Lịch sử quân chủng Hải Quân VNCH

Thứ Sáu, 20 Tháng Mười 20178:11 CH(Xem: 21438)
Lịch sử quân chủng Hải Quân VNCH
October 20, 2017

(Trích trong phần sưu tầm trong trang mạng của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH vùng Hoa Thịnh Đốn)

Nguyễn Văn Ơn

Những nhà nghiên cứu hải sử có mặt tại khúc quanh lịch sử Việt Nam, ngày 30 Tháng Tư năm 1975, đều thừa nhận mặc dù đột ngột tan hàng, song Hải Quân VNCH đã thực hiện trọn vẹn sứ mạng của Tổ Quốc Việt Nam giao phó bảo vệ tự do cho dân tộc trong suốt quá trình ngăn chận làn sóng đỏ do Đảng cộng sản VN phát động thành một cuộc chiến nghiệt ngã huynh đệ tương tàn. Suốt quá trình 23 năm bảo vệ nước, căn cứ vào những mốc thời gian quan trọng thì thành quả đạt được của quân chủng có thể chia làm 3 giai đoạn; đặc biệt chú trọng đến sự lớn mạnh của Giang Lực và Duyên Lực:

  • Giai đoạn khó khăn hình thành
  • Giai đoạn chậm chạp phát triển
  • Giai đoạn nhanh chóng bành trướng

khu-truc-ham-tran-hung-dao-hq-01-haingoaiphiemdam
1. Giai đoạn khó khăn hình thành (1952-1957)

Ngày lịch sử đau buồn mùng 1 Tháng Chín năm 1858 cũng là ngày đánh dấu khởi điểm suy tàn của triều đại Nhà Nguyễn, khi Đề Đốc (Hải Quân Thiếu tướng) Charles Rigault de Genouilly (1) chỉ huy 2,500 lính viễn chinh Pháp và 1,000 lính thuộc địa Tây Ban Nha với 14 chiến hạm vào cửa Đà Nẵng bắn chìm các chiến thuyền Việt Nam, chiếm các pháo đài bán đảo Sơn Trà rồi giao cho Hải Quân Đại Tá Toyon trấn giữ. Đến ngày 11 Tháng Hai năm 1859, De Genouilly lại dẫn các chiến hạm trên vô cửa Cần Giờ đánh tan các chiến thuyền và đồn bót do Đề Đốc Trần Trí đang tổ chức phòng thủ tại vịnh Gành Rái. Thừa thắng tiến lên thượng nguồn, ngày 18 tháng 2 năm 1859, quân Pháp lại tấn công đổ bộ qui mô từ bờ sông vào thành Gia Định. Thành vỡ, Án Sát Lê Tứ và Hộ Đốc Vũ Duy Ninh đều tuẫn tiết. Còn lại Đề Đốc Trần Trí, Bố Chánh Vũ Trực cùng Lãnh Binh Tôn Thất Năng rút tàn quân về cố thủ huyện Bình Long.

Vào giữa thế kỷ thứ 19, hạm đội Pháp được các sử gia Tây phương đánh giá là hạm đội tối tân nhất trong các cường quốc Hải Quân Châu Âu đang săn tìm thuộc địa. Các chiến thuyền lỗi thời của thủy quân Triều Nguyễn hành thủy từ những năm vua Gia Long phục quốc thống nhất sơn hà 1802, nên không đủ khả năng đương cự lại.

Qua hai trận thủy chiến mà tương quan kỹ thuật tác chiến quá chênh lệch như vậy thành ra quân ta thất trận hoàn toàn và thủy quân triều Nguyễn coi như thật sự bị xóa sổ từ đây, dù rằng dưới triều vua Tự Đức việc huấn luyện thủy quân rất được chú trọng đến.

Giở lại những trang quân sử thành lập Quân Lực VNCH (2), nếu gác bỏ ra ngoài những tai tiếng không tốt mà đối phương đã tuyên truyền về nếp sống xa hoa của cựu hoàng Bảo Đại lưu vong, người đọc sẽ thông cảm được quyết tâm cao tạo dựng một quốc gia Việt Nam (QGVN) độc lập, qua quyển CON RỒNG VIỆT NAM, của vị vua cuối cùng triều đại nhà Nguyễn.

Trải qua nhiều giai đoạn thương thuyết rất cam go với chính quyền thực dân Pháp, cựu hoàng Bảo Đại hết sức kiên nhẫn với tập đoàn thống trị để họ chấp nhận một nước Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp Pháp được hình thành.

Ngày mùng 5 Tháng Sáu năm 1948, hiệp định sơ bộ Vịnh Hạ Long (dẫn đến hiệp định Elysée sau này) ký kết giữa Toàn Quyền Đông Dương Emile Bollaert và Thủ Tướng lâm thời Nguyễn Văn Xuân có cựu hoàng phó thư (countersign) trên chiến hạm Duguay Trouin thừa nhận nguyên tắc độc lập và thống nhất của nước Việt Nam với Quốc kỳ: Cờ màu vàng 3 sọc đỏ và Quốc ca: Thanh Niên Hành Khúc của Lưu Hữu Phước. (3).

Nhưng rồi Quốc Hội Pháp cứ làm ngơ, viện cớ chưa tìm được qui chế thích hợp cho Nam Kỳ, mãi đến ngày 8 Tháng Ba năm 1949 mới thuận cho Tổng Thống Pháp Vincent Auriol và cựu hoàng Bảo Đại chính thức ký hiệp định Elysée chấp nhận nước Việt Nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp có tổ chức hành chánh riêng, tài chánh riêng, tư pháp riêng, quân đội riêng và Pháp sẽ ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc (4).

Như vậy, cực chẳng đã chính phủ Pháp đành phải trao trả nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ cho vị nguyên thủ của nước Việt Nam là Quốc trưởng Bảo Đại. Dĩ nhiên hiệp định này đi ngược lại quyền lợi của nước Pháp, vì thực dân Pháp chỉ muốn cai trị nước ta như trước kia mà thôi.

Thực thi Hiệp Định Elysée, thỏa ước quân sự Pháp-Việt ngày 30 Tháng Mười Hai năm 1949 về Hải Quân lại bị trì trệ kéo dài đến giữa năm 1951, Đô Đốc Ortoli, tư lệnh Hải Quân Pháp ở Viễn Đông mới được lệnh lập kế hoạch huấn luyện quân sự để chuyển giao đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong cho Hải Quân Việt Nam. Chương trình chuyển giao các Trục lôi hạm (YMS), Giang pháo hạm (LSIL). Trợ chiến hạm (LSSL)… sẽ tiến hành vào những năm kế tiếp. Nhưng khi nắm quyền tổng chỉ huy hành chánh lẫn quân sự tại Đông Dương, Thống Tướng Jean de Lattre de Tassigny (5) muốn Hải Quân Việt Nam hoàn toàn thống thuộc mọi mặt vào lục quân Pháp, chứ không phải là một quân chủng riêng như Đô Đốc Ortoli đã đề nghị. Viên tướng 5 sao này cho rằng một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân không thể nào đứng vững được vì thiếu cán bộ và chiến cụ.

Ngày 15 Tháng Tám năm 1951, Pháp đồng ý cho tuyển mộ khóa 1 Sĩ quan Hải Quân gồm 9 sinh viên – 6 theo ngành chỉ huy và 3 theo ngành cơ khí – phần đông là cựu sinh viên trường Thủy Văn Sài Gòn (Saigon Hydrography School); khóa hạ sĩ quan có 50 và đoàn viên là 300.

Còn về phía Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, dù bị chèn ép mọi mặt, Quốc Trưởng Bảo Đại vẫn kiên trì tranh thủ xây dựng nền tảng bắt đầu từ con số không cho Quân Đội Quốc Gia.

Kể từ sau ngày 24 Tháng Tám năm 1945 bị Hồ Chí Minh ép buộc thoái vị phải trao kiếm vàng cùng ấn ngọc cho đại diện Việt Minh Cộng Sản là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tại Ngọ Môn Huế, cựu hoàng hết sức thấm thía về việc hoàng triều không có một quân đội đủ mạnh để dẹp bỏ Việt Minh Cộng Sản trước rồi sau đó đẩy lui Phú-Lang-Sa và bảo vệ chủ quyền quốc gia trường tồn. Cho nên trong thông điệp ngày 15 Tháng Năm năm 1948 gửi cho Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân, cựu hoàng tán thành đề nghị thành lập Chính Phủ Trung Ương Lâm Thời và giao cho Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trấn Trung phần (sau này đổi tên là Thủ hiến Trung Việt) Phan Văn Giáo (6) trọng trách xây dựng một Quân Đội Quốc Gia Việt Nam gồm đủ cả Hải, Lục và Không Quân. Cho đến năm 1949, Tổng Trấn Trung Phần Phan Văn Giáo đã thành công trong công tác tuyển mộ và huấn luyện cho tổ chức Việt Binh Đoàn tại Huế. Sau Hiệp Định Elysée, lần lượt Vệ Binh Nam Phần và Bảo Chính Đoàn Bắc Phần cũng được thành lập vào giữa năm 1950. Chính những đơn vị này là hạt nhân cơ bản cho tổ chức quân đội chính qui QGVN (The Vietnamese National Army) ra đời ngày 30 Tháng Giêng năm 1951 (Dụ số 1 0D/VOP/DQT/TS) kèm theo 2 sắc lệnh cùng ngày (7).

Nguyễn Văn Phán

Từ Cai Lậy về Sài Gòn, nhập ngay vào đánh giải toả trại Cổ Loa của Thiết Giáp và Xóm Mới, Gia Định xong xuôi, Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) “Quái Điểu” di chuyển về nằm dọc đường Ngô Tùng Châu. Mười hai giờ khuya, tiểu đoàn họp. Hai giờ sáng, tiểu đoàn có mặt tại phi trường Tân Sơn Nhất. Bốn giờ sáng lên máy bay đi. Đi đâu không biết. Đồ khô và tái trang bị không lãnh kịp. Cứ lên phi trường rồi hay.

Đó đây những loạt pháo kích, những loạt đại liên rời rạc, những đốm hỏa châu lủng lẳng trên bầu trời. Tôi để lại đàng sau một Sài Gòn mang nặng bộ mặt chiến tranh. Những chiếc máy bay C-130 khổng lồ nuốt gọn 800 binh sĩ Quái Điểu và đưa chúng tôi lên cao trong đêm tối mịt mùng.

– Đi đâu vậy bây?

– “Nha Trang, tao nghe Nha Trang đang có đánh nặng.” Lượm, Đại Đội Trưởng Đại Đội 1 trả lời.

Tôn, đại đội trưởng Đại Đội 2 cãi:

– Đà Lạt!

Phán “Phu Nhân” [1] nói:

– Đi đâu cũng được, đổi vùng là khoái rồi.

– Máy bay chi bay mãi ri bây?

Thời tiết thật xấu, và rồi bánh xe phi cơ cũng chạm đất, những cặp mắt đổ dồn ra khung cửa sổ máy bay. Phú Bài! Cơn gió cắt da, bãi cát trắng trải dài, mưa nặng hột. Thiếu áo lạnh, tất cả đều cuốn Poncho đứng nhìn đoàn người gánh gồng xuôi ngược, hấp tấp và lo sợ, một số về Truồi, một số lên Gia Lê, An Cựu.

Phú Bài đó, Tịnh Tâm đó, Cầu Kho đó. Mạ, dì, chị và em mình ở đó mà không liên lạc được. Tình hình không biết sao, ruột như lửa đốt. Trách nhiệm nặng nề. Tôi nằm trằn trọc suy nghĩ thật nhiều để chờ sáng mai. Kỷ niệm thời đi học về trong trí tôi, đẹp quá, nhẹ nhàng quá, vụng dại quá.

Mậu Thân: một góc phố tại Huế, 1968. (HÌNH ẢNH: sưu tầm)

Mười giờ sáng, đoàn xe GMC đưa chúng tôi về Huế. Qua Gia Lệ, đồng bào hỗn loạn, nét lo âu hiện rõ trên nét mặt. Tới An Cựu, dân chúng thưa thớt, nhà hai bên đường đóng kín cửa. Dọc Quốc Lộ 1 từ Huế về Phú Bài, các binh sĩ Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) từng toán dìu nhau âm thầm đếm bước. Những cái nhìn như nhắn gửi, như lo sợ giùm chúng tôi.

Mạnh, Đại Úy Nhảy Dù cùng khoá cho tôi biết:

– Huế tang thương và điêu tàn lắm Phán ơi. Thừa (bạn cùng khoá) chết. Phạm Như Đà Lạt thì bị thương.

Mạnh khắp người băng bó đang được hai đệ tử dìu bộ về phi trường Phú Bài. Mạnh nói tiếp:

– Phán, mày cẩn thận. Không có yểm trợ, không thực phẩm, không tiếp liệu, thời tiết quá xấu. Tụi nó chiếm hết thành phố, Đại Nội, Gia Hội. Tụi nó giữ chốt rất kỹ, chỉ còn cái lõm nhỏ ở Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 tại Mang Cá mà thôi.

Đoàn xe dừng lại bên hông Trường Đại Học Văn Khoa, cách con đường là trường Kiểu Mẫu mới xây, đối diện là đài phát thanh Huế. Và trước mặt là cầu Trường Tiền, chiếc cầu tượng trưng cho xứ sở Huế, chiếc cầu đã hàng ngàn, hàng vạn lần qua lại, đầy ắp kỷ niệm.

Nhìn qua chợ Đông Ba và phố Trần Hưng Đạo mà lòng quặn thắt. Một mái chợ đã sập. Những cột khói ngút trời cách khoảng. Từ đầu đường Trần Hưng Đạo đến cuối đường không một bóng người. Nhìn bên phải là cầu Gia Hội vắng tanh. Những cột khói khác vươn lên. Cả thành phố đã chết. Huế tôi tang thương đến thế sao. Một nhịp cầu đã sập, tôi nghĩ vành khăn trắng đã cuốn lấy Huế.

Xuống tàu tại chân cầu Trường Tiền, xuôi giòng sông Hương xanh biếc qua Gia Hội, quẹo trái sông Hang Bè. Cầu Đông Ba đó, nơi có tiệm La Ngu mà ngày xưa chúng tôi thường mua dụng cụ học trò. Tiếp tục xuống ngang tiệm gạo Mụ Đội, ở nơi này có người con gái đẹp não nùng tên Xuân mà con trai Huế lứa tuổi tôi đều hơn một lần đi qua đó để nhìn người con gái trời cho đẹp. Qua trường Bình Minh, nơi tôi học năm đệ tam với nhiều kỷ niệm đẹp. Đến Bao Vinh, dân chúng nhớn nháo khi thấy một đơn vị lớn đang đổ bộ tại bến đò.

Tôi hướng dẫn đơn vị vào Mang Cá Nhỏ để tới bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Việt Cộng chào đón bằng hàng loạt hỏa tiễn 107-ly và 122-ly. Tất cả nằm sát bờ tường để tránh pháo và tìm chỗ phòng thủ. Tôi ra lện cho Sự, Trung Úy Đại Đội Phó kiểm soát con cái và chuẩn bị cơm chiều. Trung Úy Sự là sĩ quan trẻ, có tài và đầy nhiệt huyết, xuất thân Khoá 19 Võ Bị Đà Lạt, lại là thủ môn hội tuyển Nha Trang. Đúng là đa năng đa hiệu.

Tôi dự buổi họp tiểu đoàn khẩn cấp và quan trọng. Sĩ quan tiểu đoàn trưởng ra lệnh:

– Phu Nhân rành địa thế, dẫn đầu. Tám giờ sáng mai xuất phát. Kế tiếp là Tôn với Đại Đội 1, Lượm với Đại Đội 2. Tiếp theo là Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn cùng Đại Đội Chỉ Huy. Sau cùng là Tòng với Đại Đội 4. Mục tiêu Phu Nhân phải chiếm là trường tiểu học Trần Cao Vân. Trước trường có thành Quân Cụ, vào khoảng một đại đội ta đóng tại đó, không biết còn hay mất.

Phán hỏi:

– Còn phi trường Thành Nội thì sao? Tình hình trong Đại Nội? Thiếu tá có nắm vững không?

– Không rõ. Tụi Việt Cộng chiếm hết, đóng chốt rất kỹ. Tất cả các cửa Thành Nội tụi nó đều kiền và chốt rất chặt. Cửa Hữu, cửa Chánh Tây, cửa Sập, cửa An Hòa, cửa Đông Ba, Kỳ Đài Phú Văn Lâu tụi nó đều chiếm hết.

Lúc ấy, trong óc tôi một bản đồ chi tiết hiện ra rất rõ cho một cuộc hành quân mà tình hình tôi nắm không được vững. Tôi cố tìm con đường ngắn và an toàn nhất cho đơn vị để tới mục tiêu. Có rất nhiều đường đưa tới trường Trần Cao Vân, nơi từ 9 đến 19 tuổi tôi đã bao nhiêu lần đi lại. Con đường nào cũng đầy hoa và mộng. Nay tôi đang tìm một con đường không có máu để cho anh em chúng tôi đi.

Tám giờ sáng, tất cả gọn gàng, sẵn sàng di chuyển. Ba trăm thước đường từ Mang Cá đến nhà tôi sao quá dài. Bồn chồn, nóng ruột vì nơi đó có mạ tôi, dì tôi, chị tôi và em trai út của tôi đang trông ngóng. Không biết có bị gì không?

Thiếu Úy Duật, Trung Đội Trưởng Trung Đội 2 dẫn đầu. Duật xuất thân Khóa 21 Đà Lạt, hăng say, gan, thích xóc dĩa và gái đẹp, uống rượu rất ít, chỉ phá mồi. Phán và Bộ Chỉ Huy kế tiếp. Thiếu Úy Nghênh, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1 tiếp theo. Nghênh kinh nghiệm, gan lỳ, thích đánh phé nhưng đánh nhỏ, rượu rất ít và không thích gái. Kế đến là Thượng Sĩ Nhất Mã Khện, Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, rất gan lỳ, ít nói, mê rượu, không mê gái. Và sau cùng là Thượng Sĩ Nhất Hải, Trung Đội Trưởng Trung Đội Súng Nặng. Hải người Nùng, lỳ lợm già dặn chiến trường, không rượu, không gái, không thuốc lá.

Hai bên đường dân chúng đứng chen chúc, vẻ mặt hớn hở thật tội nghiệp cho họ. Lần lần những khuôn mặt quen thuộc hiện ra, những cánh tay vẫy chào. Nào mụ Đội Dậu, mụ Ba, ông Sung, ông Dung, anh Thiên chủ bàn Ping Pong. Những tiếng nói đó đây: “Anh Phán đó tề! Anh Phán…” Tiếng gọi lớn và lan dài suốt con đường tôi đi.

Con hẻm sát hồ Tịnh Tâm là đường vào nhà tôi. Mạ tôi đó, dì, chị và em tôi đó. Xao xuyến quá! Tôi đi nhanh đến ôm Mạ tôi, dì và chị tôi khóc như mưa. Thằng em luống cuống chạy quanh, bị Mạ tôi nạt: “Mi chạy mau vô nhà lấy khúc cá kho khô và đòn bánh tét gói lại đem ra đây bới cho anh mi!” Mạ tôi dụi vào tay tôi chai dầu Nhị Thiên Đường: “Con xức cho khỏi gió.” Lính đi ngang hỏi nhau: “Mạ Đại Úy sao đầu trọc lóc vậy bâỷ” “Bà ấy đi tu để phước cho con, tụi mình cũng được hưởng ké đấy.” Phán và âm-thoại viên vẫn còn dừng lại.

– Nhà mình có răng không Mạ? Bà con thân thuộc có ai bị chi không?

– Nhà ông Quế chủ quán Chiêu bị trúng hai trái nhưng người thì không răng. Nhà mình bị ngói đổ một góc, cây đào bị gãy ngọn. Còn thằng Chỉ không biết đi mô.”

Chỉ là bạn tôi xuất thân Khóa 17 Võ Bị Đà Lạt. Tôi xót xa đắng miệng:

– Thôi con đi, Mạ và gia đình đừng lo cho con…

Mạ tôi khóc òa, tôi thật não lòng. Những tiếng gọi anh Phán, anh Phán tiếp tục vang lên cho đến giữa hồ Tịnh Tâm. Tiếng gọi, giọt nước mắt và những cánh tay chào vẫy, phải chăng nhắc nhở trách nhiệm của tôi. Bây giờ là lúc đền đáp ơn sâu nghĩa nặng. Vinh dự này thật khổ. Máu nóng sôi trong người, tôi và hai âm-thoại viên vượt lên đi với trung đội đầu.

Cuối hồ Tịnh Tâm là đường Tịnh Tâm, tôi cho lệnh quẹo tay mặt theo đường lên nhà ông Ngư Đạt. Như vậy bên hông mặt của con cái tôi lúc nào cũng có bức thành và cái hồ che chở. Cuối đường Tịnh Tâm quẹo trái là trường tiểu học Đoàn Thị Điểm, nhưng tôi không đi con đường này. Tiếp tục thẳng qua một con hẻm nhỏ, con đường đã bao lần đi lại, nào ăn cắp me, nào trộm sấu, nào hái soài, nào đào sen, nào học thi, nào thăm người yêu. Con đường nào cũng nhắc tôi bao kỷ niệm yêu dấu khôn quên.

Đến Canh Nông, chưa thấy phản ứng nào của Việt Cộng, gần sân bay Thành Nội dân chúng thưa thớt và kinh hãi. Tôi cho dừng quân bên này đường, một ông già mách:

– Con đường ni bị bắn rất rát, từ trong cửa Hoà Bình ở Đại Nội bắn ra.

– Còn sân bay Thành Nội ra sao ôn, có ai không?

– Đánh nhau mấy ngày ni dữ lắm, mà tui không biết răng, không biết mình hơn hay thua nữa.

Tôi chỉ con đường và hướng dẫn Duật:

– Băng qua khỏi con đường này, đến một xóm nhà, qua một cái cống thì bên trái là thành Quân Cụ. Nghênh và Mã Khện yểm trợ hông bên mặt cho Duật, và sau đó băng qua đường theo tôi.

Con đường chỉ có 5 thước mà hơn một giờ mới vượt qua với sáu thằng em rớt rụng trên mặt đất. Lần mò theo mép đường tới sát ống cống, tôi cho dừng lại, phi trường vắng tanh. Tôi bảo Duật:

– Mày cho một thằng con nhỏ qua trước làm đầu cầu bên kia ống cống, sau đó cho tất cả con cái mày qua rờ vào thành Quân Cụ, chờ tao lên.

Thành Quân Cụ cao khỏi đầu người, không liên lạc được với bên trong. Tất cả con cái nằm sát thành để tôi và đám cận vệ bò tới cổng chính. Loáng thoáng thấy nón sắt, field jacket, giây ba chạc. Không phải tụi nó đâu, chắc chắn là bạn rồi. Thằng đệ tử tôi gọi lớn:

– Ê, Thủy Quân Lục Chiến đây!

Một loạt đạn bay qua khỏi đầu một cách rùng rợn. Bò lết vào tới trong đồn, ông trưởng đồn nói tiếng Huế đặc sệt, ông là Trung Úy Cát, thủ môn nổi tiếng của Huế:

– Đại Úy ơi, bảy ngày không ra vào nổi, nó bao hết. Trường Trần Cao Vân, Đại Nội, xóm nhà bảo sanh sau lưng trường cách một cái hồ tụi nó cũng chiếm luôn. Dân chúng chạy hết rồi, không còn ai cả. Tụi nó pháo liên miên, không cho ngóc đầu được. Đủ loại pháo: 61, 82, hỏa tiễn 107, 122. Tôi ráng cố thủ đây được ngày mô hay ngày nấy, còn ngoài nớ tôi không liên lạc được nên không biết tình hình các nơi khác ra răng.

Tôi trở ra báo cáo về tiểu đoàn. Lệnh của tiểu đoàn trưởng:

– Phu nhân chiếm cho bằng được trường Trần Cao Vân, dọn sạch chung quanh. Tiểu đoàn trưởng và Bộ Chỉ Huy sẽ lên ở trại Quân Cụ.

Một nhịp cầu bị đánh sập tại Huế, 1968. (HÌNH ẢNH: Bill Cook)

Quan sát địa thế thêm một lần nữa, trước mặt trường là cái am lên đồng, bên cạnh là quán hớt tóc lợp tranh chỉ có một ghế ngồi. Sát đó là ngã ba đường chạy lên cửa Sập, một chạy về trường Đào Duy Từ và một chạy đến trường Trần Cao Vân. Có bốn năm cái đầu lố nhố bên trong trường.

Duật phải chiếm am trước, trong trường bắn ra mãnh liệt, Việt Cộng có cả B-40. Tôi ra lệnh Nghênh và Mã Khện cầm chân hỏa lực trong trường học. Sau đó, Duật chiếm xong am không một tổn thất. Tôi gọi Thượng Sĩ Hải đem hai súng đại liên và một khẩu đại bác 57-ly không-giật lên tăng cường cho Duật để Duật yểm trợ cho Mã Khện vào trường.

Sau 45 phút dùng mưu kế cùng với hỏa lực, gan dạ, và kinh nghiệm, Mã Khện chiếm được một căn lớp trong trường. Nghênh tràn vào cùng với Mã Khện lục soát và làm sạch sẽ. Hỏa lực từ góc Thành Nội đổ dồn về phía trường học, không sao, đã có thành của các lớp học che chở. Tôi kêu Sự:

– Pháo binh có chưa? Kêu về Đại Bàng Thanh Hóa cứ bắn vào góc thành cho tao.

Đến chiều vẫn không có một trái pháo bắn. Anh em tôi đã có 7 chết lót đường cho mục tiêu và 3 bị thương nặng. Tôi lên sát Duật và bảo đem cây 57 đến:

– Nhắm ngay vào góc thành, tụi nó bắn rát quá. Cứ phơ cho tao. Trật trúng gì không cần, chỉ cần tiếng nổ.

Qua một vạt đất trống, trong một ngôi nhà gạch có bóng người lấp ló. Duật quay 57 nhắm thẳng:

– Nhột quá! Cho em bung cái nhà này đi.

Bỗng thấy có bóng đàn bà ở trong nhà, tôi la lớn:

– Khoan bắn! Nhà thày Tiềm!

Rồi tôi băng qua đám đất trống đến nhà gặp cô và các cháu. Không thấy thày, tôi chào cô và giới thiệu tôi học Sử Địa với thầy ở trường Bồ Đề và khuyên cô về dưới phố. Tôi trở lại vị trí mà lòng nao nao buồn. Giờ này vẫn chưa có pháo, làm sao khóa góc Thành đó lại. Duật bảo con cái đào hầm hố thật kỹ. Tôi dặn:

– Mày cố thủ tại đây cho tiểu đoàn lên.

Rồi tôi cùng đám đệ tử lúp xúp chạy đến tiệm hớt tóc để quan sát ngã ba đường và góc Thành Nội. Tôi chợt nghe tiếng đàn bà rên la quằn quại, sau cùng chỉ còn tiếng rên nho nhỏ. Nơi góc quán tối tăm, một người đàn bà máu me khắp nửa phần thân thể, vừa bị thương nặng lại vừa sanh ra một bào thai lờ mờ tượng hình đứa bé, trông giống như con rắn mối. Xót xa, chịu không nổi, tôi ra lệnh đem chôn đứa bé đã chết ngay và chuyển người mẹ về đồn Quân Cụ cho bác sĩ Tựu giúp. Đến đây 13 người chết và 3 bị thương nặng để trải thảm cho đơn vị.

Tối đó Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đến trại Quân Cụ. Sáng hôm sau, tiểu đoàn trưởng cho Đại Đội 2 của Tôn và Đại Đội 1 của Lượm, dưới sự chỉ huy của đại ca Đã, tiểu đoàn phó, chiếm nhà bảo sanh. Đoạn đường có 30 thước, cách một hồ nhỏ mà phải trả bằng 50 đứa con thân yêu. Sau 8 tiếng đồng hồ mới chiếm được nhà bảo sanh. Tôn bị thương ngay từ phút đầu. Lộc, đại đội phó lên thay.

Mười ngày tiếp theo, nhìn nhau qua một con đường rộng vừa đủ cho xe chạy mà hai bên đều khựng. Mưa vẫn rơi ray rứt lê thê, thỉnh thoảng cơn gió thật lạnh thổi qua. Có những trận tấn công chớp nhoáng của Việt Cộng vào đại đội của Lượm và Lộc đều bị đánh bật lui.

Ngược lại, bên ta cũng nhiều lần cố tràn qua bên kia nhưng không chiếm được một tấc đất. Hai bên tải thương đều thấy nhau rất rõ. Lượm bị hao hụt nặng. Phu Nhân lên thay. Tôi và con cái bò lên từng toán một, Việt Cộng và ta đã sát nhau, ngóc đầu lên là đạn xuyên qua mũ sắt ngay. Hơn nửa ngày mới trám hết vị trí của Lượm. Lượm và Tòng về phòng thủ cho tiểu đoàn.

Tối đến, pháo địch đủ loại nổ vang trời. Xác chết của anh em nằm trên mặt đường, sình lên mà không lấy được. Phía bên kia, bốn năm xác Việt Cộng vẫn để yên, họ không dám ra lấy về. Cố giữ đất, giữ vị trí và làm vài cuộc tấn công nhỏ vẫn không qua đường được.

Từ căn nhà hai tầng cuối đường nhìn xéo từ nhà bảo sanh, một thượng liên và một trung liên nồi của tụi nó kiểm soát con đường rất kỹ, dưới sự chỉ huy của một đứa con gái mặc áo choàng màu xám, tóc xỏa dài nhưng không thấy rõ mặt. Tay đứa con gái chỉ tới đâu thì đạn nổ dồn về hướng đó. Tôi nhắm bắn hai phát M-16 nhưng hụt, nó trốn nhanh vào sau cửa và mất luôn.Hai mươi ngày nằm chịu pháo và bị bắn sẻ, tối nào hai bên cũng rà máy chửi nhau. Theo dõi máy, đột nhiên tôi bắt được một câu báo cáo: “Bồ câu hết thóc!” và nghĩ ngay địch quân đang thiếu đạn. Nếu cứ nằm thế này, một lúc nào đó địch quân chỉ cần ho thật to mình cũng mất vị trí ngay, chỉ vì áp lực quá nặng nề, tổn thất nhiều, tinh thần anh em quá mệt mỏi. Tôi đi đến kết luận riêng: nếu mình không đánh nó, chắc chắn nó sẽ tấn công mình. Tôi trình với tiểu đoàn trưởng trưởng:

– Thiếu tá cho tôi luôn Đại Đội 2 để tôi tấn công tụi nó. Tôi thấy tinh thần anh em xuống quá và sức khoẻ ngày càng hao hụt.

Tiểu đoàn trưởng không cho, và bắt ráng giữ vị trí. Tôi năn nỉ:

– Nếu không thì cho tôi đột kích, tôi cùng vài toán nhỏ tràn qua đường đánh đột kích rồi về. Mình phải chứng minh cho đối phương thấy mình còn dư sức ăn thua đủ, thời địch không dám tấn công mình.

Tiểu đoàn trưởng nói:

– Làm kế hoạch xong cho tôi hay.

Tại hầm của tôi anh em đang chờ, họ gồm: Lộc (Đại Đội 2), Sự (đại đội phó của tôi), Duật, Nghênh và Mã Khện. Tôi nói:

– Nằm chờ lâu, tao chán quá, chỉ muốn qua đột kích tụi nó rồi rút về.

Tất cả im lặng, tôi tiếp:

– Bốn giờ sáng mai mình đột kích. Nếu giữ được vị trí tao cho tràn luôn. Bây giờ tao chọn bốn toán. Toán 1 với Phán, Điểu, Việt, Can, Dư và Phúc mang máy. Toán 2 với Duật cùng 3 người thật nhanh và gan dạ, Toán 3 với Nghênh và ba người. Toán 4 với Thượng sĩ nhất Hải và 3 ngườị Trang bị thật nhẹ: mỗi người 20 quả lựu đạn và 2 băng đạn cong ráp ngược cho súng M-16. Sự và Lộc dẫn con cái ra sát bờ đường, khi thấy khói xanh thì lùa tất cả tràn qua. Nhưng nếu thấy khói màu vàng thì yểm trợ tối đa cho tụi tao dọt về. Sự và Lộc hãy về lo cho con cái. Đúng 4 giờ sáng sẵn sàng tại vị trí.

""
Điêu tàn và đổ nát tại Huế, 1968. (HÌNH ẢNH: Koychi Sawada)

Duật, Nghênh và Hải ở lạị Tôi nhìn anh em thật lâu rồi cho biết:

– tao theo dõi tụi Việt Cộng báo cáo qua máy. Hình như tụi nó thiếu đạn. Do đó tao quyết định cuộc đột kích hôm nay. Hai ông Duật và Nghênh do tôi chỉ định phải đi với tôi. Riêng ông Hải, tôi cho ông suy nghĩ lần nữa. Lần này đi khó trở về. Ông con cái đông, muốn ở lại vị trí tôi cho phép và tôi hứa rằng tôi không nghĩ là ông thiếu can đảm.

Suy nghĩ một lát, Thượng Sĩ Hải trả lời:

– Đại Úy cho tôi ở lại vị trí.

Tôi vui vẻ bằng lòng và gọi Mã Khện đến, Mã Khện đồng ý đi và xin đem theo Hạ Sĩ nhất Mười.

Tôi tiếp:

– Bây giờ các ông về chọn người xong lên gặp tôị

Tôi ngồi suy nghĩ miên man, liều, phải liều mới cứu được đơn vị. Chiều hôm đó, lúc 4 giờ, các toán trưởng lên gặp tôi, có thêm Trung Úy Sự. Tôi hỏi lần chót:

– Có ai xin ở lại cho tôi hay.

Không ai trả lời. Tôi căn dặn Sự nhắc Lộc khi thấy khói xanh thì sao và khói vàng thì sao, phải nhớ kỹ. Tôi đưa ba người toán trưởng bò đến hầm trú ẩn của nhóm tiền đồn ở sát ngã tư đường. Tôi chỉ từng căn nhà bên kia đường:

– Cái thứ nhất gần ngã tư là mục tiêu của tao. Cái thứ hai kế tiếp có hàng rào là của Nghênh. Căn thứ 3 cũng có hàng rào và cây nhãn cao là của Mã Khện. Căn thứ 4 có mấy bụi chuối lớn là của Duật. Tất cả hãy quan sát cho kỹ và cố chọn một con đường tiến quân thích hợp. Không cần báo cáo miễn sao thích hợp thôi.

Tôi tiếp tục quan sát mục tiêu của tôi. Căn nhà bằng gạch có nhà trên và nhà dưới. Kế đó là cầu tiêu xây bằng đá lợp tôn, sát đường là cái giếng xây bằng xi măng. Trước sân có hai cây vú sữa cao và sai trái. Tôi biết phải làm gì để chiếm căn nhà đó. Tôi quay lại nói:

– Lần chót tôi hỏi các ông có ý kiến gì không? Đúng bốn giờ sáng mai tôi sẽ chiếm trước, sau đó tùy các ông bằng mọi cách phải hốt cho bằng được các mục tiêu tôi ấn định.”

Trở lại vị trí, tôi dặn dò Điểu, Việt, Can Dư và Phúc mang máy:

– Tối nay miễn gác, ba giờ sáng mai gặp tao ở đây. Sau đó tôi đi gặp tiểu đoàn trưởng để trình bày kế hoạch. Ông nói:

– Nguy hiểm quá, không được, chết cả lũ!

Tôi nói:

– Nếu thiếu tá không làm bây giờ, một vài ngày nữa tụi nó chỉ cần ho là lính mình chạy hết!

Cuối cùng ông chấp thuận:

– Nhớ là có gì thì trở về liền, càng sớm càng tốt.

Tôi dạ nhưng trong đầu tôi nghĩ khác. Trước mắt tôi bây giờ không có gì ngoài đoạn đường từ tiền đồn qua cái giếng, lên cầu tiêu, tới nhà dưới rồi chiếm nhà trên.

Tôi nằm suy nghĩ triền miên cho đến 3 giờ sáng. Trước khi bò ra tuyến xuất phát, tôi nhắc Sự và Lộc một lần nữa cho chắc ăn. Bốn giờ kém 10 sáng, toán tôi có mặt ở tiền đồn. Trời vẫn mưa, mưa xứ Huế có dư âm cái lạnh của ngày Tết. Trời tối không thấy gì, tôi ngại bắn lầm nhau. Gắng chờ một chút nữa. Đến 5 giờ sáng mưa vẫn không tạnh, trời vẫn tối mù. Năm giờ rưỡi, cái giếng đã nhìn thấy được. Chuẩn bị!

Tôi cảm thấy hồi hộp. Chỉ cần bốn cái nhảy vọt là qua bên kia đường nhưng khó như đi lên trời vì con đường này là con đường tử thần làm ranh giới bên ta và địch, là 20 ngày trời không nuốt nổi 5 thước đất. Rách bao nhiêu cũng không qua được. Bây giờ mình cắt băng khánh thành, phải làm để cứu đơn vị, phải hy sinh để cứu đồng đội.

Vừa suy nghĩ xong, tôi phóng vụt qua ôm bờ giếng. Kế tiếp là Điểu, Việt, Can, Dư băng theo. Tất cả ngồi ôm thành giếng, mồ hôi ra như tắm mặc dù trời lạnh như cắt. Điểu và Can chiếm cầu tiêu. Bỗng một loạt đạn thật dòn và thật gần, tôi quay nhìn ra đường. Phúc và cái máy nát mình nằm trên mặt đường nhựa, dưới làn đạn mịt mùng của địch. Tôi hét lớn:

– Dư, Việt chiếm nhà bếp!

Tôi theo sát lên cầu tiêu bên cạnh Điểu và Can. Súng và pháo nổ dồn dập, một quả B-40 nổ ngay trên đầu mái tôn cong, cả ba thày trò đều bị miểng nhỏ đâm đầy mặt, tóc râu và lông mày đều bị cháy. Cầu tiêu nhỏ quá nên tôi cùng Điểu và Can lên nhà bếp. Tôi ra lệnh:

– Điểu và Dư chiếm nhà trên, lục soát thật kỹ.

Để Việt ở lại, tôi và Can cũng lên nhà trên. Điểu và Can giữ cửa chính nhìn ra sân, tôi và Dư giữ cửa sổ nhìn ra vườn có nhiều luống khoai lang.

Trời sáng hẳn, tôi lắng tai chẳng nghe nhà bên cạnh có gì cả bèn bò trở ra bờ giếng và thấy Duật, Nghênh, Mã Khện vẫn còn bên kia đường. Tôi toát mồ hôi. Tôi nhìn thẳng vào mấy ông rất nghiêm và lấy ngón tay ngoắc. Tôi không dám gọi lớn tiếng. Mấy ông kia gật đầu. Tôi bò trở lên nhà trên. Lựu đạn, súng nhỏ, súng lớn nổ khắp nơi và nhất là phía bên tay mặt tôi. Biết rằng con cái tôi đã băng được qua đường, tôi hỏi khẽ:

– Thấy gì không Dư?

Dư lắc đầu. Tôi nghe tiếng thì thào sát vách tường phía ngoài. Tôi đoán bảy tám người đang ở trong một cái hầm. Tôi dùng ngón tay đẩy nhẹ cửa sổ. Một loạt đạn từ phía nhà đối diện xuyên ào ào vào cửa sổ. Bỗng Dư chỉ tay về các luống khoai, tôi đếm đủ 11 người đang bò qua với y phục kaki Nam Định, mang súng AK và B-40 cách vách tường khoảng 20 thước.

Tôi đưa súng lên định bóp cò thì Dư kéo lại và ra dấu đừng bắn dùng lựu đạn. Tôi dựng cây súng xuống thật nhẹ, hai tay rút hai trái lựu đạn miệng cắn chốt. Dư cũng thế, 4 quả lựu đạn ném ra cùng một lúc, tiếng nổ xé trời, rồi 4 trái tiếp theo. Bên ngoài tường, tiếng hét lớn rồi tiếng rên và sau đó im lặng. Những cán binh Việt Cộng còn lại bò sát vào chân tường. Nhìn ra cửa, 5 xác nằm vắt trên luống khoai. Một loạt đạn nổ và tôi nghe:

– Chết em, Đại úy!

Tôi sững sờ nhìn Dư, tay trái ôm ngón út của bàn tay mặt đầy máu, ruột của Dư đổ ra lòng thòng. Dư ngã vật ra chết tại chỗ, nơi Dư đứng có một lỗ hổng nhỏ ở vách tường. Vì mãi nhìn qua cửa sổ mà không để ý ở phía dưới. Nguyên một họng súng AK thọc qua lỗ tường để sát bụng Dư mà nhả đạn.

Tôi bắn một loạt M-16 ra cửa sổ, và cứ thế hết quả này qua quả khác tôi ném tất cả lựu đạn của tôi ra ngoài bờ tường. Hai thằng em đã hy sinh, còn bốn thầy trò phải giữ vững vị trí. Phía bên tay phải của tôi súng vẫn nổ dữ dội.

Đến 10 giờ 30 sáng tôi cho Điểu liên lạc với Nghênh, Duật và Mã Khện. Điểu băng người ra đi, bốn căn nhà cách nhau 10 phút đi bộ mà hơn một tiếng đồng hồ sau Điểu mới về báo cáo là tất cả đã chiếm được mục tiêu. Có đoạn đường nào xa và xấu hơn đoạn đường tôi đang đi! Toán Duật: một chết và một bị thương. Toán Mã Khện: hai chết. Toán Nghênh một chết một bị thương. Tất cả là 6 chết và hai bị thương. Chúng tôi còn 11 người tại tuyến.

Điểu bò ra giếng cố đem qua cho tôi một cái máy. Cột máy vào một đầu dây và quăng đầu dây kia qua cho Điểu kéo. Can mở máy liên lạc với tiểu đoàn:

– Trình đại bàng, tôi sẽ cho tràn ngập vị trí với thằng 2 (Đại Đội 2) của Lộc và thằng 3 của tôi.

Đại bàng hỏi:

– Tại sao từ sáng tới giờ không chịu liên lạc với tôi? Tôi ra lệnh rút về ngay.

Phán nài nỉ:

– Đây là dịp may, tinh thần anh em đang lên, tôi xin đại bàng cho làm luôn!

Đại Bàng người Thanh Hoá nói bằng bạch văn, không ngụy trang:

Nếu anh không rút về, tôi sẽ đưa anh ra toà án quân sự.

Khí giận bừng bừng, tôi tắt máy không trả lời, trên tay vẫn cầm trái khói xanh. Suy nghĩ thật kỹ! Suy nghĩ thật kỹ! Hơn mấy giờ để đánh mục tiêu, bốn căn nhà và một con đường ngập máu. Mưa vẫn lạnh như cắt da và mồ hôi vẫn ra như tắm. Cuối cùng tôi đành bảo Điểu chuyển lệnh cho các toán:

– Rút về ngay, mạnh toán nào rút toán nấy, không chờ đợi. Mang thương binh theo, xác chết bỏ lại.

Năm thước đường đi đã khó, về còn khó hơn. Mỗi bóng người nhúc nhích là đạn nổ hàng loạt, liên hồi, đạn bắn chéo bao phía, đạn lưới thật dầy trên mặt đường và khắp vị trí. Làm sao trở về đây! Con cái bên kia đường đưa mắt theo dõi. Toán tôi bò ra giếng, bỗng mấy bóng đen vụt qua đường như sao xẹt, nhào vào bờ lề và được anh em kéo ra sau. Đạn nổ dòn tan cày nát mặt đường. Đây là mấy đứa bị thương nặng, tưởng là di chuyển không nổi, nhưng khi nghe lệnh rút chúng thu hết tàn lực vùng chạy về, chớp mắt không kịp thấy.

Hỏa lực từ ba phía nổ vùi vào vị trí chúng tôi. Các toán đột kích không còn liên lạc với nhau. Điểu và Can vẫn giữ căn nhà. Việt Cộng kiểm soát con đường bằng mấy cây thượng liên và trung liên, chúng bắn liên miên. Bên kia đường, Sự và Lộc đáp lễ bằng hoả lực cơ hữu của Khăn Tím và của Đại Đội 2.

Tôi lấy chân đạp vào thành giếng phóng người băng qua đường, lăn mình, nhảy, chạy và té ào vô bờ lề. Anh em kéo vội tôi ra sau, tôi dừng lại bảo Lộc và Sự bắn từng loạt một để tụi nó dọt về. Nhìn thấy Việt ngồi thành giếng trố mắt ngó về mà tội nghiệp. Sống và chết cách nhau có một con đường. Tôi hồi hộp xót xa cho mấy thằng em.

Tôi vừa quay mặt hét, “Bắn kềm mấy cây thượng liên!” thì những bóng người bay vọt qua đường. Tim tôi thắt lại, đạn nổ mịt mù. Lần lượt tôi ôm ghì từng đứa, tụi nó còn sống cả. Can và Việt nhào đến ôm tôi một cách dữ dội mà đậm đà trìu mến. Lính với tay sờ người, nắm nhẹ áo tôi: “Đại úy, tóc râu Đại úy cháy hết rồi, mặt bị dăm nhiều chỗ.” Cả đại đội bất chấp đạn địch, đứng dậy nhìn nhau hãnh diện và sung sướng. Tôi báo cáo tiểu đoàn: “Tất cả đã về vị trí.”

Bỗng tôi thấy thiếu một cái gì, tôi nhìn Can và Việt hỏi:

– Thằng Điểu đâu?

Tụi nó nói:

– Lần cuối cùng em thấy nó vừa khóc vừa chạy lung tung tìm xác Đại úy ở bên ấy.

– Thôi chết tao rồi, tao phải cứu nó, hai thằng bay theo tao.

Tôi, Can và Việt bò trở ra đường. Bỗng nhiên một bóng người nhảy qua khỏi hàng rào, nhảy qua khỏi miệng giếng, phóng nhanh qua đường, nhào lăn rào rào vào vị trí và la lớn:

– Ê, tụi bay thấy anh hai đâu không?

Điểu đứng dậy nước mắt đầm đìa, tôi lao đến ôm Điểu:

– Tao định qua kiếm mầy đây!

– Trời anh Hai, tụi nó nói anh Hai chết rồi. Em đi lục hết căn nhà mấy chục lần, chỉ không dám ra ngoài hè mà không thấy xác anh Hai đâu. Hôm trước Mạ có dặn nhỏ với em, phải sát cánh bên anh Hai, nếu có gì cũng phải nhớ đem anh Hai về cho Mạ…”

""
Hình chụp tại Huế, 1968: Một số thương binh Thủy Quân Lục Chiến VNCH được chăm sóc và di tản khỏi chiến trường. (HÌNH ẢNH: Christian Simonpietry)

Tóc tai mặt mày râu ria Điểu cháy nám, áo quần rách bươm, nó khóc mùi mẫn vì thấy tôi còn sống. Rồi nó lại bẽn lẽn cúi đầu hai hàng nước mắt lã chã giọt xuống đất. Trong một cuộc chiến bạc bẽo lại có chút tình nghĩa trao nhau qua mấy giọt nước mắt nóng hổi.

Sáu giờ chiều, xuống trình diện tiểu đoàn trưởng, ông nói ngay:

– Ông làm những chuyện nguy hiểm quá, lỡ kẹt bên đó thì nói làm sao với lữ đoàn?

Tôi dạ dạ vâng vâng cho qua rồi đề nghị:

Thưa thiếu tá, ngày mai cho tôi tấn công, tôi tin chắc sẽ tràn ngập vị trí tụi nó. Cho tôi thêm thằng 2 của Lộc, để thằng 1 của Lượm đi sau thu dọn chiến lợi phẩm. Chỉ xin thiếu tá cho tôi hai xe tăng kèm hai bên hông của tôi.

Ông hỏi:

– Có chắc ăn không, Phán?

Tôi cương quyết:

– Chắc, và nếu tràn được vị trí thì xin thiếu tá cho phép tôi đánh thẳng lên Kỳ Đài nếu kịp thời gian.

Tôi theo tiểu đoàn trưởng lên trình ông già Hự (Đại Tá Yên). Ông già chấp thuận.

Tôi trở về họp các trung đội trưởng:

– Ngày mai 8 giờ sáng, Đại Đội 3 Khăn Tím bên trái, Đại Đội 2 của Lộc bên phải, dàn hàng ngang lấy con đường lên cửa Sập làm chuẩn tiến song song. Sau khi hai chiếc “tăng” yểm trợ bằng hoả lực xong, cả hai đại đội xung phong tràn ngập vượt qua mỗi chốt thật nhanh, không cần thâu lượm chiến lợi phẩm, để cho Đại Đội 1 đi sau làm chuyện đó. Tất cả ba lô và đồ ăn để lại, trang bị thật nhẹ. Khi tới xóm nhà sát cửa thành thì dừng lại chờ tôi.

Đúng 8 giờ sáng ngày hôm sau, dàn quân. Hai chiến xa Ontos hạng nặng tiến lên. Mỗi chiếc trang bị 6 cây đại bác 106 ly. Tôi chỉ vị trí cho 2 trưởng xa người Mỹ rồi ra lệnh khai hỏa. Hy vọng 12 cây 106-ly này sẽ san bằng mục tiêu trước mặt cho con cái tôi được dễ dàng đôi chút. Nhưng mỗi chiếcOntos chỉ bắn một phát đạn duy nhất rồi chạy lùi biến mất, không biết chạy về đâu.

Tôi hết hồn, quân đã dàn xong, bắt buộc tôi phải ra lệnh xung phong. Tôi hét thật lớn, hét khản cả cổ: XUNG PHONG!

Cả một đoàn quân dàn hàng ngang, không một ai nhúc nhích. Con đường trước mặt, con đường của 21 ngày máu và nước mắt, con đường tráng nhựa đẹp đẽ nhưng băng qua là đi vào cõi chết. Tôi tức giận chửi thề lung tung rồi chụp cây đại liên M-60 của người lính bên cạnh bắn một loạt dài rồi một mình tôi vừa bắn vừa băng qua đường cùng với toán cận vệ: Can, Việt, Điểu và 2 thằng mang máy. Qua khỏi đường xông tới trước, tiếng đại liên của tôi nổ dòn.

Đúng lúc ấy cả đoàn quân đồng thanh hô xung phong và ào qua đường. Sau đó, đoàn người vượt nhanh qua mặt tôi và lướt tới trước. Súng nổ vang rền, đoàn quân tiến đều, M-16 bắn vãi vào chốt, lựu đạn ném vào chốt, đạp chốt, bang chốt, lướt qua, cố giữ đội hình. Tiếng nổ inh tai liên tục, đàn áp thật mãnh liệt và chạy tới trước. Đến 3 giờ chiều, chúng tôi đến xóm nhà sát cửa Sập.

Tôi ra lệnh:

– Lộc và Sự mỗi ông cho một toán 10 người băng thật nhanh đến áp sát mặt thành xong ngồi xuống. Toán kế tiếp chạy đến leo lên vai toán thứ nhất để toán này đổ dồn lên thành. Khi bám được mặt thành thì tác xạ tối đa và bằng mọi cách giữ vị trí để làm đầu cầu.

Tiếng đạn lớn nhỏ nổ rền. Hai toán lên thành chiếm xong vị trí. Tôi cho tất cả con cái đem bàn ghế ra chất sát tường và leo lên ngay. Tiếng đạn và pháo địch bay ào ào trên nóc thành, phải khóa lại. Một chặng đường xương máu đã vượt qua, bây giờ mục tiêu chính, mục tiêu của niềm hãnh diện, mục tiêu của ơn sâu và nghĩa nặng: Kỳ Đài Huế.

Đây là nơi tượng trưng cho linh thiêng của dân tộc nói chung và cho Huế nói riêng. Duật và 20 người tiến chiếm 6 cây súng thần công to lớn, từ đó Duật dùng hoả lực kềm địch ở cửa Ngọ Môn, yểm trợ cho Nghênh và Mã Khện chiếm Kỳ Đài

Phản ứng của Việt Cộng bắt đầu yếu. Lúc 5 giờ 12 phút chiều, màu áo rằn ri Thủy Quân Lục Chiến đã làm chủ Kỳ Đài. Lá cờ xanh đỏ sao vàng đầy hận thù còn ở trên không. Một thằng lính rút đâu trong người ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn. Tôi gọi về tiểu đoàn:

– Tất cả đã sạch sẽ, xin hiếu tá cho tôi treo cờ.

Lúc ấy, tôi nhớ rõ lệnh của Trung Tướng Lê Nguyên Khang: “Một người lính Thủy Quân Lục Chiến duy nhất còn sống sót cũng phải dựng lại cho được ngọn cờ vàng tại Phú Văn Lâu.”

Trong niềm vui sướng cùng tột, Hạ Sĩ Hạnh hét lớn:

– Thủy Quân Lục Chiến!

Xong lấy trái hỏa châu đập mạnh định bắn pháo bông lên trời ăn mừng. Trong cơn say chiến thắng, Hạnh xoay ngược đầu hỏa châu vào mình, hỏa châu nổ xuyên bụng. Hạnh cười tươi:

– Em không sao đại úy!

Phán nghĩ thằng em này tỉnh táo quá, chắc nó chết. Và nó chết thật.

Tiểu đoàn trưởng bảo Phu Nhân giữ đầu máy chờ. Sau này tôi được nghe: Khi báo cáo về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh (BB), Chuẩn Tướng Ngô Quang Trưởng xin Thủy Quân Lục Chiến dành vinh dự treo cờ cho Sư Đoàn 1. Sáng hôm sau ngày, 24 tháng 2 Phạm Văn Đính dẫn một đơn vị của Sư Đoàn 1 từ cửa Thượng Tứ lên làm lễ thượng kỳ.

Nhìn lá cờ vàng phất phới trên nền trời màu xám của Huế, tôi hãnh diện thật sự vì một thằng con của Huế đã góp phần dựng lại ngọn cờ này. Trung Úy Sự trình tôi:

– Thằng Hạnh chết, mình còn 67 người.

Đại đội ra đi hơn 170 người, sau 24 ngày và sau bao nhiêu lần bổ sung quân số, chỉ có 3 mục tiêu: con đường, cửa Sập và Kỳ Đài mà bây giờ chỉ còn lại 67 người.

Sáng hôm sau tôi về phối trí đóng quân lục soát ở khu vực cửa Đông Ba, Nhà Thương Nhỏ, chợ Xép, ngã tư Anh Danh. Bộ chỉ huy của tôi đóng tại một tiệm cầm đồ. Tiệm này có Tôn và Lưu cùng học một lớp với tôi hồi nhỏ. Trong nhà không còn ai cả. Chiều hôm đó tôi gặp lại rất nhiều bạn bè cũ. Tình hình chưa được an ninh hoàn toàn nhưng đóng ở đây chúng tôi nhẩn nha hơn trước nhiều. Tôi đi kiểm soát các vị trí và cho lệnh lục soát tàn quân địch.

Lính canh bắt giải tới một người đàn ông lớn tuổi, gầy ốm ăn mặc lếch thếch, áo vét nhàu rách, tóc tai rối bù và dơ bẩn, miệng nói lí nhí.

– Lệnh giới nghiêm, đã 11 giờ đêm sao ông này còn lang thang trên hè phố, em nghi quá. Người lính nói.

Tôi sững sờ nhìn người đàn ông:

– Thầy Cao Hữu Triêm! Trời ơi Thầy!

Tôi gọi mấy tiếng lớn mà thầy cũng không nghe, thầy tiếp tục lẩm bẩm rất nhỏ. Tôi cầm tay mời thầy ngồi:

– Con là học trò cũ của thầy đây.”

Một ánh mắt lạc lõng xa vời:

– Ờ, ờ sao con khoẻ không? Thầy mấy ngày ni chưa ăn chi cả.

Lính tôi kiếm cơm trắng và một dĩa gà luộc về mời thầy xơi. Tụi nó còn kiếm được một bình trà nóng mời thầy. Sau một hồi thầy tỉnh táo và cho biết cô và sấp nhỏ vào Đà Nẵng, thằng con lớn bị chết rồi, thầy không muốn về nhà nữa. Rồi thầy khóc, giọt nước mắt lăn dài trên đôi má nhăn nheo.

Tôi nói:

– Thôi thầy ở đây với con cho yên.

Lính của tôi thay nhau hầu hạ thầy ân cần, đến ngày thứ tư thầy đòi đi, tôi thu xếp để thầy vô Đà Nẵng. Từ đó, tôi mất tin tức của thầy. Cầu mong thầy được bằng an.[1] Khi vào quân trường, Phán trình diện sơ lược như sau: “Tui chánh quán làng Phú Nhơn, ở gần Hồ Tịnh Tâm, quận Thành Nội, Huế.” Thế là sau đấy, giữa lửa đạn và thịt đổ xương rơi, và qua tiếng thét trong máy truyền tin, cái tên ngụy trang “Phu Nhân” ra đời.

Nguyễn Văn Phán

http://www.quehuongngaymai.com

” data-medium-file=”” data-large-file=”” class=”alignnone size-full wp-image-4690″ src=”https://bienxua.files.wordpress.com/2016/04/tong-thong-ngo-dinh-diem-tham-mot-chien-ham-hai-quan-vnch1.jpg?w=540″ alt=”Tong Thong Ngo Dinh Diem tham mot chien ham Hai quan VNCH” width=”540″ height=”374″>Sinh sau đẻ muộn hơn 2 quân chủng Lục và Không Quân vì nghị định thành lập Hải Quân bị đình hoãn nhiều lần. Nhưng rồi do nhu cầu chiến cuộc, dụ số 2 đã cho phép Hải Quân ra đời ngày 6 Tháng Ba năm 1952, hồi tố đến ngày 1 Tháng Giêng năm 1952. Vào thời điểm này, muốn thành lập một quân chủng kỹ thuật như Hải Quân mà không có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, không có các phương tiện huấn luyện nhân sự quả là một điều không tưởng. Không còn cách nào tốt hơn để đốt giai đoạn, ngoại trừ chính phủ QGVN dựa vào những cơ sở huấn luyện có sẵn của Hải Quân Pháp để đào tạo nhân viên tân tuyển của mình.

Cho nên trong khoảng thời gian từ năm 1951 đến năm 1953, hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên tiên khởi của Hải Quân Việt Nam phải theo thực tập (On the job training) trên các chiến hạm, chiến đỉnh của Hải Quân Pháp đang hoạt động ngoài biển cũng như trong sông.

Có thể nói những người tình nguyện gia nhập vào hàng ngũ Hải Quân Việt Nam trong hoàn cảnh quá khó khăn như vậy là những thanh niên quyết tâm bảo vệ quốc gia và ôm ấp mộng hải hồ. Với tinh thần yêu nước cao độ, nhẫn nhịn chịu đựng tập luyện vượt qua nhiều giai đoạn cực khổ, cuối cùng họ đã chứng tỏ được khả năng hoàn hảo về kỹ thuật, hành thủy và tác chiến để xứng đáng nhận lãnh đầu tiên 2 Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long vào giữa năm 1953 (8). Thái độ đối xử hòa nhã cùng nhiệt tình làm việc của tân thủy thủ đoàn Việt Nam khiến cho một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp quên đi nỗi bất bình về lá cờ màu vàng 3 sọc đỏ đang phất phới bay trên các chiến đỉnh của họ mà họ còn nán lại phục vụ trong những ngày chót trước khi lên đường về nước.

Giờ đây, Hải Quân Việt Nam là một thực thể trong ước mơ của những chàng trai trẻ ham ra khơi, thíchlướt sóng; nhất là viễn dương xuất ngoại du học. Họ đã tạo được niềm tin vững mạnh cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm ban nghị định ngày 20 Tháng Tám năm 1955 thành lập Bộ Tư Lệnh Hải Quân (BTL/HQ) và chính thức bổ nhiệm HQ/Thiếu Tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ tư lệnh Hải Quân kiêm chỉ huy trưởng đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Riêng Hải Đoàn 2 Xung Phong (Dinassault N0 2) được Tướng De Lattre ra lệnh thành lập từ đầu Tháng Hai năm 1951 theo nhu cầu cuộc chiến tại miền Trung châu Bắc việt vẫn trực thuộc Bộ Chỉ Huy Giang Lực của Pháp (COFFLUSIC) và sát nhập vào Hải Đoàn 21 Xung Phong đầu năm 1955 khi vào Nam (9).

Ngày 16 Tháng Sáu năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm về nước thành lập Chính Phủ do sự ủy nhiệm của Quốc Trưởng Bảo Đại bằng sắc lệnh số 38/QT. Bởi những thế lực riêng biệt do quân đội Pháp cố tình tạo ra trước khi rút về nước theo hiệp định Genève ngày 21 Tháng Bảy năm 1954, quân đội QGVN bị chia rẽ thật trầm trọng. Theo Đoàn Thêm trong tài liệu đã dẫn, ngày 21 Tháng Ba năm 1955, trên hệ thống đài phát thanh Pháp-Á cũng như đài phát thanh Quốc Gia Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã phải cương quyết tuyên bố:

“Phải thống nhất quân đội, không có lực lượng riêng biệt; phải thống nhất hành chánh, không có địa phương tự trị; phải thống nhất tài chánh, không thể thâu những sắc thuế do địa phương tự động đặt ra.”

Ngoại trừ quân đội Cao Đài thực tâm qui thuận Chính phủ, ngày 28 Tháng Ba năm 1955, Thủ Tướng Diệm ra lệnh cho quân đội QGVN tấn công loại bỏ quân đội Bình Xuyên và ngày 5 Tháng Sáu năm 1955 loại trừ luôn quân đội Hòa Hảo.

Báo chí trong nước, ngoài nước thời đó đều ca ngợi tài lãnh đạo anh minh của Thủ Tướng Diệm; vì chỉ trong vòng một năm thôi mà ông đã gom được quân đội về một mối, chấm dứt nạn “Sứ quân thời thượng.” Thắng lợi này cũng dọn đường cho cuộc trưng cầu dân ý ngày 23 Tháng Mười năm 1955 truất phế Bảo Đại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên chức vụ Quốc Trưởng. Chủ Tịch Thượng Viện Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson cũng cổ vũ Tổng Thống Diệm là Churchill của thập niên… người lãnh đạo tiền phong cho nền tự do ở Đông Nam Á…(10).

Dụ số 2 ấn định ngày 26 Tháng Mười năm 1955 là ngày Quốc Khánh của nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa và Quốc trưởng lấy danh hiệu là Tổng Thống VNCH. Quân Đội QGVN trở thành Quân lực VNCH (The Republic of Vietnam Armed Forces = RVNAF).

Đến cuối năm 1955, Hải Quân thuần túy Việt Nam có 3,858 người kể cả 1,291 Thủy Quân Lục Chiến với Tiểu đoàn 1 Quái Điểu và Tiểu đoàn 2 Trâu Điên.

HQ Phap chuyen giao cac chien dinh cho HQVNCH

Đầu năm 1956, tổng thống VNCH chấp thuận dự án Giang Lực dự trù thành lập 5 Hải Đoàn Xung Phong, mỗi hải đoàn sẽ được trang bị:

05 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)
04 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landing craft vehicle and personnel)
05 Hô-bo vận tốc nhanh (Hors bord)
02 Quân vận hạm LCU (Landing craft utility)
02 Tàu kéo quân cảng YTL (harbor craft)
01 Giang pháo hạm LSIL (Landing ship infantry large) tăng phái.

Đó là các Hải Đoàn 21 Xung Phong (hậu cứ tại Mỹ Tho), Hải Đoàn 23 Xung Phong (hậu cứ tại Vĩnh Long), Hải Đoàn 24 Xung Phong (hậu cứ tại Cát Lái), Hải Đoàn 25 Xung Phong (hậu cứ tại Cần Thơ) và Hải Đoàn 26 Xung Phong (hậu cứ tại Long Xuyên).

Riêng về Hải Lực, đến cuối năm 1957, số chiến hạm được Pháp chuyển giao lên 21 chiếc gồm:

05 Hộ tống hạm PC (Patrol Craft or submarine chaser) là:

HQ01 – Chi Lăng
HQ02 – Vạn Kiếp
HQ03 – Đống Đa
HQ04 – Tuy Động
HQ05 – Tây Kết

03 Trục lôi hạm YMS (Yard MineSweeper) là:

HQ111 – Hàm Tử
HQ112 – Chương Dương
HQ113 – Bạch Đằng.

02 Trợ chiến hạm LSSL (Landing Ship Support Large) là:

HQ225 – Nỏ Thần (Nguyễn Văn Trụ)
HQ226 – Linh Kiếm (Lê Trọng Đàm).

05 Giang Pháo Hạm LSIL (Landing Ship Infantry Large) là:

HQ327 – Long Đao
HQ328 – Thần Tiễn
HQ329 – Thiên Kích
HQ330 – Lôi Công
HQ331 – Tấm Sét.

Giang phao ham HQ33O Loi Cong ..

04 Hải Vận Hạm LSM (Landing Ship Medium) là:

HQ400 – Hát Giang
HQ401 – Hàn Giang
HQ402 – Lam Giang
HQ403 – Ninh Giang

01 Hỏa vận hạm YOG (Oiler) là:

HQ470.

01 Huấn luyện hạm AKL (Loại tàu vận chuyển) là:

HQ451 – Quá Giang

2. Giai đoạn chậm phát triển (1958-1967)

Năm 1958 được chọn làm mốc thời gian vì những sự kiện quan trọng sau đây:

Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang được Pháp chuyển giao toàn bộ lại cho Hải Quân Việt Nam.

Hải Quân Việt Nam tăng lên 5,000 người

Khóa 8 Sĩ qian Nha Trang (Đệ I Hổ Cáp) có 50 sinh viên nhập học với giáo sư, giảng viên và huấn luyện viên hoàn toàn là người Việt Nam.

Quân số Giang Lực gia tăng 50% cho 5 Hải Đoàn Xung Phong trang bị 96 chiến đĩnh đủ loại.

Đầu năm 1960, Bộ Tư Lệnh Hải Quân phúc trình đặc biệt lên Bộ Tổng Tham Mưu về Tiểu đoàn 603 Việt Cộng tức Tập Đoàn Đánh Cá Sông Gianh đã lén lút xâm nhập vào Duyên khu Đà Nẵng. Tổng Thống Diệm chấp thuận thành lập ngay 4 Đội Hải Thuyền đầu tiên: Đội 11 Cửa Việt, Đội 12 Cửa Thuận An, Đội 13 Cửa Tư Hiền, Đội 14 Cửa Hội An. HQ/Đại Úy Nguyễn Văn Thông (khóa 3 Sĩ Quan Nha Trang) chỉ huy huấn luyện 400 tuần viên sơ khởi cho 80 ghe đủ loại.

Năm 1962, Hải Đoàn 22 Xung Phong được thành lập, HQ/Đại Úy Huỳnh Duy Thiệp (khóa 7 Sĩ quan Nha Trang) là chỉ huy trưởng đầu tiên.

Đến cuối năm này, lực lượng Hải Thuyền tăng lên 28 đội đóng dọc theo duyên hải với 800 tuần viên, rồi được cải danh thành Duyên Đoàn khi quân số tăng lên đến 4,000 người.

Đến đầu năm 1963, HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân mở cuộc hành quân thủy bộ bình định Năm Căn: Chiến dịch Sóng Tình Thương

Bước ngoặt chính trị năm 1963:

Được sự ủng hộ của Đại Sứ Mỹ Henry Cabot Lodge (vua tổ chức đảo chánh), các tướng lãnh Việt Nam đã làm cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 giết chết Tổng Thống Diệm và chấm dứt nền Đệ I VNCH (11). Trong cuộc chính biến này, HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền, tư lệnh Hải Quân cũng bị một sĩ quan đàn em chối bỏ truyền thống quân chủng ám sát chết (12).

Vì không còn lãnh tụ nào sáng giá hơn ông Diệm, nên tình hình chính trị miền Nam trở nên bất ổn. Quân đội phân hóa, đảo chánh liên miên, sinh viên học sinh biểu tình hàng ngày. Lợi dụng tình trạng rối ren tại thành phố và hoang phế 7,000 ấp chiến lươc tại nông thôn, Việt Cộng gia tăng cường độ ám sát khủng bố và bắt đầu tổ chức đánh lớn cấp trung đoàn. Cuối năm này, Hải Quân mất luôn quyền chỉ huy Liên Đoàn Thủy Quân Lục Chiến khi binh chủng thống thuộc này trở thành lữ đoàn tổng trừ bị do Trung Tá Lê Nguyên Khang làm tư lệnh và bị áp đặt trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu về mọi mặt giống như binh chủng Nhảy Dù của Không Quân.

Đến hết năm 1964, Hải Quân cũng chưa thoát khỏi quỹ đạo lục đục trên đây, các sĩ quan khóa 2 Nha Trang gồm HQ/Trung Tá Nghiêm Văn Phú, chỉ huy trưởng Hải lực; HQ/Trung Tá Đỗ Quý Hợp, chỉ huy trưởng Giang Lực; HQ/Trung Tá Khương Hữu Bá, chỉ huy trưởng Duyên Lực; HQ/Trung Tá Đặng Cao Thăng, (khóa 1 Brest), giám đốc Hải Quân Công Xưởng đồng lòng lật đổ Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải Quân về vụ thủy cước.

Sau ngày 8 Tháng Ba năm 1965, quân đội Hoa Kỳ đổ bộ lên hải cảng Đà Nẵng, Hải Quân có 7 Hải Đoàn Xung Phong. Với bảng cấp số (SOP) mới 1965, Hải Đoàn Xung Phong được cải danh là Giang Đoàn Xung Phong (River Assault Group = RAG) có quân số 150 người. Sáu trong bảy Giang đoàn loại này được trang bị:

01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor)
01 Chiến đấu đỉnh (Combat Monitor)
05 Trung vận đỉnh LCM6
06 Tiểu vận đỉnh LCVP
06 Xung kích đỉnh STCAN or FOM.

tieu-giap-dinh-fom

Riêng Giang đoàn 27 Xung Phong trang bị hơi khác biệt với 6 Giang đoàn kia: 01 Giang đỉnh chỉ huy + 01 Chiến đấu đỉnh + 06 Quân vận đỉnh LCM8 và 10 Tiểu đỉnh RPC (River Patrol Craft) (13). Quân số Giang lực lúc bấy giờ tăng thành 1,150 người kể cả Bộ Chỉ huy Giang lực và 3 Ban Chỉ Huy hành chánh Liên Giang Đoàn (type).

Ngày 19 Tháng Sáu năm 1965 được gọi là Ngày Quân Lực do sắc lệnh của Chủ tịch Ủy ban Hành Pháp Trung ương (tương đương với thủ tướng chính phủ) Nguyễn Cao Kỳ ban hành để chấm dứt thời kỳ khủng hoảng chính trị kéo dài. (14).

Gần cuối năm, lực lượng Hải Thuyền 4,000 người được sáp nhập vào Hải Quân. Tuần viên cải danh thành đoàn viên kèm theo cấp số chính thức cho mỗi duyên đoàn là 03 ghe chủ lực, 03 ghe di cư và 16 ghe chèo.

Trong 7 năm đầu, Hải Quân tiến triển chậm chạp nhưng trong 3 năm sau, Hải Lực đã nhận thêm một số chiến hạm đáng kể:

03 Trục lôi hạm MSC (Mine Sweeper Craft) là:

HQ114 – Hàm Tử II
HQ115 – Chương Dương II
HQ116 – Bạch Đằng II.

01 Hộ tống hạm PC là:

HQ06 – Vân Đồn.

02 Hộ tống hạm PCE (Patrol Craft Escort) là:

HQ07 – Đống Đa
HQ12 – Ngọc Hồi

Lời Giới Thiệu:

Hòa Bình đã đến sau hơn 5 năm trời bàn cải , cò kè bớt một thêm hai. Hòa Bình đã được các phe phái trân trọng đặt bút ký.

 Cả thế giới hoan hô chào mừng Hòa Bình. Chiến tranh sẽ chấm dứt trên miền đất quê hương đau khổ đọa đày. Những người lính chiến QLVNCH và gia đình họ là những người hân hoan nhất. Những người chờ mong Hòa Bình đến nhất. Những người tha thiết Hòa Bình nhất. Họ không muốn chiến tranh. Đơn giản vì họ không chiến đấu cho bất cứ một thế lực nào trên thế giới. Họ không xâm lăng ai. Họ chiến đấu chỉ để tự vệ chống lại quân xâm lược phương Bắc. Một bọn cộng sản vô thần cuồng tín tay sai của thế lực đỏ trên thế giới. Một lũ người khát máu nhảy múa trên những nỗi đau khổ chết chóc của đồng bào Miền Nam. Dùng hội nghị để đả đả đàm đàm. Để lừa bịp cả thế giới. Để chuẩn bị chiếm trọn Miền Nam khi có cơ hội.

Đại úy Vũ Đình Lưu , một Chi Đoàn Trưởng danh tiếng, một chiến sĩ quả cảm, một người con yêu của Tổ Quốc đã dâng cả đời trai cho sa trường. Ngày xưa dũng cảm trên chiến trường. Ngày nay ngồi nhớ lại chiến trường xưa. Không còn bầu nhiệt huyết của một chiến sĩ bước vào chiến trường khi tuổi đời còn quá trẻ. Không còn nỗi hận thù triền miên trong những nhà tù tại Miền Bắc khắc nghiệt dưới đòn thù của Cộng Quân. Mà bằng tinh thần trung thực ngồi nhớ lại chiến trường xưa. Nhớ những đồng đội đã an nghĩ nghìn thu. Nhớ đồng đội thương binh đang sống lây lất nơi quê nhà. Đại úy Lưu, chỉ có một ước muốn ghi lại những trận đánh tiêu biểu của Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ nói riêng và Thiết Đoàn 5 Kỵ Binh nói chung. Những trận đánh lưu danh chiến sử những trận đánh thắp sáng chính nghĩa Quốc Gia của QLVNCH , một quân lực vì dân chiến đấu , vì dân hy sinh.

Cũng giống như những trận đánh đẩm máu trên Quốc lộ 20, Tại Ngã Ba Dầu Giây , tại An Điền Rạch Bắp và trên các chiến trường Long Khánh Bình Dương Bình Long… Trận đánh tại đồn Xà Bang, một tiền đồn heo hút đã bị bao vây cả tuần lễ khi Hiệp Định Đình chiến được ký chưa ráo mực. Những người lính chiến đang hân hoan đón chào Hòa Bình cùng vợ con với nổi mừng vui khôn xiết. Nhưng đó là một nền Hòa bình giả hiệu. Một nền Hòa Binh vang tiếng súng. Một nền Hòa Bình máu vẫn chảy thây vẫn phơi. Cộng Quân , một lần nữa, ngang nhiên vi phạm. Phái đoàn kiểm soát đình chiến đã bất lực trong nỗ lực ngăn cản cuộc tấn công của cộng quân. Chỉ có tiếng súng của những chiến sĩ đồn Xà Bang thay vì được bắn lên mừng Hòa Bình , đã trực chiến cùng bọn công nô vô thần khát máu. Họ đã đơn độc chiến đấu cùng vợ con họ trong sự bối rối của Quân Đoàn III. Không một giới chức nào có phản ứng thích hợp để tiếp cứu Đồn Xà Bang.

Kính mời Quý độc giả quý chiến hữu đọc ” Cứ Tưởng Là Hòa Bình ” để nhìn lại một chặng đường máu lửa cam go. Để cảm được tinh thần quả cảm không đầu hàng của các chiến sĩ can trường đồn Xà Bang. Nguyện hy sinh dưới ngọn cờ vàng Quốc Gia chính nghĩa. Đồn Xà Bang đã đứng vững và cũng đã chứng kiến tinh thần can trường của người lính chiến đồn Xà Bang trong một Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Bất Tử.

Xin nhỏ một giọt nước mắt tri ân cho những chiến sĩ đồn Xà Bang đã nằm xuống hy sinh cho Tổ Quốc , cho những chiến sĩ Sư Đoàn 18 BB và Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ đã thể hiện tuyệt đối tinh thần đồng đội mà hy sinh.

Kỵ Binh Việt Nam Cộng Hòa Muôn Năm

KB NguySaigon

 

Dưới ánh nắng hoàng hôn vàng nhạt, yếu ớt của một ngày đầu tháng 3 năm 1973. Chúng tôi đứng nghiêm trên các Thiết Mã M113 đưa tay chào lần cuối. Chào để tiễn đưa đoàn xe hai mươi chiếc GMC và Hồng Thập Tự, nối đuôi nhau rời tiền đồn Xà Bang xuôi về Bình Giã, Bà Rịa. Đoàn xe mang theo những Chiến Sĩ và những người vợ dũng cảm kể cả những đứa con thơ ngây của một Đại Đội Địa Phương Quân. Đa số bị thương hoặc tử vong sau 6 ngày đêm ròng rã tử thủ trong đồn. Cũng trong đoàn xe nầy có cả những Chủ Lực QuânVNCH bị thương vong trên đường giải cứu.Và Cộng Quân bị thương nặng. Đó là kết quả trong 6 ngày, sau hơn một tháng kề từ ngày ký kết “Hiệp Định Hòa Bình Balê” 27 tháng 1 năm 1973. Tại một vùng xa xôi, nhỏ bé của Miền Đông đất đỏ cách Thị Trấn Bà Rịa 28 Km về hướng Bắc Đông Bắc: khu vực Đồn Điền Xà Bang.

Hòa Bình thật đến trên những trang giấy bóng bẩy, ký bằng bút vàng, bút ngọc. Hòa Bình đến với Thế Giới Tự Do, Hòa Bình đến với kẻ đầy thế lực, quyền uy. Họ nâng ly chúc mừng Hòa Bình cho Việt Nam trong những lâu đài tráng lệ bên trời Tây, trời Mỹ và nhận giải Nobel Hòa Bình cho họ. Nhưng Hòa Bình không đến với Miền Nam Việt Nam ngút ngàn khói lửa chiến chinh.

""
Hiệp định Paris được chính thức ký kết ngày 21/1/1973

Những người lính QLVNCH vẫn tiếp tục chấp nhận gian nguy, họ hãnh diện với trời, với đất làm nhiệm vụ bảo vệ cho quê hương yêu dấu. Nhưng họ đã bị lừa gạt một cách đau đớn và tàn nhẫn. Vợ con họ cứ tưởng Hòa Bình đã đến trên quê hương. Họ muốn chia sẻ với những người chồng, nguời cha những tháng ngày hạnh phúc. Chung nhau vui đùa nơi thôn dã dưới ánh trăng vàng thơ mộng. Trong cảnh trí lãng mạn của suối, của rừng café xanh tươi bát ngát. Có đồn điền cao su rộng lớn như vô tận. Nơi đây sẽ không có tiếng súng, không có cảnh đạn rơi thù hận vì đã Hòa Bình. Nhưng không, những thân phận cam khổ này vẫn tiếp tục nhận lãnh những sự tàn nhẫn của chiến tranh khốc liệt. Nhưng họ không hề nao núng, những đôi mắt sáng ngời nhìn về phía trước và những đôi chân đạp hai chữ đầu hàng.

Mặc dù lời kêu gọi đầu hàng ra rả từ loa phóng thanh bên Tiểu Đoàn địch thuộc Trung Đoàn Bình giã lừng danh. Địa danh Bình Giã trở nên nổi tiếng từ năm 1965 khi xảy ra những cuộc đụng độ nẩy lửa giữa Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 4 TQLC Kình Ngư với Trung Đoàn Cộng quân Bình Giã. Với những Đại Đội Trưởng can trường Tr/úy Nguyễn Đằng Tống, Tr/úy Đỗ Hữu Tùng là những người anh thân thiết trong gia đình. Bây giờ những người lính ĐPQ vẫn tiếp tục chiến đấu không mệt mõi trong những lô cốt kiên cố ngạt mùi khói súng , trong những giao thông hào dày đặc vỏ đạn đồng. Những người vợ thương chồng can đảm giúp chồng khui từng thùng lựu đạn, bóc hộp từng quả đạn súng cối…Những đứa con tiếp tế lựu đạn đến cho cha, nối kết những dây đạn đại liên để cha sẳn sàng nhả đạn chính xác trước sức tấn công của quân thù.

Nhưng đến ngày thứ 5 sức chống cự của Đại Đội ĐPQ gần như kiệt lực. Đại Đội Trưởng xin tiếp ứng trong nhiều ngày và cho đến giờ phút xem chừng như tuyệt vọng. Trong suốt thời gian tiền đồn Xà Bang bị vây hãm, nhiều đơn vị tại địa phương âm thầm hành quân tiếp cứu nhưng không đem lại kết quả nào. Ngày thứ 6 các đơn vị Chủ lực bạn thật sự nhảy vào vòng chiến để giải vây. Một dấu hỏi to tướng tại sao phải chờ đến ngày thứ 6? BTL Quân Đoàn 3, Sư Đoàn 18, Tiểu Khu Phước Tuy,Trung Đoàn 48 BB đã có kế hoạch giải tỏa từ khi cuộc dành dân, lấn đất của Công quân bắt đầu. Thượng cấp đã ban lệnh chúng tôi xuất phát nhiều lần, nhưng oái oăm thay chúng tôi lại nhận lệnh phải tạm hoãn. Vì trước sự quan sát của những cặp mắt cú vọ liếc xéo, nhìn ngang của những người ngoại cuộc gọi là trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến. Và đơn vị chúng tôi đóng quân ngay trước mắt của 2 ông Tây chủ Đồn Điền thân Cộng thuộc xã Cẩm Mỹ…

Tướng quân Tư Lệnh Sư Đoàn ban lệnh hành quân, bất kể những đôi mắt dòm ngó, bất chấp những báo cáo, cản trở nào của những người mắt xanh, đầu đỏ đó.

Ngày thứ 6 các cánh quân của Tr/Đoàn 48 BB và của Tiểu Khu Phước Tuy bắt đầu xuất phát. Nhằm tấn công, giải tỏa áp lực địch là Trung Đoàn Bình Giã đang kìm hãm, pháo kích và sắp tràn ngập tiền đồn Xà Bang. Đơn vị trú phòng là một Đại Đội Địa Phương Quân. Cũng như uy hiếp Chi Khu Đức Thạnh thuộc Tiểu Khu Phước Tuy.

Tiền đồn Xà Bang nằm cạnh Liên Tỉnh Lộ số 2 (LTL2), nối liền từ Ngã 3 Tân Phong Quận Xuân Lộc, Tỉnh Long Khánh đến Thị Trấn Bà Rịa, Tỉnh Phước Tuy. Xà Bang cách Bà Rịa 28Km về hướng Bắc Đông Bắc và cách Xã Cẩm Mỹ 6Km về hướng Nam. ( Xem Phóng đồ Hành Quân )

""
PHÓNG ĐỒ HÀNH QUÂN GIẢI TỎA TIỂN ĐỒN XÀ BANG (THÁNG 3-1973 )

Lực lượng hành quân giải toả được phân nhiệm như sau:

Lực lượng A: Dưới sự chỉ huy của Trung Đoàn Truởng Tr/Đ 48 BB. Xuất phát từ Ngã 3 xã Cẩm Mỹ tấn công từ hướng Bắc xuống Nam. Gồm có:

Tiểu Đoàn 3/48BB ( – ) cánh quân bên trái LTL2

Chi Đoàn 2/5 Thiết Kỵ ( CĐ2/5TK ) cộng một Chi đội Chiến Xa M41và 1 Đại Đội của TĐ 3/48 tùng thiết, cánh quân bên phải LTL2

Lực lượng B: Dưới sự chỉ huy của Tiểu Khu Trưởng Phước Tuy. Xuất phát từ Chi Khu Đức Thạnh tấn công từ hướng Nam lên Bắc. Gồm có:

Tiểu Đoàn 2/48BB, cách quân bên phải LTL2

Tiểu Đoàn 332 ĐPQ ( thuộc tiểu khu Long An tăng phái ) cánh quân bên trái LTL2

Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 18 BB chỉ huy tổng quát.

Trước giờ xuất phát Tư Lệnh ban một cái lệnh chắc nịch cho tất cả Đơn vị Trưởng là bằng mọi giá trong 6 tiếng đồng hồ phải giải tỏa xong tiền đồn Xà Bang. Vì trong đó ngoài các chiến sĩ ĐPQ thương vong còn có hàng chục vợ, con lính bị thương, phải cứu họ bằng mọi giá. Riêng tôi ông phán một câu xanh rờn là muốn thấy xe Chỉ huy của tôi tiến đến trước cổng đồn lúc 4 giờ chiều. Tất cả chúng tôi nhận lệnh, tưởng chừng như nhận lệnh về họp tại Bộ Tư Lệnh ở Long Bình bằng xe JEEP! Nhưng ông đã đánh đúng tâm lý của mọi người chúng tôi. Chúng tôi trông chờ chỉ có thế trong 6 ngày qua. Chờ một quyết định sáng suốt cuối cùng, bất chấp sự khiển trách từ cấp cao hơn hay nhận lãnh hậu quả không mấy tốt đẹp là hành quân trong thời gian “Đình Chiến”.Chúng tôi, từ giờ phút xuất phát trong đầu lúc nào cũng nghĩ đến trên 200 con người, có cả đàn bà và trẻ thơ đang đói khát, những vết thương càng ngày càng tồi tệ. Họ đã đến lúc tuyêt vọng! Họ đang mong mỏi chúng tôi đến từng giờ từng phút. Họ đang đợi chờ chúng tôi. Đó là một động lực phi thường đẩy chúng tôi tiến về phía trước bất chấp trở lực nào. Phải giải cứu họ bằng mọi cách dù đơn vị có tổn thất lớn lao đi chăng nữa.

Đúng ra, giờ xuất phát là 8 giờ sáng, nhưng vì lý do thay đổi đột ngột nhân sự Chỉ huy bên Thiết Giáp nên đúng 10 giờ tất cả các cánh quân bắt đầu xuất phát. Như vậy, các đơn vị tiến quân làm sao trong 6 tiếng đồng hồ phải vượt qua 6 km, từ Cẩm Mỹ đến bắt tay được với đồn Xà Bang.

Trong 2 km đầu, lực lượng tấn công từ hướng Bắc xuống, chưa gặp sức chống cự nào của địch quân. Chỉ thấy rất nhiều cờ, nửa đỏ nửa xanh có ngôi sao vàng nẳm giữa mà Cộng quân gọi là Cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Những lá cờ đã buộc một cách vội vàng trên những cành cao su đề xí phẩn. Giành quyền kiểm soát khu vực, vùng đất của VNCH mà chính phủ không đủ quân để gìn giữ.

Chúng tôi vẫn tiếp tục giữ đội hình tiến về phía trước. Hai cánh quân, BB bên trái, Thiết Kỵ bên phải vừa đến thung lũng , địch bắt đầu pháo kích vào đội hình bằng súng cối 82ly. Chúng tôi vẫn tiến tới và gặp ngay sức kháng cự của địch. Từ trong các chốt kiền liên hoàn nằm khoảng giữa rừng cao su và con lộ, Cộng quân dùng B40 và AK 47 bắn chận. Những khẩu đại bác 76 ly trên CX M41 khai hỏa bốc tung từng hầm hố địch. Những tràng đạn đại liên chính xác đốn hạ những tên còn sống sót bung hầm bỏ chạy. Bên cánh quân TĐ 3/48BB, một Tiểu Đoàn nổi danh vì cách tấn công táo bạo, cũng tiến chiếm mục tiêu nhanh chóng. Tiếng súng cá nhân, cộng đồng, lựu đạn nổ liên tục. Tiểu Đòan vẫn giữ đội hình hàng ngang với Thiết giáp. Sức kháng cự càng lúc càng dữ đội, vì hầm hố, chốt càng ngày càng dày.

Có một điều hết sức đặc biệt là trong cuộc hành quân này hoàn toàn không có Phi Pháo yểm trợ. Chắc quí vị cũng đã hiểu tại sao. Vỉ dưới con mắt của các Quan Sát Viên Quốc Tế đây là thời gian ngưng chiến để tái lập Hòa Bình. Nhưng mỉa mai thay, đáng phẫn nộ thay, cho sự ngây thơ cụ, hay sự cố tình che dấu của họ. Họ có biết rằng sự lọc lừa vi phạm trắng trợn từ phí bên kia?

Tướng Westmoreland, cựu Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ tại VN đã phát biểu: “Miền Nam VN phải chăng không thể tránh được một sự chiến bại? Vâng, đúng như vậy. Nhưng chúng ta phải xét lại tình hình: Bắc Việt đã vi phạm hoàn toàn Hiệp Định Paris 1973. Hoa Kỳ hoàn toàn bất lực trên phương diện chính trị, và các Quốc Gia có nhiệm vụ bảo đảm việc thi hành Hiệp Định thì hoàn toàn im lặng không nhúc nhích” ( Nguyên văn lời dịch từ bản Pháp Văn của Cựu Trung Tướng Quân lực Pháp Vanuxem của NT Dương Hiếu Nghĩa )

Tôi nhìn đồng hồ đã 12 giờ trưa, chúng tôi còn 4 tiếng nữa phải đánh tan sức đề kháng mãnh liệt của một Tiểu Đoàn Cộng quân. Có sức mạnh nào bằng sự nhất trí, quyết tâm kiên trì chiến đấu của các cấp trong đơn vị,vì sự bảo toàn tánh mạng 200 con người đang bị đe dọa.

Hai cánh quân BB và Thiết Giáp dùng hết hỏa lực tiến chiếm mục tiêu với tốc độ nhanh nhất. Những quả đạn 76 của Chiến xa M41, 106 ly không giật của Chi Đoàn. Đạn75ly, 57ly, M72 của BB, rời nòng bay thẳng, cày nát công sự phòng thủ của chúng. Chi Đội 4 Chiến xa M41, và Chi Đội 4 M113 xen kẻ nhau, hàng ngang hùng dũng vừa tác xạ vừa nhào tới dùng xích sắt cán, đè bẹp hầm hố. Chiến sĩ BB cùng xung phong tiến lên tuôn những quả lựu đạn vảo hẩm một cách nhanh nhẹn và chính xác. Hàng chục khẩu đại liên 50. đại liên 30, M 60 nổ rền vang đội. Hàng trăm quả đạn M79 phóng ra và lực lượng vừa đánh và tiến tới không ngừng, nhanh như gió bão. Hai M113 bị trúng B40, nhưng còn khiển dụng vẫn bám sát giữ vững đội hình. Các chiến sĩ BB và Thiết kỵ bị thương được băng bó tạm thời ngồi trên xe vẫn ghìm chắc tay súng. Những Chi Đội Trưởng kinh nghiệm, Trưởng xa can đảm và những Tài xế khôn ngoan, lanh lẹ luồn lách tránh từng hòn đá lớn, gốc cây cao su lởm chởm. Những xạ thủ vững vàng nhả từng loạt đạn Đại liên chính xác. Các chiến sĩ BB vững tay súng khom người với tư thế xung phong hàng ngang với Thiết giáp.

Trên trời, 2 chiếc Trực thăng chở 3 vị Chỉ Huy bay lượn không ngừng, Những giọng nói phấn khởi, vui mừng và cổ võ 4 cánh quân đầy kích lệ truyền qua hệ thống loa truyền tin trên xe mở hết công xuất để mọi người cùng nghe.

Các cánh quân tấn công từ hướng Nam. Đó là Tiểu Đoàn 2/48 BB dày dạn trên chiến trường Miền Đông đất đỏ, và Tiểu Đoàn 332 ĐPQ khét tiếng vùng Bình Phước Long An ( Tiểu Đoàn Trưởng là Th/Tá VĐM. người anh ruột của tôi ). Cũng đồng loạt tiến lên không ngừng, sắp đánh tan một Tiểu Đoàn Cộng quân ngăn chặn lực lượng ta từ hướng Nam đồn Xà Bang.

Như những mũi tên thép, xé gió vút lên không ngừng. Chúng tôi đã thấy lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn hiên ngang tung bay trước gió của tiền đồn Xà Bang. Bây giờ là 3giờ chiều. Còn có mỗi một tiếng đồng hồ nữa và với khoảng cách là1km chúng tôi phải bắt tay được với Đại đội ĐPQ. Cộng quân biết chúng đã thất bại trước sức tấn công như vũ bão của các cánh quân QLVNCH. Chúng tăng cường pháo liên tục bằng súng cối 61ly và 82ly ( không có đại pháo và hỏa tiển 122ly ) vào các đội hình của ta để dể bề tháo chạy.

Thừa thắng xông lên, dốc toàn bộ hỏa lực cơ hữu, chúng tôi tấn công dồn dập vào phòng tuyến cuối cùng của chúng. Cũng là phòng tuyến đầu bao vây và tấn kích vào đồn trong 6 ngày qua. Hầu hết các cửa hầm của chúng hướng về phía đồn nên lực lượng chúng tôi đè bẹpvà thanh toán mục tiêu chót một cách nhanh gọn. Những quả B40 bay vút lên trời rồi rớt nổ sau lưng các xa đội vì sự hốt hoảng của các xạ thủ. Những tràng tiểu liên AK nổ gòn nhưng đạn bay thẳng lên bầu trời xanh ngắt.

Bây giờ ngồi viết và chợt nhìn xuống bàn chân trái vẫn in đậm nét của 2 trận chiến năm xưa. Lần thứ nhất bị thương nặng trên chiến trường Đồn Điền Mimôt Kampuchia, lần thứ 2 cũng bàn chân trái bị thương trong mặt trận nầy.( Sinh nghề tử nghiệp, bị thương vì xích M113 cán!.. trong lúc tài xế de lui để trách một chướng ngại, thì một quả đạn cối 82 ly nổ tung bên hông trái xe. Với sức ép vật tôi lộn nhào xuống đất, phía sau xe ).Và xui xẻo thay, lại có lần thứ ba cũng bàn chân này bị thương trên núi rừng Sơn La trùng điệp ( bị cây to lăn qua người ! )

Bàn chân sưng đau buốt, bụng thì đói, chỉ vài muổng cơm chiên nuốt vội từ sáng, miệng khô đắng, chỉ uống nước cầm hơi. Mặc kệ, miệng cứ điều động, thúc giục Đại Đội BB tùng thiết và các Chi Đội tiến lên thật nhanh và tràn ngập mục tiêu cuối cùng. Một mặt giữ liên lạc chặc chẽ và tiến quân nhịp nhàng hàng ngang với Tiều Đoàn BB bên cánh trái.

Tất cả các cánh quân hướng Bắc cũng như huớng Nam cùng nhau thanh toán mục tiêu chót. Và tiếp cận vòng hàng rào kẽm gai phòng thủ ngoài cùng của đồn lúc 3giờ 45 phút. Địch đã kinh hoàng tháo chạy để lại hàng chục cán binh bị thương và tử thương. Pháo địch cũng giảm dần và ngưng hẳn, vài loạt tiểu liên bắn vu vơ, tuyệt vọng khá xa trong vườn cao su ngút ngàn. Tôi điều các Chi Đội di chuyển bố trí phòng thủ trong các vườn café, cao su cùng với Bộ Binh chung quanh đồn.

Đúng 4giờ chiều, xe Chỉ Huy của tôi cùng các Tiểu Đoàn Trưởng có mặt trước cổng tiền đổn Xà Bang. Thế là đúng giờ hẹn của Tư Lệnh Chiến Trường.

Trên mặt mọi người dày lớp bụi đỏ xen kẻ những đốm tro trắng, đen bám đầy. Áo quần đã đổi màu: nền ô liu bệch đen, bệch đỏ rằng ri. Tất cả nét mặt thật vui tươi bỗng chùn xuống nhìn chăm chăm vào đồn.

Một cảnh tượng đau thương đầy cảm động hiện ra trước mắt, dù có con tim sắt đá cũng phải ngấn lệ. Những chiến sĩ can trường ĐPQ và những người vợ, tay bồng ,tay dắt những em bé tội nghiệp. Hầu hết họ đều bị thương nhiều nơi,với vết thương còn rướm máu mặc dù đã được băng bó tạm thời, kể cả bằng những mảnh áo, những chiếc khăn đủ màu sắc. Họ đã vui mừng đổ xô ra trước cổng đồn để chào đón đoàn quân giải tỏa. Câu hỏi của chúng tôi khi tiếp cận được họ sau 6 tiếng đồng hồ hành quân. Tại sao các chị bồng bế con nhỏ lên nơi tiền đồn heo hút, xa xôi hẻo lánh này làm gì để rồi bị đau thương như thế. Họ trả lời cho chúng tôi bằng giọng thật thà, chất phát đầy triều mến và xúc động: Chúng em “  Tưởng Đã Hòa Bình !”.

……“Những người chết và nghĩa trang quên lãng

“ Cỏ gai dày…tiếng ếch vọng đêm mưa

“ Ba tư năm chưa một lần tu bổ

“ Như oán thù chồng chất ở sau lưng

“ Hồn tử sĩ đâu đây theo tiếng gió

“ Mộ hoang tàn cỏ bít lối đi chung ”

(Trích “đôi ta” thơ Hồ Thanh Nhã)

Bên trong đồn lỗ chỗ  nhiều lỗ  đạn pháo kích bằng súng cối 82 ly và 61 ly của CQ rơi vương vãi trên mặt đất cằn khô làm mặt đất xám xịt. Xa xa, cây súng cối 81ly đứng cô đơn một mình.Trên các nóc hầm từng lớp bao cát bị pháo xé nát thảm hại.

Tất cả các cánh quân thi hành xong nhiệm vụ, có thể nói hoàn thành một sứ mệnh. Một sứ mệnh tuy nhỏ nhoi nhưng đầy ắp ý nghĩa của nó là Tình Đồng Đội và Tình Người. Những người có Trách Nhiệm- từ thứ 3, đi sau Tổ Quốc và Danh Dự- đưọc đội lên đầu từ khi khoác chiếc áo Lính vào người.Từ cấp hàng Binh đến Tướng Lĩnh ngày hôm nay đã thi hành xong một Trách Nhiệm. Vâng, chúng tôi đã mãn nguyện vì cứu thoát trên 200 con người từ chổ cô thế, tuyệt vọng đến chốn bình an.

Chỉ trong một ngày, nói đúng hơn, trong 6 tiếng đồng hồ. Lực lượng giải tỏa được xem như chiến thắng khá toàn vẹn. Nhưng sự chiến thắng đó lại nằm im lìm trong sồ sách, trong hồ sơ nội bộ được giấu kín như bưng của từng đơn vị. Cũng chẳng hề hà gì, chúng ta đã hoàn hành một nhiệm vụ của một quân nhân.

Chiến thắng nào không có đau thương nhỏ lệ ! Tr/s Duyên đã ra đi vĩnh viễn khi tuổi đời còn quá trẻ, Tr/s Danh bị thương nặng phải giã từ đời binh nghiệp ( chỉ chậm có 30 giây vì anh tài xế M113, sau lời nhắc của tôi có khẩu 75 ly không giật phía trước bên trái, nên xe TR/Sĩ Danh bị trúng đạn 75 ly).Tr/s Quản , một HSQ dày dạng chiến trường đã để lại nhiều máu và mồ hôi trên chiến trường ngút lửa.

“ Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ

Em nằm xõa tóc đợi chờ anh”

Những khóa sinh Trường Đồng Đế Nha Trang làm sao quên được 2 câu thơ trên! Phải, biết bao thiếu nữ đã “ Xõa tóc đợi chờ ” chờ đợi một chàng trai lao vào vòng khói lửa chiến chinh…biết bao giờ trở lại như Tr/s Duyên !

Sau trận chiến này, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của CQ từ Địa phương đến Trung ương la hét QLVNCH vi phạm Hiệp Định Balê. Ở Địa phương những tờ truyền đơn bay khắp trên những con đường làng. Tại Trung ương hệ thống truyền thanh ngày đêm ra rả tố cáo. Kể cả vài đài phát thanh ngoại quốc cũng hùa theo loan tin phía VNCH vi phạm. Tại trại Davis Tân Sơn Nhất cũng chẳng giải quyết được vấn đề, vì sự già miệng, già mồm của phe bên kia. Hệ thống Thông Tin, Tâm Lý Chiến trên thật tế VNCH thua rất xa bên CQ, từ Quốc nội cũng như Quốc ngoại, buồn thay !

Thế mà đã gần 40 năm rồi sao! Về lại Long Khánh, nắng bụi, mưa sình. Vùng phù nhiêu đất đỏ Miền Đông. Nơi riêng tôi và nhiều người mang đầy ắp những kỹ niệm năm nào. Vài lần đi ngang qua Ngã 3 Tân Phong, Long giao, Cẩm Mỹ – để thăm vài đồng đội năm xưa đã lập gia đình nơi hẻo lánh này – rồi Xà Bang , Bình Giã xuống Bà Rịa. Con lộ ngày xưa mang tên LTL2 đầy mìn bẩy và đe dọa, ngày nay là QL56. Chúng tôi hồi tưởng những tháng năm chinh chiến ngày nào, trong lòng dậy lên nổi buồn tủi, đắng cay. Nhất là đi ngang qua Bình Giã nhìn thấy chiếc cổng thật to lớn với hàng chữ nổi “ Nghĩa Trang Liệt Sĩ Bình Giã” và “ Tổ Quốc Ghi Công” bằng đồng bóng loáng phô trương trước mắt mọi người.

Phải cúi mặt ngậm ngùi nhỏ lệ, tim nhói đau đến rướm máu. Trên toàn lãnh thổ Miền Nam tìm đâu ra một Nghĩa Trang dành cho người Lính năm xưa. Tìm đâu ra 4 chữ “ Tổ Quốc Ghi Ơn” tựa như ngày nào. Giờ này các Anh ở đâu?.Xác thân các Anh, những người Lính QLVNCH hiện giờ nằm nơi đâu? Phải chăng trong những Nghĩa Địa xa xôi buồn thảm. Hay vẫn bị vùi lấp rãi rác đâu đó trên khắp mảnh đất quê hương Miền Nam, mà ngày nào các Anh đã Vì Nước Hy sinh Vì Dân Chiến Đấu. Và biết đến bao giờ chúng ta được đứng nghiêm trang chào kính trước 4 chữ Tổ Quốc Ghi Ơn các Anh trên những Đền Đài Tưởng Niệm tại đất nước mang tên:Việt Nam.

 Vũ Đình Lưu

http://hung-viet.org/p11a22475/cu-tuong-la-hoa-binh-binh-gia-xa-bang-sau-hiep-dinh-ba-le-1973#vote_anchor_container

 

 

” data-medium-file=”” data-large-file=”” class=”alignnone size-full wp-image-5561″ src=”https://bienxua.files.wordpress.com/2016/04/ho-tong-ham-dong-da-hq-07-photo-by-rod-allen.jpg?w=540″ alt=”Ho tong ham Dong Da HQ.07, photo by Rod Allen” width=”540″ height=”338″>

04 Hộ tống hạm MSF (Mine Sweeper Fleet) là:

HQ08 – Chi Lăng II
HQ09 – Kỳ Hòa
HQ10 – Nhựt Tảo
HQ11 – Chí Linh.

03 Hải vận hạm LSM (Landing Ship Medium) là:

HQ404 – Hương Giang
HQ405 – Tiền Giang
HQ406 – Hậu Giang.

03 Dương vận hạm LST (Landing Ship Tank) là:

HQ500 – Cam Ranh
HQ501 – Đà Nẵng
HQ502 – Thị Nại.

20 Tuần duyên hạm PGM (Patrol Gunboat) là:

HQ600 – Phú Dự
HQ601 – Tiên Mới
HQ602 – Minh Hòa
HQ603 – Kiến Vàng
HQ604 – Keo Ngựa
HQ605 – Kim Quy
HQ606 – May Rút
HQ607 – Nam Du
HQ608 – Hoa Lư
HQ609 – Tổ Yến
HQ610 – Định Hải
HQ611 – Trường Sa
HQ612 – Thái Bình
HQ613 – Thị Tứ
HQ614 – Song Tử
HQ615 – Tây Sa
HQ616 – Hoàng Sa
HQ617 – Phú Quý
HQ618 – Hòn Trọc
HQ619 – Thổ Châu.

tuan-duyen-ham-thai-binh-hq612

02 Hỏa Vận Hạm YOG là:

HQ471
HQ472.

05 Trợ chiến hạm LSSL là:

HQ227 – Lê Văn Bình
HQ228 – Đoàn Ngọc Tảng
HQ229 – Lưu Phú Thọ
HQ230 – Nguyễn Ngọc Long
HQ231 – Nguyễn Đức Bổng

Như vậy, vào cuối năm 1967, Hải Lực có tổng số chiến hạm là 64 chiếc.

3. Giai đoạn nhanh chóng bành trướng (1968-1975)

Đầu năm 1968, Việt Cộng mở cuộc Tổng Nổi Dậy, công kích trên toàn lãnh thổ VNCH; Hải Quân với quân số 30,000, kể cả 7,500 sĩ quan, không những bảo toàn được lực lượng đông đảo như vậy mà còn yểm trợ hữu hiệu cho các đơn vị bạn tái chiếm nhiều vị trí bị lọt vào tay địch trong những ngày Tết Mậu Thân.

Cũng trong năm này, 3 trung tâm huấn luyện được phân nhiệm rõ rệt: Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang đào tạo sĩ quan, Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh dành cho hạ sĩ quan và đoàn viên, Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc Sài Gòn trau dồi thêm kiến thức chuyên môn cho các cấp.

Đến năm 1969, để theo kịp chương trình “Việt Nam hóa chiến tranh” (Accelerated turnover to the Vietnamese = ACTOV), Bộ Tư Lệnh Hải Quân tổ chức Hành Quân Lưu Động Biển và Hành Quân Lưu Động Sông. Trong tổ chức Hành Quân Lưu Động Sông, 3 Lực lượng tác chiến trong sông được thành lập:

Lực lượng Thủy Bộ, tổ chức hành chánh (type) đóng tại Bình Thủy, khi trở thành Đặc Nhiệm (Task) gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 211.
Lực Lượng Tuần Thám, tổ chức hành chánh đóng tại Mỹ Tho, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 212.
Lực Lượng Trung Ương, tổ chức hành chánh đóng tại Đồng Tâm, khi trở thành Đặc Nhiệm gọi là Lực Lượng Đặc Nhiệm 214.

Tư lệnh Hải Quân vùng IV Sông Ngòi kiêm tư lệnh Hạm Đội Đặc Nhiệm 21 khi chỉ huy cả 3 lực lượng trên cùng 7 Giang Đoàn Xung Phong và các cơ sở tiếp vận trong vùng châu thổ [Sông] Cửu Long, quân số lên đến 10,500 người. Tư lệnh vùng III Sông Ngòi có 5 Giang đoàn Xung Phong cơ hữu, cũng được sự tăng phái của các lực lượng đặc nhiệm 211, 212 và 214. (15)

Hoàn tất chương trình ACTOV năm 1972, Hành Quân Lưu Động Biển đã nhận thêm 20 chiến hạm:

04 Dương Vận Hạm LST là:

HQ503 – Vũng Tàu
HQ504 – Qui Nhơn
HQ505 – Nha Trang
HQ800 – Mỹ Tho

02 Cơ Xưởng Hạm LST là:

HQ801 – Cần Thơ
HQ802 – Vĩnh Long

Co xuong ham Vinh Long HQ802..

01 Hộ Tống Hạm MSF là:

HQ13 – Hà Hồi

01 Hộ tống hạm PCE là:

HQ14 – Vạn Kiếp.

03 Hỏa Vận Hạm YOG là:

HQ472
HQ473
HQ475.

02 Khu trục hạm tiền thám DER (Destroyer Radar Picket Escort) là:

HQ1 – Trần Hưng Đạo
HQ4 – Trần Khánh Dư

07 Tuần dương hạm WHEC (White High Endurance Cutter) là:

HQ2 – Trần Quang Khải
HQ3 – Trần Nhật Duật
HQ5 – Trần Bình Trọng
HQ6 – Trần Quốc Toản
HQ15 – Phạm Ngũ Lão
HQ16 – Lý Thường Kiệt
HQ17 – Ngô Quyền

05 Hải đội Duyên Phòng được chuyển giao 26 Tuần duyên đỉnh WPB (Coastal Patrol Boat) đánh số từ HQ700 đến HQ725 và HQ107 Duyên tốc đỉnh PCF (Patrol Craft Fast).

Cuối năm 1972, quân số Hải Quân VNCH tăng thành 41,000 người. Theo Jane’s Fighting Ships 1972-1973, HQ/Đại tá John More xếp sự lớn mạnh của lực lượng Hải Quân VNCH vào hàng thứ 9 trong các cường quốc Hải Quân trên thế giới.

Đầu năm 1975, lực lượng Hải Quân VNCH gồm:

05 vùng Duyên hải với 133 chiến đỉnh và 500 ghe đủ loại
02 vùng Sông ngòi và 03 lực lượng tác chiến trong sông với trên 950 chiến đỉnh đủ loại
Hạm đội Biển với 84 chiến hạm
Quân số: 43,000 người.

Giữa Tháng Tư năm 1975, ngay sau khi trở lại nhậm chức tư lệnh Hải Quân lần thứ hai, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang chỉ định HQ/Đại Tá Lê Hữu Dõng thành lập cấp tốc Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 với sự phối hợp của các Giang đoàn 22 Xung Phong, Giang đoàn 42 Ngăn Chặn và Giang Đoàn 59 Tuần Thám gồm khoảng 50 chiến đỉnh để giải tỏa áp lực địch trong phạm vi trách nhiệm của Hải Quân.

Chú thích:

(1) Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài Gòn thư xã 1962. Chương 7: Nước Pháp lấy đất Nam Kỳ (từ trang 480 đến trang 492).

Nguyễn Hợp Minh. Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam. Melbourne 2000. Tập 6, trang 285 288.

Đúc kết tóm lược: Sau khi ký hiệp ước Thiên Tân ngày 27 Tháng Sáu năm 1858 với Trung Hoa, Chính Phủ thực dân Pháp chỉ định Đề đốc Rigault de Genouilly điều động 13 chiến hạm Pháp và 01 chiến hạm Tây Ban Nha do HQ/Đại tá Lanzarote làm Hạm trưởng, kéo sang xâm lược Việt Nam. De Genouilly được phong chức Phó Thủy sư Đô đốc, Tổng chỉ huy Lực lượng Thực dân Viễn chinh tại nước ta từ ngày 1 Tháng Chín năm 1858 đến ngày 1 Tháng Mười Một năm 1859.

(2) Bộ Tổng tham mưu phòng 5. Quân sử tập 4: Quân lực hình thành 1946-1955. Sài Gòn 1972.

(3) Đoàn Thêm. Hai mươi năm qua, việc từng ngày. Sài Gòn 1966, trang 44-45.

(4) Đoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 52.

(5) Đoàn Thêm ghi nhận trang 82, tài liệu đã dẫn: Từ nay, quân đội VN thuộc hẳn quyền Quốc Trưởng Bảo Đại, nhưng có cơ quan liên lạc với quân đội Liên Hiệp Pháp.

Cũng ngày hôm đó, Thống Tướng 5 sao Jean de Lattre de Tassigny, được Chính Phủ Pháp cử sang làm Tổng Tư Lệnh Quân Đội kiêm Cao Ủy Pháp tại Đông Dương.

(6) Trung Tướng Tôn Thất Đính. Hồi ký 20 năm binh nghiệp. CA Chánh đạo 1988, trang 29-30.

Đoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 44, 57, 69 và 112.

Đúc kết tóm lược: Ông Phan Văn Giáo, một nhân vật thân tín của Cựu Hoàng Bảo Đại, tuy không tốt nghiệp một trường võ bị nào nhưng có khả năng rất cao về tổ chức quân đội, giúp Quân Đội VNCH sớm hình thành. Qua nhiều chính phủ từ Nguyễn Văn Xuân đến Nguyễn Văn Tâm, ông đã được giao phó nhiều chức vụ thật quan trọng:

Ngày 2 Tháng Sáu năm 1948: Quốc vụ khanh, tổng trưởng kiêm tổng trấn Trung Phần, đặc trách thành lập Việt Binh Đoàn.

Ngày 3 Tháng Bảy năm 1949: Thủ hiến Trung Việt bành trướng Việt Binh Đoàn thành Quân Đội QGVN.

Ngày 4 Tháng Tư năm 1950: Tổng thanh tra Quân Đội QGVN với cấp bậc trung tướng giả định (être assimilé au grade de Général), trực thuộc quốc trưởng (Sắc lệnh số 31/QT).

Ngày 25 Tháng Sáu năm 1952: Phó thủ tướng kiêm tổng trưởng thông tin.

(7) Đoàn Thêm. Tài liệu đã dẫn, trang 86.

(8) Hải Đoàn Xung Phong, Hải Quân Pháp gọi là DINASSAUT (Division Naval d’assault), xin xem phần quan niệm về tổ chức Dinassault trong tập này, trang… Lúc Pháp chuyển giao, các Hải đoàn chưa có số nên tạm thời lấy tên địa phương đồn trú. Hải Đoàn Xung Phong Cần Thơ và Vĩnh Long, mỗi đơn vị nhận:

01 Giang đỉnh chỉ huy (Commandement Monitor LCM6)

02 Trung vận đỉnh LCM6 (Landing craft Mechanized)

02 Tiểu vận đỉnh LCVP (Landingcraft Vehicle and Personnel).

(9) HQ/Trung Tá Vũ Hữu San. Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. Tài liệu chuyển cho Hội Đồng Hải Sử 2000, trang 4-6.

(10) Karnow, Stanley. Viuetnam a story. Viking London 1991, trang 222 ghi lại nhận định của Lyndon B. Johnson như sau: “President Diem is the Churchill of the decade… in the vanguard of those leaders who stand for freedom…”

(11) Karnow, Stanley. Tài liệu đã dẫn, nhận xét về Tổng Thống Diệm: “… into South Vietnam’s military and Police machinery, leaving only small fraction for economie development; and he was less interested in building an army to fight Viet Cong guerrillas than in forming conventional units that would protect him against his rival in Saigon…” Karnow cựu thông tín viên cho các tờ Times, Life và The Washington Post kiêm chủ nhiệm The New Republic về vấn đề Đông Nam Á, nổi tiếng qua quyển “Mao and China” năm 1972 vì những sự thật được phơi bày trong đó. Nhưng đến quyển Vietnam a story xuất bản năm 1983, ông vấp phải nhiều sai sót nghiêm trọng, có lẽ vì không được ở Việt Nam lâu bằng ở Trung Cộng. Điển hình là ông không biết Liên Binh Phòng Vệ dinh Tổng Thống có mấy Tiểu đoàn và Lực lượng Đặc biệt của Trung tá Lê Quang Tung có bao nhiêu đại đội thuộc Cần Lao? Ông cũng không biết đến quốc sách 7 ngàn ấp chiến lược với 8 triệu dân quân đang ngày đêm trực diện chiến đấu với cộng sản tại nông thôn hẻo lánh. Thành thử ông nhận định hàm hồ như vậy cũng phải!

(12) Nghi phạm ám sát HQ/Đại Tá Hồ Tấn Quyền (khóa 1 Sĩ quan Nha Trang) là HQ/Thiếu Tá Trương Ngọc Lực (khóa 2 Sĩ quan Nha Trang). Các Tướng lãnh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963 đã sai lầm trong quyết định dùng một sĩ quan đàn em sát hại sĩ quan đàn anh mà không đếm xỉa gì đến truyền thống quân chủng Hải Quân. Ngay khi nhận thấy hậu quả nghiêm trọng về cái chết của tư lệnh Hải Quân. Hội Đồng Tướng Lãnh vội vã thăng cấp trung tá Bộ Binh cho Lực rồi đẩy ra nước ngoài để tránh búa rìu nguyền rủa của cả Hải Quân vào thời đó.

(13) Tham chiếu quyết định của Hội Đồng Tu Chính Hải Qui do Phó Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh làm chủ tịch, BTL/HQ/P5 ban hành một tài liệu căn bản về việc định danh (đặt tên) cho các chiến hạm và chiến đỉnh vào Tháng Sáu năm 1971. Tên các chiến đỉnh trong tập này được viết theo đúng tinh thần sự vụ văn thư đã phổ biến. Xin xem chương trình ACTOV trong tập này, trang…

(14) Trên thế giới, các quốc gia văn hiến chọn ngày truyền thống Quân Đội (Ngày Quân Lực) là ngày đề cao giá trị tinh thần bất khuất, anh dũng hy sinh và tình đoàn kết chiến đấu vì mục tiêu cao cả của người chiến binh mình. Úc Đại Lợi (Australia) chẳng hạn, Lưỡng Viện Quốc Hội Úc đã chọn ngày 25 Tháng Tư hằng năm làm ngày ANZAC. Cái độc đáo của ngày Quân Lực Úc là ngày bại trận tổn thất đến 5,000 chiến binh nhưng lại nói lên tinh thần keo sơn đoàn kết, hào hùng chiến đấu của Liên Quân Úc và Tân Tây Lan trên chiến trường quá bất lợi Gallipoli (Thổ Nhĩ Kỳ) vào ngày 25 Tháng Tư năm 1915. Còn ngày Quân Lực 19 Tháng Sáu năm 1965 của nền Đệ II VNCH chỉ là ngày mà Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đồng ý với nhau mà thôi, không làm đảo chánh nữa vì đã loại bỏ chính quyền dân sự Phan Khắc Sửu (Tổng thống) và Phan Huy Quát (thủ tướng) rồi. Ngày truyền thống của Quân Lực VNCH mà chỉ có hai người quyết định giống như trong thời kỳ quân chủ chuyên chế. Thật hiếm thấy thay!

(15) Vùng III Sông Ngòi có 5 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc:

Giang Đoàn 22 Xung Phong và Giang Đoàn 28 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Nhà Bè.

Giang Đoàn 24 Xung Phong và Giang Đoàn 30 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn trú đóng tại Long Bình.

Giang Đoàn 27 Xung Phong, tăng phái thường trực cho Đặc khu Rừng Sát. Trú đóng tại Nhà Bè.

Vùng IV Sông Ngòi có 7 Giang Đoàn Xung phong trực thuộc:

Giang Đoàn 21 Xung Phong và Giang Đoàn 33 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Mỹ Tho.

Giang Đoàn 23 Xung Phong và Giang Đoàn 31 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Vĩnh Long.

Giang Đoàn 25 Xung Phong và Giang Đoàn 29 Xung Phong hợp thành Liên Giang Đoàn đồn trú tại Cần Thơ.

https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb-lich-su-quan-chung-hai-quan-vnch/

***

TÀI LIỆU CHỌN LỌC THAM KHẢO

Tập này không có phần phụ đính danh mục (Index) để đồng nhất và dễ dàng tra cứu, tên các tác giả nước ngoài sẽ được ghi HỌ trước rồi mới đến TÊN giống như tên các tác giả Việt Nam, trong phần ghi chú.

  • Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim. Sài Gòn Thư xã 1962.
  • Lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam – Nguyễn Hợp Minh. Melbourne 2000, tập 6.
  • Quân sử – Bộ TTM/Phòng 5 1972, tập 4 quân lực hình thành Sài Gòn 1972.
  • Hai Mươi Năm Qua, việc Từng Ngày 1945-1964 – Đoàn Thêm. Sài Gòn 1966.
  • Tôn Ngô binh pháp – Ngô Văn Triệu. Sài Gòn 1973.
  • Trấn Hưng Đạo binh thư yếu lược – Nguyễn Ngọc Tỉnh. Paris 1988.
  • Hoạt động trong sông của Hải Quân VNCH. Phó Đề đốc Đặng Cao Thăng, bài viết cho Hải sử 2000 (HS 2000)
  • Giang Đoàn Xung Phong 22, 25 và 29. HQ/Đại Tá Lê Hữu Dõng, bài viết cho HS 2000
  • Lược sử tổ chức Hải Quân VNCH. HQ/Trung Tá Vũ Hữu San, bài viết cho HS 2000
  • Giang Đoàn 26 Xung Phong. HQ/Trung Tá Trần Đỗ Cẩm, bài viết cho HS 2000.
  • Trận Ba Rài. HQ/Trung Tá Phan Lạc Tiếp, bài viết cho HS 2000.
  • Trung Đoàn U Minh Hạ. Độc Hành. Việt Luận số 297 Sydney 5/1988.
  • Hồi ký 20 năm binh nghiệp. Trung tướng Tôn Thất Đính. CA Chánh đạo 1988.
  • Cuộc chiến dang dở. Tướng Trần Văn Nhựt. CA 2003.
  • Việt Nam Máu Lửa. Nghiêm Kế Tổ. Mai Lĩnh Sài Gòn 1954.
  • Kinh nghiệm chiến trường chống đặc công thủy. Ban Hải sử. BTL/HQ/P5 Sài Gòn 1970.
  • 1945 Lạc đường vào lịch sử. Nguyễn Manh Côn. Giao điểm Sài Gòn 1965.
  • Đường mòn trên biển. Nguyễn Tư Đương. Hà Nội 2002.
  • The Ford Foundation Fellowship USA and France – Cao Thế Dung 1976.
  • Reassessing the ARVN – Lewis Sorley. VN Magazine April 2003.
  • Nation in arms – Greg Lockhart. Australia 1989.
  • The Vietnam war for dummies – Ronald B. Frankum, Jr and Stephen F. Maxner. Wiley Publishing Newyork 2003.
  • Vietnam war almanac – Harrys Summer Jr. USA 1982.
  • Vietnam a history – Stanley Karnow. Viking Newyork 1983.
  • Encyclopedia of the Vietnam war – Spencer C. Tucker. London 1999.
  • Vietnam: A visual encyclopedia – Philip Gutzman. London 2002.
  • The brown water navy – Victor Croizat. Blandford Press UK 1984.
  • The naval war in Vietnam – Anthony Preston. USA 1985.
  • Brown water, Black berets – Thomas J. Cutler. USA 1988.
  • Dictionary of the Vietnam war by Marc Leepson with Hanaford. USA 1996.
  • Victory at any cost – Cecil B. Currey. Great Britain 1997.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn