Thông tín viên của Libération tại Kiev đưa ra minh chứng rõ ràng là hôm 23/04, khi ông Trump ngồi vào phòng Bầu Dục để họp báo về Trung Quốc và Ukraina. Cầm đồng hồ bấm giờ trong tay, chưa đầy ba giây sau khi buổi họp báo trực tiếp bắt đầu, còi báo động rền vang trên khắp thủ đô Kiev. Cảnh báo trên điện thoại của người dân chuyển sang màu đỏ thẫm. Trên trời, hàng chục tên lửa và drone tự sát lao về phía các thành phố. Rồi ngay khi ông Trump đề cập đến vấn đề Ukraina, lập tức âm thanh chết chóc của những vụ nổ đầu tiên vang lên, làm rung chuyển các bức tường ở Kiev, kéo theo những tiếng la hét thảm thiết và cả một khung cảnh hỗn loạn. Hậu quả là ít nhất 12 người thiệt mạng và 90 người khác bị thương, khiến đây trở thành vụ tấn công kinh hoàng nhất ở Kiev kể từ tháng 07/2024.
Cũng nói về mối quan hệ tay ba Mỹ-Nga-Ukraina, nhật báo Le Monde lại tập trung tới : “Các nhà máy điện hạt nhân của Ukraina – tâm điểm trong các cuộc đàm phán ngừng bắn giữa Mỹ và Nga”. Theo Le Monde, Kiev hiện đang bị kẹp giữa hai gọng kìm: một bên là Hoa Kỳ, với tham vọng kiểm soát hệ thống điện hạt nhân của Ukraina; còn bên kia là Nga, hiện đang kiểm soát sáu lò phản ứng của nhà máy điện hạt nhân Zaporijia. Washington thì sử dụng con bài hỗ trợ quân sự nhằm chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên của Ukraina, bao gồm cả các nhà máy điện hạt nhân. Trong khi đó Matxcơva thì muốn chiếm hữu nhà máy Zaporijia để cung cấp điện cho các vùng lãnh thổ Ukraina mà Nga đã chiếm được. Mất đi sáu lò phản ứng của Zaporijia, Kiev mất đi 20% sản lượng điện.
Trước yêu sách của Washington với tổng thống Zelensky, tờ Le Monde trích lời ông Oleksandr Merejko, chủ tịch Ủy ban Các vấn đề đối ngoại của Ukraina, cho rằng : “Yêu cầu của tổng thống Trump cho thấy ông quá thiếu hiểu biết về luật pháp Ukraina, điều này chỉ có thể là chiến thuật quen thuộc của ông ấy : gây sốc trước rồi mới đàm phán.” Theo ông, kể cả trong trường hợp tổng thống và các bộ trưởng Ukraina đồng ý với thỏa thuận, văn bản cũng sẽ phải được Ủy ban của ông nghiên cứu, sau đó mới được đưa ra bỏ phiếu tại Quốc Hội. Ông Merejko nói thêm : “Tổng thống Zelensky có thể trông cậy vào một đa số vững mạnh, nhưng một nửa số dân biểu không thuộc về các đảng. Không có chỉ thị chung, các dân biểu sẽ nghĩ đến cử tri của mình và nếu một hiệp ước bị coi là sự phản bội, nó sẽ không được thông qua.” Và mọi ý định thay đổi Hiến Pháp để ép buộc các dân biểu thông qua sẽ mở ra, nhưng quá trình lập pháp này sẽ phải kéo dài tới một năm.
Tang lễ giáo hoàng, sự kiện ngoại giao phi chính thức ?
Về thời sự châu Âu, tang lễ của giáo hoàng vẫn là chủ đề được nhiều báo số ra hôm nay quan tâm. Nhật báo Công giáo La Croix chạy tựa : “Một lễ tang mang đậm sắc thái địa chính trị”. Vào khoảng trước 10 giờ sáng thứ Bảy này, 26/04, linh cữu của giáo hoàng Phanxicô sẽ được đưa ra trung tâm Quảng trường Thánh Phêrô. Trong khu vực dành cho các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ, việc sắp xếp chỗ ngồi được thực hiện giống như năm 2005, đó là theo thứ tự bảng chữ cái tên các quốc gia bằng tiếng Pháp vì “tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ của ngoại giao”, một hồng y chia sẻ. Do vậy, phái đoàn của tổng thống Mỹ (États-Unis) dự kiến sẽ ngồi cạnh phái đoàn của Ethiopia(Éthiopie), và cũng không xa phái đoàn của Pháp (France). Phái đoàn của tổng thống Ukraina cũng sẽ có mặt, trong khi nguyên thủ Nga Vladimir Putin, người đang bị truy nã theo lệnh bắt giữ quốc tế, đã quyết định không đích thân tham dự, mà thay vào đó cử một bộ trưởng “thứ cấp”, là bà Olga Lioubimova (bộ trưởng Văn Hóa). Một nhà quan sát tại Rôma nhận định : “Đây là một hành động lạnh lùng, nhưng có tính toán. Về mặt ngoại giao, nó thể hiện một sự khinh miệt – thậm chí còn tệ hơn cả việc không đến.”
Câu hỏi đặt ra là với sự tham dự của các phái đoàn lãnh đạo quốc tế như vậy, liệu tang lễ này có thể tạo ra cơ hội ngoại giao? Liệu nó có cho phép Vatican đảm nhận vai trò trung gian hòa giải mà họ luôn yêu thích hay không? La Croix khẳng định về mặt chính thức thì không. Tuy nhiên, tờ báo cũng trích lời nhà khoa học chính trị François Mabille, chuyên gia về địa chính trị tôn giáo, cho biết sự kiện này vẫn có thể mang tính “backchannel diplomacy – tức là một hình thức ngoại giao nơi những cuộc trao đổi mang tính không chính thức, kín đáo hoặc bí mật diễn ra. Loại hình đàm phán này cho phép kiểm nghiệm một số đề xuất mà không cần phải cam kết công khai.” Ngược lại, một nguồn tin khác lại cho rằng trên thực tế, ngay cả trong trường hợp phía Mỹ có thiện chí, thì các bên liên quan cũng không đủ thời gian. Người này nói : “Tôi không nghĩ là sẽ có cơ hội như vậy. Trong các lễ tang, các phái đoàn đến nơi, di chuyển ra quảng trường và rồi rời đi ngay sau đó.”
Thất bại của giáo hoàng ở Mỹ Latinh
Vẫn liên quan tới giáo hoàng, tờ Le Figaro lại tập trung phân tích “Thất bại của giáo hoàng ở Mỹ La-tinh”. Nhà xã hội học Thierry Maire nhận định tại Mỹ Latinh, giáo hoàng Phanxicô “đã thành công trong việc thay đổi hình ảnh của Giáo hội, (…) khơi dậy sự quan tâm của công chúng theo đúng nghĩa cao đẹp và nhiều lần lên tiếng bảo vệ người di cư trong một khu vực vốn có tỷ lệ di cư cao.”
Tuy nhiên, nỗ lực của giáo hoàng Phanxicô vẫn không đủ để ngăn chặn đà suy giảm của Giáo hội Công giáo tại khu vực này. Ông Maire trích các số liệu, cho biết : “Tại El Salvador và Guatemala, số tín đồ Tin Lành đã gần bằng số tín đồ Công giáo còn tại Honduras, tín đồ Tin Lành thậm chí đã chiếm đa số.” Nếu như năm 1995, có tới 80% người dân Mỹ La-tinh nhận mình là người Công giáo thì đến năm 2013, theo một khảo sát của Latino Barometro, con số này đã giảm xuống còn 67%.
Sự suy giảm của Giáo hội Công giáo ở Mỹ La-tinh bắt đầu từ những năm 1980, khi giáo hoàng Gioan-Phaolô II phát động cuộc chiến chống lại thần học giải phóng, một học thuyết đặt cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát và áp bức làm trung tâm cho sứ mệnh của Giáo hội, và tán thành những luận điểm chính về bất công xã hội mà Karl Marx đưa ra. Le Figaro phân tích phong trào này từng phát triển mạnh tại Brazil nhưng đã bị kìm hãm dưới thời Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, người lúc đó tập trung chống chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, Giáo hội Công giáo, vốn gắn bó sâu sắc với các cộng đồng nghèo nhất, đã đánh mất vai trò của mình và nhường chỗ cho các giáo phái Tin Lành phát triển.
Ngoài ra, sự suy giảm của Công giáo và sự trỗi dậy của các giáo phái Tin Lành cũng liên quan đến các yếu tố đô thị hóa. Trong bốn thập kỷ qua, các nước Mỹ Latinh đã chứng kiến một làn sóng di cư ồ ạt từ nông thôn ra thành thị. Người dân đến sống ở những vùng ven đô, lập nên các khu dân cư mới không có cấu trúc tổ chức, không có trung tâm hay cơ sở hạ tầng. Trong khi nhà thờ Công giáo thường tọa lạc tại trung tâm làng mạc, thì các đền thờ Tin Lành có thể được dựng lên ở bất cứ đâu – trong một rạp chiếu phim bỏ hoang hay một nhà kho. Cuối cùng, tại Mỹ Latinh, số người “không theo tôn giáo nào” ngày càng tăng. Họ không phải là vô thần, nhưng không thuộc về bất kỳ giáo hội nào với tâm niệm : “Iglesia no, Dios sí” (Không Giáo hội, nhưng vẫn có Đức Chúa Trời).
Đất và nước : Nguồn cơn của ngọn lửa căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan
Về thời sự châu Á, các báo Pháp quan tâm tới vụ khủng bố ở Kashmir và căng thẳng ngoại giao giữa Ấn Độ và láng giềng Pakistan. Hôm 22/04, một nhóm vũ trang đã nổ súng vào đoàn khách du lịch đang tham quan tại Pahalgam, một địa phương thuộc vùng Kashmir, phía Bắc Ấn Độ. Kết quả là 26 người thiệt mạng – bao gồm 25 người Ấn Độ không phải dân gốc Kashmir và 1 người Nepal.
Theo La Croix, có hai nhóm bị nghi đứng sau vụ tấn công. Trước hết là Lashkar-e-Toiba, một tổ chức vũ trang Hồi giáo đấu tranh để biến vùng Kashmir thuộc Ấn – nơi đa số dân là người Hồi giáo – được sáp nhập vào Pakistan. Nhóm thứ hai là Mặt trận kháng chiến Kashmir (Kashmir Resistance Front), một tổ chức vũ trang tập trung vào việc đấu tranh cho quyền tự trị của Kashmir. Tuy nhiên, theo bà Charlotte Thomas, nhà chính trị học chuyên nghiên cứu về khu vực Kashmir, thì nhóm thứ hai này “hoàn toàn không nhắc đến bản sắc Hồi giáo hay ý định sáp nhập với Pakistan” trong các tuyên bố của mình.
Trong khi đó tờ Le Monde tập trung phân tích nguyên nhân của những căng thẳng giữa New Delhi và Islambad. Theo đó, không chỉ có những tranh chấp lâu đời về đất đai, Ấn Độ và Pakistan còn giành giật nhau cả nguồn nước. Đối với Islambad, yêu sách về việc kiểm soát vùng Kashmir gắn liền với vấn đề nguồn nước. New Delhi đang nắm “vòi nước” trong tay, với các đập và hồ chứa trên sông Ấn, sông Chenab và sông Jhelum, có thể khiến kẻ thù của mình chết khát hoặc bị nhấn chìm trong cảnh ngập lụt. Pakistan, nằm ở hạ lưu, hoàn toàn dễ tổn thương. Mặc dù đã có hiệp ước được ký kết năm 1960 dưới sự bảo trợ của Ngân Hàng Thế Giới, các nhà lãnh đạo Pakistan vẫn thường xuyên tố cáo “chủ nghĩa khủng bố nguồn nước của Ấn Độ”.
Nhật Bản lặng lẽ bắt tay Trung Quốc sau lưng Mỹ
Vẫn về tình hình châu Á, nhật báo Le Figaro chạy tựa “Thuế quan: Tokyo mắc kẹt giữa Bắc Kinh và Washington”. Tờ báo phân tích, kể từ khi Mỹ tuyên chiến thương mại với Trung Quốc, Nhật Bản đang trong tình thế tiến thoái lưỡng nan khi phải tìm cách làm hài lòng một bên mà không làm mất lòng bên kia. Đây là một bài toán nan giải, buộc Nhật Bản phải có những tính toán thận trọng vì Bắc Kinh và Washington là hai đối tác thương mại lớn nhất của Nhật Bản. Đối với Mỹ, Nhật Bản công khai thể hiện thái độ ngoan ngoãn, loại bỏ mọi biện pháp trả đũa. Bộ trưởng Tái sinh kinh tế Ryosei Akazawacủa Nhật, phụ trách đàm phán với Hoa Kỳ, trong cuộc họp với ông chủ Nhà Trắng, đã đội chiếc mũ MAGA và giơ ngón tay cái trong phòng làm việc của tổng thống Trump. Hình ảnh này ngay lập tức bị tờ Asahi, tờ báo được đọc nhiều thứ hai tại Nhật, phê phán, gọi đây là “một hành động tự hạ nhục của một kẻ nịnh hót”. Còn đối với Trung Quốc, các cuộc đàm phán mà Nhật Bản tiến hành lại kín đáo hơn. Chủ tịch đảng Phật giáo Komeito, đối tác của Đảng Dân chủ Tự do trong liên minh cầm quyền, đã đến Bắc Kinh trong tuần này để gặp gỡ quan chức thứ của chế độ. Cả hai đã cùng nhau kêu gọi “tự do thương mại”, lặng lẽ làm điều này sau lưng Washington.