Những Vần Thơ Bằng Văn Xuôi - Nguyễn Nhơn

Thứ Bảy, 15 Tháng Chín 20183:45 CH(Xem: 6093)
Những Vần Thơ Bằng Văn Xuôi - Nguyễn Nhơn

305q

( Theo truyền thống Les Petits Poèmes en Prose - Baudelaire )

Bài Thơ bằng Văn xuôi

TIẾNG HÁT DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN

Cảnh và Tình của người tù trên dất Bắc

Chiều xuống Quê nhà đâu đó tá

Trên sông khói sóng não lòng ai “

(Hoàng Hạc Lâu )

Trong ánh nắng vàng le lói của buổi sáng mùa Đông lặng lẽ, tiếng hát run rẩy cất lên:

Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc

Đường ta đi qua Dốc Phục Linh

Đường ta đi đường nghĩa, đường tình

Đường đi hạnh phúc chúng mình đắp xây

( Thiếu Tá Đạt - Tiểu Khu Bình Tuy )

Dưới chân Rặng Trường Sơn đoàn tù rách rưới, tả tơi, lầm lũi đào đấp theo tiếng hát ẻo lả, ủ ê. Mà nào có phải là tiếng hát, chỉ là mấy câu “nói lối” hững hờ của người tù tên Đạt, nguyên sĩ quan quân báo Tiểu Khu Bình Tuy. Anh Đạt lúc nầy yếu đuối lắm rồi mà phải tuân theo sự cưỡng ép của lũ tù gọi là Thường Trực Thi Đua, tức là lũ tù phản tỉnh lập công, mà phải gắng gượng, xướng ca. Mà mấy chữ cuối cũng không phải là “chúng mình đắp xây”. Chính ra là “chúng mình Thi đua”, nên người viết tự ý sửa đi cho nó bớt mùi xã nghĩa, làm hỏng đi vẻ đẹp của Sông Núi Trường Sơn.

SUỐI A MAI

A Mai là tiếng sắc tộc, gã tù chẳng hiểu nghĩa là gì mà cũng không ai bảo cho gã biết, bèn tự giải thích liều là suối mang tên người con gái đẹp như đóa hoa mai: Suối Nàng Mai. Cũng giống như tính khí thất thường của người đẹp, dòng A Mai thay đổi theo mùa. Mùa khô hạn, nàng thu hình thành một dòng suối nhỏ, nước trong vắt, dịu dàng, róc rách chảy về xuôi. Mùa mưa lũ, nàng dâng lên tràn ngập bãi bờ thành dòng sông rộng, ào ạt cuốn trôi. Gặp nơi ghềnh đá chắn ngang, sóng vỗ ghềnh, bọt tung trắng xóa. Một buổi trưa hè đổ lửa vừa buông cuốc ngồi bệt nơi ghềnh đá ven bờ, nhìn về phía thượng nguồn, một chiếc bè tre phăng phăng lướt xuôi dòng. Trước mủi bè, một em bé người sắc tộc đứng dạng chân, tay hoành ngang ngọn sào tre, trông lẫm liệt khác nào Trương Phi hoành xà mâu, trấn giữ cầu Trường Bản. Chiếc bè tre cơ hồ lao vào ghềnh đá, vậy mà phía sau người cha thản nhiên ngồi. Kịp khi mủi bè sắp chạm vào ghềnh đá rồi nương theo sức bật của dòng nước lùi ra, đứa bé nhẹ nhàng chọc chiếc sào tre vào vách đá. Chiếc bè liền quay quắt, lướt xuôi dòng. Cảnh trí trông còn đẹp hơn cảnh Gable-Monroe vượt “Dòng Sông Không Bao Giờ Trở Lại” trên phim ảnh. Gã tù vốn gốc dân Xứ Thủ (Thủ Dầu Một – Bình Dương), thuở học trò, mỗi khi Hè đến, vẫn bơi lội dọc ngang trên Dòng sông Thủ. Vậy mà có lần gã suýt vùi thân nơi Dòng A Mai xinh đẹp mà cuốn hút đó. Buổi chiều, sau một ngày lặn lội đường xa, cặp tre già nặng trĩu vai gầy. Vừa về tới bờ A Mai, gã tù vất phịch bó tre, ngồi thở dốc. Rồi, thay vì đợi các bạn tù kết bè dã chiến, vượt suối an toàn, gã cởi quần áo, lột dép cầm tay, một mình lội đứng qua dòng. Có ngờ đâu lúc nầy tuổi gã đã ngoài bốn mươi lại thêm bịnh đói triền miên, sức lực đã mỏi mòn. Cho nên mới ra tới giữa dòng, gã đà kiệt sức. Khốn nỗi, nếu buông quần áo, nhất là đôi dép độc nhất ra để rảnh tay bơi lội thì những ngày dài sắp tới, khi vượt rừng, băng núi, gai gốc, đá tai mèo thì đôi chân trần liệu sẽ ra sao? Cho nên gã đành đánh liều với số mạng, cố gắng đến đâu hay đến đó. May sao vừa lúc ấy, chiếc bè phía sau vừa lao tới, gã vươn tay bám chặt vật cứu tinh. Vậy là thoát nạn.

Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc

BẾN NGỌC

Vượt rừng núi Lào Cai một đêm Hè mưa rơi tầm tã, xuyên quaThị Xã Vĩnh Yên, đổ  xuống bến đò Ấm Thượng. Chiếc tàu sắt men theo sông nhánh, đưa đoàn tù Miền Nam đổ bộ lên Bến Ngọc vừa lúc chiều buông. Cảnh chiều tà trên bến vắng thật là hiu quạnh. Khói cơm chiều nhà ai vờn lửng lơ trên mái rạ. Gã tù ngẫn ngơ, mường tượng trong tâm tưởng tiếng hát biệt ly sầu:

Bến ấy ngày xưa người đi

Vấn vương, biệt ly …

Đàng trước mặt, nẻo mòn quanh co, mất hút trong cảnh rừng núi tăm tối, mịt mù. Đàng sau lưng, dòng sông lặng lẽ, lững lờ trôi. Lòng người tù khoắc khoải, rồi đêm nay biết sẽ
về đâu? Vì ấn tượng ban đầu ấy mà về sau, mỗi lần trẩy qua Bến Ngọc gã tù vẫn thấy lòng buồn man mác:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ

Mà cảnh ấy có gì vui? Trên bến vắng, núi rừng Trường Sơn lặng ngắt. Dưới bến sông chỉ độc chiếc thuyền con đơn côi, cắm sào đợi khách. Không gian vắng lặng như tờ.
Vậy tại sao bến ấy có tên đẹp đẻ là Bến Ngọc? Phải chăng vào thưở yên bình xưa cũ, khi lòng người còn thanh thản, chưa nặng trĩu lụy phiền, một đêm trăng sáng, ánh trăng chiếu giải trên bến vắng. Dòng sông gợn sóng lăn tăn, phản chiếu ánh trăng thanh,tỏa sáng lấp lánh trông như ngọc. Vì vậy mới đặt tên là Bến Ngọc chăng? Rời Bến Ngọc một quãng đường thì đã tới chân Dốc Phục Linh.

DỐC PHỤC LINH

Khen ai khéo đặt tên Dốc Phục Linh, bởi vì mỗi lần qua là mỗi lần đờ đẫn, chỉ vượt qua rồi mới lấy lại thần hồn. Ngày đó, toàn Trại Tân Lập, kể cả Phân trại K7 giam tù “biệt kích” cũ của Miền Nam, đều kéo ra Bến Ngọc để vận chuyển những gì còn lại của xác Trại Số 1, Lào Cai, bị Trung Cộng tràn qua biên giới đánh sập. Lần đó, gã cùng một bạn tù khiêng một bó cột kèo nặng trĩu. Gã bắt đầu vượt Dốc Phục Linh vào lúc trưa đứng bóng. Trời nắng chang chang, không khí tan loãng, nhẹ tênh, mặc cho gã phì phò hít thở mà không hớp được bao nhiêu dưỡng khí. Dốc thì dựng đứng, gánh nặng oằn vai, từng giọt mồ hôi chảy vào mắt cay xè, gã dấn bước trèo lên một cách vô hồn. Chỉ khi được lịnh nghỉ, gã định thần nhìn lại mới hay mình đang đứng trên đỉnh dốc. Nhìn quanh tìm kiếm, gã không thấy nơi nào có đủ bóng râm tránh nắng. Những cụm tre thưa, những thân cây còm cỏi làm sao tỏa được bóng râm mát mẻ? Gã bật ra tiếng chửi thề khi bỗng nhiên nhớ lại mấy câu thơ tiền chiến chết tiệt của văn nô Tố Hũu:

Tôi từ Vĩnh Yên lên

Anh từ Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng Đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi

Bận lên đã vậy, bận xuống cũng không phải nhẹ nhàng, phải ra sức kềm lại sức nặng từ phía sau đẩy tới, có thể xô ngả xuống hố sâu bên vệ đường. Xuống hết dốc một quãng thì bắt đâu vào xóm. Đường tuy bằng phẳng mà gã tù vì mệt mỏi nên vẫn bước lặt lè. Phía trước mặt đi ngược lại, chị dân làng áo quần lếch thếch, gánh nặng oằn vai. Vậy mà miệng không ngớt kêu thương, “Tội nghiệp các Bác quá!” Mà nào ai biết ai tội nghiệp hơn ai? Lũ tù kia chiều nay còn có chén “sắn dui” nho nhỏ tạm qua cơn đói khát. Còn Chị? Chiều nay biết chị có mang về được chút khoai, sắn cho bầy con nhỏ để chúng được no lòng? Vậy mới biết, giữa những người cùng khốn, tình yêu thương vẫn ấp ủ trong lòng.

Ngày nay, nơi xứ người, gã cựu tù vẫn mơ màng. Một mai khi nghiệp “Ác Cộng” đã được giải trừ, gã sẽ về thăm lại chốn tù đày thưở nọ. Để có dịp ngắm nhìn Bến Ngọc dưới trăng thanh, lấp lánh khoe ánh ngọc. Để buổi chiều tà trên đỉnh Dốc Phục Linh, ngồi lặng ngắm bầy chim sãi cánh tìm về tổ ấm. Để đắm mình trong Dòng A Mai trong vắt, rồi nửa đêm thao thức, vẳng bên tai xào xạt, sóng bổ ghềnh.

Nguyễn Nhơn

Diễn Đàn Facebook

Thơ tân hình thức

Tiếng Hát Dưới Chân Rặng Trường Sơn


TIẾNG
HÁT DƯỚI CHÂN RẶNG TRƯỜNG SƠN

Cảnh
và Tình của người tù trên dất Bắc

Trong ánh nắng vàng le lói của
buổi sáng mùa Đông lặng lẽ, tiếng hát run rẩy cất
lên:

Suối A Mai
chảy dài ra Bến Ngọc

Đường ta đi qua Dốc Phục Linh

Đường ta đi đường nghĩa, đường
tình

Đường đi hạnh phúc chúng mình đắp xây

Dưới
chân Rặng Trường Sơn đoàn tù rách rưới, tả tơi, lầm
lũi đào đấp theo tiếng hát ẻo lả, ủ ê. Mà nào có
phải là tiếng hát, chỉ là mấy câu "nói lối"
hững hờ của người tù tên Đạt, nguyên sĩ quan quân
báo Tiểu Khu Bình Tuy. Anh Đạt lúc nầy yếu đuối lắm
rồi mà phải theo sự cưỡng ép của lũ tù gọi là
Thường Trực Thi Đua, tức là lũ tù phản tỉnh lập
công, mà phải gắng gượng, xướng ca. Mà mấy chữ cuối
cũng không phải là "chúng mình đắp xây". Chính
ra là "chúng mình Thi đua", nên người viết tự ý
sửa đi cho nó bớt mùi xã nghĩa, làm hỏng đi vẻ đẹp
của Sông Núi Trường
Sơn.


SUỐI A
MAI

A Mai là tiếng sắc tộc, gã
tù chẳng hiểu nghĩa là gì mà cũng không ai bảo cho gã
biết, bèn tự giải thích liều là suối mang tên người
con gái đẹp như đóa hoa mai: Suối Nàng Mai. Cũng giống
như tính khí thất thường của người đẹp, dòng A Mai
thay đổi theo mùa. Mùa khô hạn, nàng thu hình thành một
dòng suối nhỏ, nước trong vắt, dịu dàng, róc rách chảy
về xuôi. Mùa mưa lũ, nàng dâng lên tràn ngập bãi bờ
thành dòng sông rộng, ào ạt cuốn trôi. Gặp nơi ghềnh
đá chắn ngang, sóng vỗ ghềnh, bọt tung trắng xóa. Một
buổi trưa hè đổ lửa vừa buông cuốc ngồi bệt nơi
ghềnh đá ven bờ, nhìn về phía thượng nguồn, một
chiếc bè tre phăng phăng lướt xuôi dòng. Trước mủi bè,
một em bé người sắc tộc đứng dạng chân, tay hoành
ngang ngọn sào tre, trông lẫm liệt khác nào Trương Phi
hoành xà mâu, trấn giữ cầu Trường Bản. Chiếc bè tre
cơ hồ lao vào ghềnh đá, vậy mà phía sau người cha thản
nhiên ngồi. Kịp khi mủi bè sắp chạm vào ghềnh đá rồi
nương theo sức bật của dòng nước lùi ra, đứa bé nhẹ
nhàng chọc chiếc sào tre vào vách đá. Chiếc bè liền
quay quắt, lướt xuôi dòng. Cảnh trí trông còn đẹp hơn
cảnh Gable-Monroe vượt "Dòng Sông Không Bao Giờ Trở
Lại" trên phim ảnh. Gã tù vốn gốc dân Xứ Thủ
(Thủ Dầu Một - Bình Dương), thuở học trò, mỗi khi
Hè đến, vẫn bơi lội dọc ngang trên Dòng sông Thủ.
Vậy mà có lần gã suýt vùi thân nơi Dòng A Mai xinh đẹp
mà cuốn hút đó. Buổi chiều, sau một ngày lặn
lội đường xa, cặp tre già nặng trĩu vai gầy. Vừa
về tới bờ A Mai, gã tù vất phịch bó tre, ngồi thở
dốc. Rồi, thay vì đợi các bạn tù kết bè dã
chiến, vượt suối an toàn, gã cởi quần áo, lột
dép cầm tay, một mình lội đứng qua dòng. Có ngờ đâu
lúc nầy tuổi gã đã ngoài bốn mươi lại thêm
bịnh đói triền miên, sức lực đã
mỏi mòn. Cho nên mới ra tới giữa dòng, gã đà kiệt
sức. Khốn nỗi, nếu buông quần áo, nhất là đôi
dép độc nhất ra để rảnh tay bơi lội thì
những ngày dài sắp tới, khi vượt rừng, băng núi, gai
gốc, đá tai mèo thì đôi chân trần liệu sẽ ra
sao? Cho nên gã đành đánh liều với số mạng,
cố gắng đến đâu hay đến đó. May sao vừa
lúc ấy, chiếc bè phía sau vừa lao tới, gã vươn tay
bám chặt vật cứu tinh. Vậy là thoát nạn.


Suối A Mai chảy dài ra Bến Ngọc
...

BẾN NGỌC

Vượt
rừng núi Lào Cai một đêm Hè mưa rơi tầm tã, xuyên qua
Thị Xã Vĩnh Yên, đổ xuống bến đò Ấm Thượng. Chiếc
tàu sắt men theo sông nhánh, đưa đoàn tù Miền Nam đổ
bộ lên Bến Ngọc vừa lúc chiều buông. Cảnh chiều tà
trên bến vắng thật là hiu quạnh. Khói cơm chiều nhà ai
vờn lửng lơ trên mái rạ. Gã tù ngẫn ngơ, mường tượng
trong tâm tưởng tiếng hát biệt ly sầu:

Bến
ấy ngày xưa người đi


Vấn vương, biệt ly ...

Đàngtrước mặt, nẻo mòn quanh co, mất hút trong cảnh rừng
núi tăm tối, mịt mù. Đàng sau lưng, dòng sông lặng lẽ, lững
lờ trôi. Lòng người tù khoắc khoải, rồi đêm nay biết sẽ
về đâu? Vì ấn tượng ban đầu ấy mà về sau, mỗi lần
trẩy qua Bến Ngọc gã tù vẫn thấy lòng buồn man mác:

Cảnh nàocảnh chẳng đeo sầu

Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ

Mà cảnh ấy có gì vui? Trên bến vắng, núi rừng Trường Sơn lặng
ngắt. Dưới bến sông chỉ độc chiếc thuyền con đơn
côi, cắm sào đợi khách. Không gian vắng lặng như tờ.
Vậy tại sao bến ấy có tên đẹp đẻ là Bến Ngọc?
Phải chăng vào thưở yên bình xưa cũ, khi lòng người
còn thanh thản, chưa nặng trĩu lụy phiền, một đêm
trăng sáng, ánh trăng chiếu giải trên bến vắng. Dòng
sông gợn sóng lăn tăn, phản chiếu ánh trăng thanh,
tỏa sáng lấp lánh trông như ngọc. Vì vậy mới đặt
tên là Bến Ngọc chăng? Rời Bến Ngọc một quãng đường
thì đã tới chân Dốc Phục Linh.

DỐC PHỤC LINH

Khen ai khéo đặt tên Dốc Phục Linh, bởi vì mỗi lần qua là
mỗi lần đờ đẫn, chỉ vượt qua rồi mới lấy lại thần hồn.
Ngày đó, toàn Trại Tân Lập, kể cả Phân trại K6 giam tù "biệt kích" cũ
của Miền Nam, đều kéo ra Bến Ngọc để vận chuyển những gì còn lại của
xác Trại Số 1, Lào Cai, bị Trung Cộng tràn qua biên giới
đánh sập. Lần đó, gã cùng một bạn tù khiêng một bó
cột kèo nặng trĩu. Gã bắt đầu vượt Dốc Phục Linh
vào lúc trưa đứng bóng. Trời nắng chang chang, không khí
tan loãng, nhẹ tênh, mặc cho gã phì phò hít thở mà không
hớp được bao nhiêu dưỡng khí. Dốc thì dựng đứng,
gánh nặng oằn vai, từng giọt mồ hôi chảy vào mắt cay
xè, gã dấn bước trèo lên một cách vô hồn. Chỉ khi
được lịnh nghỉ, gã định thần nhìn lại mới hay mình
đang đứng trên đỉnh dốc. Nhìn quanh tìm kiếm, gã không
thấy nơi nào có đủ bóng râm tránh nắng. Những cụm
tre thưa, những thân cây còm cỏi làm sao tỏa được bóng
râm mát mẻ? Gã bật ra tiếng chửi thề khi bỗng nhiên
nhớ lại mấy câu thơ tiền chiến chết tiệt của văn
nô Tố Hũu:


Tôi từ Vĩnh Yên lên

Anh từ Sơn Cốt xuống

Gặp nhau lưng Đèo Nhe

Bóng tre trùm mát rượi

Bận lên đã vậy, bận xuống cũng không phải nhẹ nhàng, phải ra
sức kềm lại sức nặng từ phía sau đẩy tới, có thể
xô ngả xuống hố sâu bên vệ đường. Xuống hết dốc
một quãng thì bắt đâu vào xóm. Đường tuy bằng phẳng
mà gã tù vì mệt mỏi nên vẫn bước lặt lè. Phía trước
mặt đi ngược lại, chị dân làng áo quần lếch thếch,
gánh nặng oằn vai. Vậy mà miệng không ngớt kêu thương,
"Tội nghiệp các Bác quá!" Mà nào ai biết ai tội
nghiệp hơn ai? Lũ tù kia chiều nay còn có chén "sắn
dui" nho nhỏ tạm qua cơn đói khát. Còn Chị? Chiều
nay biết chị có mang về được chút khoai, sắn cho bầy
con nhỏ để chúng được no lòng? Vậy mới biết, giữa
những người cùng khốn, tình yêu thương vẫn ấp ủ
trong lòng.

Ngày nay, nơi xứ người, gã cựu tù vẫn
mơ màng. Một mai khi nghiệp "Ác Cộng" đã được
giải trừ, gã sẽ về thăm lại chốn tù đày thưở nọ.
Để có dịp ngắm nhìn Bến Ngọc dưới trăng thanh, lấp
lánh khoe ánh ngọc. Để buổi chiều tà trên đỉnh Dốc
Phục Linh, ngồi lặng ngắm bầy chim sãi cánh tìm về tổ
ấm. Để đắm mình trong Dòng A Mai trong vắt, rồi nửa
đêm thao thức, vẳng bên tai xào xạt, sóng bổ ghềnh.

Nguyễn Nhơn
8/95

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn