biệt vị trí cũ thân yêu để theo Hương Lộ 555 suôi Nam.
Cho xe ghé đón toán tiền trạm Điền Môn. Vượt qua Bích Chiêu 3 & 1 thì đồng hồ đã chỉ hơn 3 giờ sáng ngày 20-03-1975.

Ngày 20-3-1975, ngồi trên xe, dẫn đoàn xe đưa gia đình Bravo tìm chỗ “dung thân”, Phúc Yên chỉ thị Bích Chiêu 1 và 3 chỉ liên lạc nội bộ. Toàn bộ còn lại của Pháo đội chiếm đóng vị trí phía Bắc cầu Đại Lộc. Công việc xong thì trời hừng sáng. Tôi nói Ban ẩm thực lo cho các tài xế và Trưởng ban Quân Xa vấn đề ăn uống.
Lúc này Pháo đội phó phải chỉ huy Trung đội 3, nên việc gì tôi cũng cần trực tiếp. Thiếu úy Kim Sơn lo tổ chức vị trí và phòng thủ.
Các ban tác xạ truyền tin làm Đài Tác Xạ, ban đại liên và công vụ lo canh gác. Tôi chỉ thị ông Hạ sĩ quan Quân xa cho 3 GMC về vị trí Trung đội 3 và 3 GMC về vị trí Trung đội 1. Mấy chú em của tôi thật giỏi.
Đài tác xạ chưa thiết lập xong, truyền tin còn đang dựng ăng ten dù, thì họ đã đem cho tôi và Thiếu úy Kim Sơn mỗi người một tô mì gói và nửa ca cà phê, riêng tôi còn có thêm gói thuốc lá PallMall. Thôi thì cũng cố mà ăn để còn lấy sức, tới đâu hay tới đó.
Ngó vào đài tác xạ đang được thiết lập, tôi thấy Trung úy Nguyễn văn Phú đang giúp hướng dẫn các nhân viên Ban Tác xạ thiết lập xạ-bảng; chỉ bảo Hạ sĩ quan Tác xạ cùng Thiếu úy Nguyễn Kim Sơn gióng hướng súng sẵn sàng yểm trợ Bích Chiêu 1 va Bích Chiêu 3.
Phúc Yên ra lệnh Gia Đình Bích Chiêu 3: “Thế lên đường”.
Hơn 8 giờ sáng, Trung đội 3/PĐ-B “dọn” đến ngang chỗ Pháo đội đóng quân. Tôi lái jeep ra gặp Thái Sơn và Lương v. Phúc ngay trên lộ 555, chỉ vị trí đóng quân cho Trung đội 3/PĐ-B gần Chợ Biện.
Khoảng 10 giờ sáng 20/3/1975, Bích Chiêu 3 báo cáo: sẵn sàng tác xạ. Phúc Yên tiếp tục chỉ thị Bích Chiêu 1 do Trung úy Tri Thường chỉ huy “nhổ neo” dọn nhà về đóng chung với vị trí Pháo đội. Công việc hoàn tất hơn 12 giờ trưa. Cho đến giờ phút đó, địch vẫn chưa biết thật sự tình hình phòng tuyến quân ta tại chiến trường Quảng Trị, tôi đoán thế. Mệt mỏi, tôi nằm xuống “ghế bố” đặt trong đài tác xạ ngủ thiếp.
Giật mình thức dậy khi nghe nhiều tiếng đạn nổ.
À, vậy ra địch cũng tìm được vị trí của tôi! Chúng đang chào mừng Pháo đội B đó! Tôi nhỏm dậy, hỏi nhân viên tác xạ: “Pháo đội có sao không?”
Phương, hạ sĩ trực truyền tin nói: “Dạ thưa không có gì, đại úy.”
Tôi chụp nón sắt lên đầu, khoác áo giáp bước ra khỏi căn hầm. Đài tác xạ tạm làm bằng thùng đạn đổ đất, trên có vỉ sắt và 3 lớp bao cát chống pháo kích.
Tiếng người trưởng đài tác xạ cất lên: “Nó đang pháo kích ông thầy ra ngoài chi vậy?” Tôi trả lời: “Xem anh em thế nào. Coi chừng sau màn pháo là nó đánh. Loạng quạng ‘tiêu’ với nó.”
Đạn pháo kích vẫn nổ, nhưng chưa quả đạn nào lọt được vị trí. Đa số rơi xuống sông chảy ngang cầu Đại Lộc. Tôi ra lệnh anh em cứ ẩn nấp, sẵn sàng chiến đấu, đừng nghĩ chuyện phản pháo. Yêu cầu Trung úy Tri Thường và nhờ Trung úy Phú cùng đo phương giác, ước lượng khoảng cách đưa lên xạ bảng để tôi cùng Ban Tác Xạ xác định vị trí súng địch. Có được những điểm nghi ngờ, tôi ra lệnh Trung úy Sơn cho Bích Chiêu 3 phản pháo kích của địch quân.
Không biết phản pháo có hiệu qủa hay không, nhưng địch im tiếng súng.
Lúc đó, trời đã ngã về chiều. Tôi nói Tri Thường, Kim Sơn hãy lo thay nhau cơm nước, nghỉ ngơi và đôn đốc canh gác.
Tôi cũng nhắc Thái Sơn đừng quên “đang ở một mình, ráng mà giữ thân.”
Thái Sơn trả lời: “Phúc Yên cứ an-tâm, Sơn và Lương v. Phúc sẽ thay nhau chong mắt nhìn màn đêm, gia đình Bích Chiêu 3 cảnh giác cao độ.”
Đêm 20/3/75 rạng 21/3/75, khoảng gần 3 giờ sáng, lợi dụng sương mù dày đặc ban đêm địch đã bò từng toán từ rặng đồi dương liễu và ven sông để mong đột nhập vào vị trí pháo đội. Nhưng các trạm canh gác phát hiện sớm, chúng bị ăn đạn súng cá nhân và đại bác nên bỏ chạy.
Sáng sớm chúng tôi không dám mạo hiểm hành quân lục soát, lính Pháo binh thì chỉ biết bắn đại bác và phòng thủ vị trí đã khá lắm rồi.

Ngày 21-3-1975, đợi sáng hẳn, tôi cho mời Thường vụ Pháo đội đến gặp tôi nhận công tác.
“Anh chỉ huy 1 toán gồm 7 người kể cả 1 binh sĩ truyền tin với máy PRC25. Di chuyển bộ, vượt cầu và đến phía Nam, bên trái có 1 trường học có lẽ bỏ trống lâu ngày; chiếm giữ, canh gác an ninh 2 bên đầu cầu và vị trí trường học. Pháo đội sẽ di chuyển sang ngay sau khi anh báo cáo bố trí an-ninh phòng thủ xong. Quân trang, quân dụng của 7 Pháo thủ này sẽ do Trung đội Công vụ bảo quản và đưa lên GMC.”
Thường vụ Pháo đội thi hành lệnh nhanh chóng cùng toàn Thám sát vị trí lên đường. Triệu tập Tri Thường, Kim Sơn, tôi nói: “Cơm nước nhanh, dọn dẹp lẹ, thay phiên trực gác để có thể ăn uống và sẵn sàng thế lên đường khi có lệnh.”
Nhờ Phú chỉ thị Thái Sơn tính yếu tố bắn yểm trợ cho Pháo đội rút lui nếu cần.
Không thể liên lạc được với Bộ Tư Lệnh nhẹ SĐ/TQLC/HQ, mất liên lạc với mọi đơn vị bạn từ trưa 19/3/75.
Với nhiệm vụ người chỉ huy một đơn vị nhỏ mà ở ngay tuyến đầu, nặng nề với súng đại bác, công tác dọn các kho đạn không thể thi hành. Trong lịch sử chiến trận chưa bao giờ Pháo binh lại đơn độc như tình hình Pháo đội B hiện nay.
May thay, quân Cộng sản Bắc Việt chưa xua quân vượt Thạch Hãn để truy đuổi chúng tôi. Chúng nó còn sợ bóng vía cứ tưởng rằng phòng tuyến Quảng Trị vẫn còn những chiến sĩ Cọp Biển anh hùng, từng cắm cờ Cổ Thành Đinh Công Tráng, từng tay đôi với xe tăng bọn chúng. Nếu chúng biết rõ tình hình lúc đó tại tuyến đầu Quảng Trị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa chỉ có 1 Pháo đội với khoảng 90 tay súng. Từ Thạch Hãn đến Nam Cầu Vân Trình đường thênh thang rộng mở, thì bọn địch chỉ cần xử dụng 1 đơn vị cấp Tiểu đoàn là có thể đưa gia đình Bích Chiêu đi nghỉ phép dài hạn ở thế giới bên kia.
Phúc Yên và các Sĩ Quan trong Pháo đội lo âu và bàn tính mọi cách bảo toàn lực lượng. Nhưng anh em pháo thủ vẫn hoạt động bình thường vì họ chẳng biết gì về tình trạng nguy nan của đơn vị.
Mọi lệnh đưa xuống, các Trung đội, các khẩu đội, các ban trực thuộc đều nghiêm chỉnh thi hành.
Xin dừng ở đây để viết lời cám ơn anh em.
Khoảng 10 giờ sáng ngày 21/3/7, Pháo đội B đã “sang sông”, tạm chiếm đóng tại sân trường học đổ nát, tọa lạc tại phía Nam cầu Đại Lộc. Chưa kịp làm hầm hồ phòng thủ, Pháo đội lại bị Pháo kích. Tôi nghĩ có Đề-lô của địch bám sát và trà trộn trong dân chúng địa phương.
Vài quả đạn đã bắn gần vị trí. Rơi ngay các thửa ruộng sũng nước làm tung toé nước lẫn bùn. Vài quả đạn địch bắn dài hơn.
Tiếng của Tri Thường gọi Thái Sơn phản pháo. Bên ngoài đài tác xạ, có Kim Sơn và tôi đang cùng anh em tìm chỗ khả dĩ có thể tránh đạn pháo kích, nhưng vẫn lo phòng thủ.
Có lẽ đại quân chưa xuất hiện, chỉ đơn vị nhỏ của địch Pháo kích chúng tôi bằng súng cối. Nhưng tôi thật nóng ruột. Mù mờ về tình hình bạn và địch. Phải chi còn liên lạc được với cấp chỉ huy thì đỡ biết chừng nào.
Bớt đạn pháo kích, tôi chạy nhanh vào đài tác xạ và nghĩ miên man. Tiếng nói vang lên từ loa khuếch đại của hệ thống truyền tin.
– Đà Lạt: Bích Chiêu đây Đà Lạt, nghe rõ trả lời.
– Âm thoại viên: Đà Lạt đây Bích Chiêu, tôi nghe Đà Lạt 5/5.
– Đà Lạt: Cho gặp Phúc Yên, thẩm quyền của bạn.
– Phúc Yên: Chào Đà Lạt, Phúc Yên nghe.
– Đà Lạt: Bạn bây giờ ở đâu? Sao không liên lạc báo cáo cho tôi?
Giọng nói của Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt khá gay gắt.
Tôi bình tĩnh trả lời: “Trình Thẩm Quyền, từ trưa 19/3/75 tôi cố liên lạc hoài không được với thẩm quyền và bất cứ đơn vị bạn nào”. Tôi đoán rằng Thiếu Tá Đạt thông cảm hoàn cảnh không sáng sủa gì của Pháo đội B.
Nên ông dịu giọng: “Thôi, gỡ loa đi, về nhà pháo (33.40 #33.41)”.
– Phúc Yên: Đáp nhận.
Tóm tắt cuộc điện đàm như sau:
1- BTL nhẹ SĐ do Đại tá Tư Lệnh phó Nguyễn Thành Trí trực tiếp chỉ huy tại Hương Điền, chỉ có 1 trung đội Viễn Thám canh gác bảo vệ.
Phòng 3 còn 1 vài Sĩ quan cấp nhỏ và số ít nhân viên. Trung tá Nguyễn văn Nhiều, Trưởng Phòng 4 và một số nhân viên trực thuộc còn ở lại. Pháo binh vỏn vẹn 4 thầy trò Thiếu Tá Đạt.
2- Kho đạn Hương Điền với hơn 20,000 đạn đại bác được phòng thủ và bảo quản bởi toán tiền trạm không hơn 15 người do Trung úy Phan Đông, Sĩ Quan Đạn dược, Tiểu đoàn 1 Pháo binh chỉ huy. Tại đây còn có 1 trung đội Công Binh TQLC? (Phan Đông hiện định cư tại Ohio).
Chi khu Hương Điền không biết rõ họ còn bao nhiêu quân nhân tại chỗ? Ôi, Tư Lệnh cả một chiến trường mà lực lượng phòng thủ mỏng đến thế hay sao? Tôi nghe mà thở dài ngao ngán.
3- Tiểu khu Quảng Trị đã về đến Huế (để thi hành nhiệm vụ gì?).
4- Lệnh cho Pháo đội B lui binh, không có bộ binh tác chiến bảo vệ đằng sau.:
Phải rút về cửa Thuận An khoảng trước sau 5 giờ chiều, không sớm cũng không muộn.
5- Thiếu Tá Đạt yêu cầu tôi báo cáo vị trí Pháo đội.
Tôi vì muốn dấu vị trí thật, nên báo cáo láo như sau: Gia đình Bích Chiêu phân tán, tôi cho một đứa con Bích Chiêu 3 ra ở riêng, buôn bán gần Chợ Biện; còn lại thì thầy trò tôi ở Điền Môn.
Thiếu Tá Đạt sốt ruột và nói: Sao giờ này còn ở đó? Chờ đến bao giờ mới về gần nơi đây? Tôi trả lời: Có giới chức nào cho lệnh gì đâu mà dám di chuyển?
Thiếu Tá Đạt là cấp chỉ huy đầu tiên của tôi vào thời gian tháng 8/1966 lúc tôi vừa đáo nhậm đơn vị sau khi tốt nghiệp khóa 21 Sĩ Quan Pháo Binh, Dục Mỹ, Nha Trang.
Ông ta hiểu tôi là “ưa liều lĩnh”, nhưng càng trải chiến trận, tôi càng thận trọng hơn trong mọi việc “xuất, sử,” tuy nhiên tôi chỉ làm những gì theo bổn phận, trách nhiệm, tuyệt đối chưa bao giờ “nói hay hơn làm” để vừa lòng cấp trên.
Bởi vậy tôi thường hay lận đận, khoá 21 SQ Pháo Binh phục vụ binh chủng TQLC tất cả 5 người thì 4 SQ kia lần lượt đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng từ năm 1970. Riêng tôi thăng từ Đề Lô cấp đại đội, tiến lên Đề Lô cấp Tiểu đoàn, rồi làm Sĩ Quan liên lạc Pháo binh cạnh các BCH Lữ Đoàn cho đến tháng giêng năm 1973. Nước cạn bèo dính đất, khoá 22, 23, 26, 2/68 đã là Pháo đội trưởng chả lẽ tôi cứ tiếp tục Sĩ Quan liên lạc, nên tháng 4/1973 cấp trên cũng giao cho tôi 1 Pháo đội tình trạng đang đà tuột dốc.
Được dịp “khảo sát khả năng lãnh đạo chỉ huy,” nên cấp trên chỉ định tôi cùng Pháo đội B ở lại “trần trụi” với chiến trường Quảng Trị bỏ ngỏ!!!
Cho nên Thiếu Tá Nguyễn trọng Đạt thương cho hoàn cảnh của chúng tôi.
Ông bỏ nhỏ: “Ráng mà đem gia dình Bravo về cửa Thuận An trước trời sập tối của ngày 21/3/75”.
Tôi đáp nhận. Chấm dứt liên lạc.
Tôi chỉ thị Pháo đội (-) các chi tiết lui binh.
Gọi Bích Chiêu 3 chờ đón, xe Jeep đưa 4 thầy trò tôi về gặp Thái Sơn.
Gặp anh em Trung đội 3/PĐ-B đóng gần Chợ Biện, tôi họp nhanh với Thái Sơn và Lương v. Phúc.
Cho 2 Sĩ Quan này biết kế hoạch triệt thoái và giờ giấc. Chúng tôi quay lại vị trí Pháo đội (-). Mới về đến gia đình Bích Chiêu, bước vào đài tác xạ, người trực truyền tin cho tôi biết Trung úy Phan Đông. Chỉ huy Tiền trạm Hương Điền chờ tôi trên hệ thống nhà Pháo (33.40).
Tôi vào máy và qua điện đàm, Phan Đông cho tôi biết phải mau chóng qua được Nam Cầu Đại Lộc, vì Công Binh TQLC có lịnh phá cầu. Tôi cám ơn Phan Đông nhưng không hề tiết lộ vị trí thật và chúng tôi cũng đã dự trù để ngăn chặn chiến xa địch nếu cần thì chính Pháo đội B sẽ giật xập cầu trước lúc lui binh. Bây giờ có anh em Công Binh làm công tác đó, càng khoẻ cho chúng tôi. Cám ơn bạn Phan Đông.

RÚT LUI VỀ THUẬN AN.
Khoảng gần 3 giờ chiều 21/3/75, tôi ra lệnh trung đội 1 do Trung đội trưởng Trung úy Tri Thường kéo đại bác, đạn dược, vũ khí, quân dụng rút trước.
Tôi nói khéo với Trung úy Phú để ông ta đi cùng Trung đội 1 rút lui trước. Ban chỉ huy Pháo đội và Trung đội 2/B cùng tất cả các ban rút sau. Về ngang Chợ Biện, nhập với Trung đội 3/B. Pháo đội chúng tôi cho xe ghé vào kho đạn Hương Điền đón toán tiền trạm của Trung úy Phan Đông.
Tôi chỉ bốc đầu đạn (mà cũng không hết) và quyết định bỏ mặc kho đạn Hương Điền. Sức kham không nổi. Tôi quyết định “uống thuốc liều”, tới đâu hay đó, tôi nghĩ: “giữa cái chết của đơn vị và cái án tù bất tuân thượng lệnh dành cho cá nhân mình, thì nên chọn cái nào, bên nào nặng, bên nào nhẹ?”
Đoàn xe về đến cửa Thuận An chừng độ 5 giờ chiều, tôi nói với Thái Sơn cho hạ càng súng đại bác, xe phân tán, phân chia các trung đội phòng thủ, nghỉ ngơi ăn uống. (Pháo Binh có thuốc bồi đạn đại bác, nên nấu nước chế gạo xấy, hay hâm nóng thịt hộp, nấu cà phê, pha trà, thậm chí nấu cơm rất nhanh.)
Tôi lái đến gặp sĩ quan chuyển vận Phòng 4/SĐ/TQLC và được cấp 1 phà quân sự lần lượt đưa toàn bộ Pháo đội gồm tất cả Pháo Thủ với xe kéo súng, xe jeep, quân dụng, vũ khí, 1 cấp số đạn đại bác…qua phía Nam cửa Thuận cũng phải 4 chuyến mới hoàn tất. Qua đến phía Nam, trời đã về chiều.
Tôi cho gọi Hậu Trạm Pháo đội B tiếp tế lương thực, nhiên liệu cho Pháo đội chuẩn bị kéo súng di chuyển đường bộ về Đà Nẵng, có thể sáng hôm sau 22/3/75.
Vặn Radio để nghe tin tức, rà mãi chẳng nghe đài phát thanh Huế phát sóng lên tiếng. Hơn 7 giờ 30 chiều, Trung sĩ Nguyễn văn Mới, Hậu trạm Pháo đội B gặp Pháo đội bằng 1 GMC, tuy có nhiên liệu nhưng đáp ứng rất ít! Lương thực hoàn toàn không. Anh ta chỉ kịp ghé chỗ quen mua tạm cho Pháo đội ít cà phê, đường, và thuốc lá.
Trung sĩ Mới cho biết: Hậu trạm các Tiểu đoàn kể cả Hậu trạm Tiểu đoàn 1 Pháo binh đã di chuyển về Đà Nẵng.
Hiện vài thầy trò Thượng sĩ Huỳnh Nghiệm lo dọn nốt quân dụng. Nếu họ di chuyển thì chỉ còn lại Hậu trạm Pháo đội B với 3 GMC trong dó 2 GMC hư hỏng không phụ tùng sửa chữa.
Tôi trấn an anh ta: “Nếu Pháo đội về Đà Nẵng, tôi cho liên lạc trước, toán hậu trạm của anh sẽ đón chúng tôi, trên đường chạy xuống phi trường Phú Bài, thứ gì có thể đem được thì đem, còn lại bỏ hết, kể cả 2 GMC hư hỏng. Không có gì phải lo lắng. Yên trí, Pháo đội không bỏ rơi các anh đâu!”.

Lệnh Trở Lại Chiến Trường: NHƯNG, lại có chữ NHƯNG. Đời qủa là rắc rối.
Người âm thoại viên tới, chào và nói: “Trình Đại úy, Thiếu Tá Đạt cần gặp”.
Tôi bước đến xe jeep có thiết trí máy PRC25 và gặp Thiếu Tá Đạt qua hệ thống vô tuyến. Ông cho tôi biết: Lệnh của Đại tá Trí là Phúc Yên phải quay lại ngay nhận lệnh; toàn thể Pháo đội kéo đại bác trở lại sau. Tôi thở dài ngao ngán. Nhưng Lệnh phải thi hành.
Cho mời Trung úy Phú, cựu Pháo đội phó Pháo đội B, hiện đang cùng Pháo đội ở lại Quảng Trị, (lý do tại sao thì chỉ Thiếu Tá Lạc biết).
Phú vừa tốt nghiệp khóa Pháo Binh Trung cấp. Đáng lẽ Phú xứng đáng giữ chức vụ Pháo đội trưởng bất cứ Pháo đội A, B hay C. Nhưng cấp trên lại giao cho một Sĩ Quan cùng khóa 26 Pháo Binh với Phú từ đơn vị khác thuyên chuyển về đảm nhận chức vụ Pháo đội trưởng.
Đời thường vẫn có cảnh: “Bụt nhà không linh thiêng” là thế đó.
Cá nhân Phúc Yên đôi ba lần đề nghị giao PĐ-B để Phú chỉ huy, đồng thời Phúc Yên đã làm đơn nộp xin thuyên chuyển xuất binh chủng TQLC.
Ngày nào còn phục vụ trong PB/TQLC thì sao chiếu mệnh là “sao quả tạ”.
Vì để tránh nguy hiểm đến với Phú. Từ ngày 16/3/75 đến hôm nay (21/3/75) tôi đề nghị Trung úy Phú chỉ nên ở trong Đài tác xạ. Giúp được gì tùy ý, tôi không muốn Phú lao ra ngoài nguy hiểm như những ngày còn quân số Pháo đội B.
Trung úy Phú gặp và hỏi tôi: “Đại úy cho gọi tôi có việc chi, tôi sẵn sàng”.
Làm như có lệnh trên, tôi nói: “Tiểu đoàn gửi công điện từ Đà Nẵng, yêu cầu Phú về Bộ chỉ huy Tiểu Đoàn 1 Pháo Binh/TQLC. Bây giờ Phú đi cùng Trung sĩ Mới về Huế. Cố gắng tìm phương tiện nhanh nhất về Đà Nẵng. Chúng tôi sẽ về đó sau”.
Phú nói: “Đại úy báo cáo với Tiểu đoàn, tôi ở lại cùng Pháo đội và sẽ cùng về Đà Nẵng một lượt”.
Tôi nói: “Phú ơi, bạn phải về Tiểu đoàn. Tôi không còn phương tiện liên lạc với họ. Tôi chỉ được Thiếu Tá Đạt chuyển lệnh”. Tôi phải nói dối để Phú rời vùng Pháo đội hành quân. Chúng tôi quay trở lại Quảng Trị với nhiệm vụ trì hoãn chiến ngăn sức tiến quân của địch. Đơn vị ở lại được xem như thành phần không có hy vọng trở về nguyên vẹn.
Phú buồn bã chào tôi và từ biệt Pháo đội, bắt tay những người đứng gần và thu xếp ba lô lên xe GMC cùng Trung sĩ Mới về Huế.
Bằng cách nào Phú về đến Đà Nẵng an toàn, tôi chưa hề hỏi lại Phú.
Quay sang Thái Sơn, tôi nói: “Sơn ơi, bây giờ tôi, Phương (âm thoại viên), Tài (cận vệ) và Thông (tài xế xe jeep) xuống phà trở lại trước. Bạn chỉ huy Pháo đội kéo súng xuống phà, quay lại sau, thứ tự ưu tiên: Trung đội 1, 2, Trung đội chỉ huy và Trung đội 3. Giữ liên lạc. Gần đến Hương Điền, tôi sẽ đón”. Tôi hạ giọng và nói nhỏ với Thái Sơn: “Tụi mình vào nơi gió cát xa trường làm một nhiệm vụ khó hoàn thành: Trì hoãn chiến”.

Thay lời kết:
Thái Sơn và các bạn Pháo thủ Pháo đội B thân mến, cám ơn các bạn đã sát cánh cùng tôi chu toàn nhiệm vụ khó khăn. Cá nhân tôi không có gì xuất sắc, nhưng tôi đã làm tròn lời nói với Pháo đội B khi tôi nhận nhiệm vụ chỉ huy: “Không bao giờ bỏ anh em để tháo chạy lấy thân, nếu khi rút lui, tôi sẽ đoạn hậu“.
Mong có dịp may gặp lại các bạn sau gần 30 năm một người một nơi.

MX Lưu-văn-Phúc
Washington State, USA (21-11-2003)
Kỷ niệm ngày Gia đình Thái Sơn đến Mỹ định cư.

Thân tặng Pháo thủ, Pháo đội B Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến.
Đặc biệt mến tặng Huỳnh Thái Sơn người đến Mỹ muộn màng (Ngày 21 tháng 11 năm 2003).

Nguồn: http://tqlcvn.org/chiensu/cs-td1pb-huonglo-555-75.htm

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn