Tàu Trung Quốc đe doạ mỏ Lan Tây và hành động khó hiểu của Việt Cộng

Thứ Hai, 06 Tháng Bảy 20203:17 SA(Xem: 3334)
Tàu Trung Quốc đe doạ mỏ Lan Tây và hành động khó hiểu của Việt Cộng
rfa.org

Tàu Trung Quốc đe doạ mỏ Lan Tây và hành động khó hiểu của Việt Nam

Ngô Kiến Huy 2020-07-05

Tàu Hải cảnh Trung Quốc xuất hiện gần Lô 06.1

Theo nguồn tin của một số nhà báo và người đưa tin độc lập cho biết, sáng ngày 4/7 - Ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ, tàu hải cảnh 5402 của Trung Quốc đã tiến sát một cách khiêu khích đến giàn khai thác tại mỏ khí Lan Tây thuộc lô 06.1 mà Việt Nam đang khai thác.

Thông tin này cũng đã được Dự án Đại Sự Ký Biển Đông kiểm chứng và xác nhận thông qua việc phân tích dữ liệu AIS.

Theo Dự Án Đại Sự Ký Biển Đông, dữ liệu AIS cho thấy tàu Hải cảnh 5402 của Trung Quốc đã rời Tam Á vào sáng 1/7/2020 và di chuyển xuống phía nam. Chiều 2/7, tàu đã xuống đến khu vực đá Subi và hoạt động tại khu vực này cho đến sáng 3/7. Sáng 4/7, tàu hướng về phía mỏ khí Lan Tây tại lô 06.1 với tốc độ lớn, 15 hải lý/giờ. Vị trí tàu tiếp cận gần giàn Lan Tây nhất mà có thể xác định được qua AIS là vào lúc 9h57' sáng 4/7, với khoảng cách khoảng 1,3 hải lý về phía đông bắc. Đến 10h24' cùng ngày, vẫn cùng một tốc độ cao, tàu hải cảnh 5402 di chuyển cách giàn khai thác khoảng 2.85 hải lý về phía đông nam. Sau đó tàu di chuyển theo hướng đông nam về phía Bãi Tư Chính, đến vị trí cách giàn khoảng 30 hải lý thì giảm tốc độ và di chuyển chậm, thậm chí dừng lại trong khu vực này. Lúc 8h45' ngày 5/7/2020, tàu ở vị trí cách giàn khai thác Lan Tây khoảng 36 hải lý về phía đông đông nam. Sau đó tàu Hải cảnh 5402 vẫn đang quanh quẩn ở khu vực Bãi Tư Chính. Một tàu kiểm ngư của Việt Nam theo sát tàu Hải cảnh này.

Hành động của Trung Quốc chuyển tải thông điệp gì?

Tại sao Trung Quốc lại có hành động khiêu khích như vậy tại khu vực này và thời điểm này? Có thể có 3 lý do như sau:

Thứ nhất, xuất phát từ những vấn đề nội bộ của Trung Quốc.

Đại dịch COVID-19 đã gây ra những tổn hại khổng lồ với nền kinh tế Trung Quốc do phải đóng cửa các hoạt động kinh tế lúc đầu và sau đó là sự sụt giảm nhu cầu trên toàn cầu. Xuất khẩu hiện vẫn chiếm 30% GDP của Trung Quốc, nên nước này không thể tránh khỏi những cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, tiêu thụ trong nước đã gia tăng và hiện là đầu máy tăng trưởng quan trọng nhất.

Sự chuyển đổi đưa tiêu thụ trong nước trở thành đầu máy tăng trưởng hàng đầu này vốn đã được xúc tiến từ gần một thập kỷ nay. COVID-19 chỉ là tác nhân đẩy nhanh thêm xu thế này. Những cú sốc kinh tế mà đại dịch gây ra đang phá hoại nền thương mại toàn cầu tới một mức độ mà nhu cầu bên ngoài đối với các mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc khó có thể phục hồi trong vòng hai đến ba năm. Cuộc chiến thương mại và công nghệ với Mỹ, một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc, cũng đang tạo ra những nguy cơ dài hạn. Những nhân tố này đã khiến giới lãnh đạo Trung Quốc suy đoán rằng nền kinh tế toàn cầu sẽ vỡ vụn và phi toàn cầu hóa.

Đại dịch COVID-19 và sự gia tăng thù địch với Mỹ đang đẩy nhanh những biến đổi trong nền kinh tế chính trị Trung Quốc.

Chính vì vậy, đây là hành động tiếp nối của Trung Quốc trong một chuỗi hành động hung hăng thể hiện đối với nhiều quốc gia khác nhau, có thể là để đánh lạc hướng sự chú ý của người dân Trung Quốc khỏi các vấn đề trong nước và sự bất mãn ngày càng tăng đối với Chủ tịch Tập Cận Bình. Có những đòi hỏi chưa từng có yêu cầu Tập Cận Bình từ chức do nhiều chính sách của ông ta, trong đó có cách xử lý sai dịch COVID-19 ở Vũ Hán. Mọi người đang mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Tập Cận Bình và bắt đầu đặt câu hỏi về lời hứa của ông về “Giấc mộng Trung Hoa” khi Trung Quốc sẽ trở thành quốc gia khá giả toàn diện vào năm 2021, dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc”.

Phục hồi chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ Trung Quốc bị mất do các hiệp ước bất bình đẳng với các cường quốc nước ngoài” là một cam kết của Tập Cận Bình trong “Giấc mộng Trung Hoa”. Tăng cường các hoạt động quân sự trong tranh chấp lãnh thổ với láng giềng dường như là ngọn cờ duy nhất khả dĩ mà ông Tập có thể giương lên để quy tụ niềm tin trong xã hội Trung Quốc.

Thứ hai, đây cũng là tín hiệu mà Trung Quốc muốn đưa ra với Hoa Kỳ và các quốc gia khác tại khu vực biển Đông. Mặc dù gần đây, Việt Nam với tư cách Chủ tịch ASEAN đã thúc đẩy các quốc gia ASEAN đưa ra một Tuyên bố, trong đó đề cao vai trò của UNCLOS, như một lời nhắn gửi đến Bắc Kinh. Trước đó, Malaysia, Philippines, Việt Nam và Indonesia đã gửi các Công hàm/ Công thư lên LHQ để phản đối các yêu sách phi lý của Trung Quốc trên biển Đông, cũng như viện dẫn Phán quyết của Toà trọng tài trong Vụ Philippines kiện Trung Quốc năm 2016. Hành động này của Trung Quốc như muốn thể hiện rằng, bất chấp sự cổ vũ của Hoa Kỳ, cũng như dựa vào Phán quyết 2016, Trung Quốc vẫn là bên có sức mạnh lớn nhất ở khu vực biển Đông. Và ASEAN cùng với Hoa Kỳ chớ có coi thường sức mạnh và quyết tâm của Trung Quốc đối với việc độc chiếm biển Đông.

Thứ ba, hành động này nhắm tới Việt Nam với nhiều hàm ý. Việt Nam vẫn đang là quốc gia tích cực nhất trong ASEAN để tìm cách lên án Trung Quốc. Đối với Trung Quốc, Việt Nam đang là kẻ “cứng đầu nhất”. Vì vậy, Trung Quốc muốn “trị” Việt Nam trước hết. Sau đó mới tới các quốc gia ASEAN khác. Thêm nữa, Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại hội Đảng lần thứ 13. Thực chất đây chính là giai đoạn chuẩn bị cho nhân sự cho khoá mới, vì vậy, đây cũng là lời “cảnh cáo” của Bắc Kinh cho các lãnh đạo Việt Nam, chớ có rời xa “thiên triều”. Ngoài ra, đây cũng là lời “nhắc nhở” khi Việt Nam giai đoạn này đang “mặn nồng” với Hoa Kỳ rất nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các quan hệ quốc phòng. Vì thế, với việc đe doạ tại khu vực Lô 06.1, Trung Quốc vừa đạt được ý đồ ngăn chặn các hoạt động khai thác của Việt Nam, ép Việt Nam xuống nước để có thể thực hiện “Gác tranh chấp cùng khai thác” tại đây, vừa gửi tín hiệu đe doạ đến việc khai thác của các quốc gia ASEAN khác như Malaysia, Philippines và Indonesia. Mặc dù khu vực Lô 06.1 nằm trên bể Nam Côn Sơn, cách rất xa khu vực Bãi Tư Chính mà Trung Quốc gọi đó là Vạn An Bắc, nhưng Trung Quốc vẫn muốn biến khu vực này thành “vùng tranh chấp” theo ý đồ của Bắc Kinh.

Hành động khó hiểu của Việt Nam?

Một vấn đề đáng lưu ý là hành động khó hiểu từ phía Việt Nam. Ngay từ cuối tháng 5, đã rộ lên các thông tin về việc Chính phủ Việt Nam đang xem xét tiếp tục thăm dò và khai thác mới tại Lô 06.1. Mặc dù phía Việt Nam thì ít khi đưa ra các thông báo chính thức về vấn đề này. Nhưng dư luận đã đồn đoán với căn cứ hợp lý khi Việt Nam thuê Giàn Noble Clyde Boudreaux và neo Giàn khoan này từ ngày 30/4 tới nay tại Vũng Tàu.

Hồi đầu tháng 6, Bộ Chính trị Việt Nam đã không thể quyết định được việc tiếp tục cho thăm dò và khai thác mới tại Lô 06.1 hay không? Và đương nhiên là vì lo ngại trước áp lực đe doạ từ Bắc Kinh.

Việc Việt Nam chưa thể quyết định tiến hành thăm dò và khai thác mới trước áp lực của Bắc Kinh cũng là điều dễ hiểu. Trước đó, năm 2017 và 2018, dưới áp lực của Trung Quốc, Việt Nam đã yêu cầu Công ty Repsol tạm dừng khai thác tại Lô 136.3 và 07.3. Điều này đã dẫn tới những lo ngại cho các nhà đầu tư quốc tế trong lĩnh vực dầu khí đầu tư vào các dự án khai thác tại Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần thận trọng trước các quyết định của mình, vì nếu tiếp tục thăm dò và khai thác mới nhưng lại ngưng khi Trung Quốc gây áp lực, sẽ dẫn tới các thiệt hại vật chất và chiến lược của Việt Nam. Và điều đó đã dẫn tới việc Bộ Chính trị Việt Nam vẫn chưa thể ra quyết định tiếp tục hay không cho việc thăm dò để khai thác mới tại Lô 06.1.

Vì thế, việc thận trọng chưa thể quyết định việc thăm dò để khai thác mới là có thể hiểu được. Nhưng vì sao phía Việt Nam thuê Giàn Noble Clyde Boudreaux với giá thuê là 135.000 USD/ngày trong khi chưa quyết định được là sẽ làm hay không thì không hiểu phía Việt Nam có mục đích gì?

Việc chưa thể ra quyết định mà đã tiến hành thuê giàn đã khiến công luận thấy Việt Nam có vẻ hấp tấp. Điều này đã tạo ra những sức ép không nhỏ cho chính phía Việt Nam khi nhân sự kiện đó mà các tàu của Trung Quốc đã tiến tới đe doạ các vùng biển của Việt Nam và giàn khoan tại mỏ Lan Tây mới đây. Chưa kể với giá tiền thuê như vậy, thì suốt cả tháng qua, số tiền mà phía Việt Nam phải trả tiền thuê giàn Noble Clyde Boudreaux lên tới cả trăm triệu USD, trong khi không thực hiện được mục tiêu thăm dò để khai thác mới và nền kinh tế Việt Nam lại đang gặp rất nhiều khó khăn với Đại dịch COVID-19 thì số tiền trên rõ ràng là không khỏ để giúp vực dậy nền kinh tế của mình.

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn