Nguồn gốc hai từ Quê Hương (暌 鄉)

Chủ Nhật, 18 Tháng Ba 20182:00 SA(Xem: 6419)
Nguồn gốc hai từ Quê Hương (暌 鄉)
nghiencuulichsu.com

Nguồn gốc hai từ Quê Hương (暌 鄉)


Nhà lý.jpg

Viên Như

Tết đến rồi ai cũng mang mang một nỗi nhớ quê hương, người ở quê lên thành thị thì mong sớm về quê vui tết với gia đình, người ngoài nước thì mong nhớ về quê hương đất nước để bơi lội trong văn hóa tết dân tộc. Quê hương một từ thân thương vô bờ bến của người dân Việt. Xin đưa lên đây một ý nghĩ về hai tiếng quê hương để tặng cho những ai đang xa nhà hay xa  xứ.

Quê hương, hai tiếng vô cùng thân thương đối với người Việt, ai đi đâu cũng nhớ quê hương. Thông thường ta hiểu Quê hương là nơi mình ra đời hay như ta thường nói là nơi “chôn nhau cắt rốn”, hai tiếng quê hương trở thành một từ quá quen thuộc nên người ta chẳng băn khoăn tự hỏi rằng hai từ này từ đâu mà có, nó là từ Hán Việt hay thuần Việt. Tôi cũng như nhiều người khác, đem cái thắc mắc này hỏi sách vỡ nhưng đến nay chưa tìm thấy sách nào giải thích về điều này, thôi thì đành tự tìm hiểu vậy.

Quê hương, ai cũng biết Hương 鄉 là chữ Nho, ngày nay gọi là từ Hán Việt, vậy lẽ nào chữ Quê lại là chữ thuần Việt, nhất định nó là chữ Nho rồi, cho dù nó biến âm theo thời gian chăng nữa thì âm gốc của nó nhất định vẫn còn đâu đó. Mặc dầu thế, có một điều khó khăn là tuy có nguồn gốc là chữ Nho, nhưng Trung Hoa không hề có từ ghép nào khả dĩ làm cơ sở để từ đó ta tìm ra nguồn gốc của từ ghép này, thôi đành tìm trong vốn liếng ngôn ngữ của dân tộc vậy. Ta hãy tìm hiểu xem nó là chữ gì, nghĩa nó ra sao, mà khi ghép lại thành cái tên gọi sao mà thân thương đến vậy.

Theo tôi, hai từ Quê Hương vốn là thuần Việt, có nghĩa là cái chữ Hán ấy vốn là chữ của người Việt, tất nhiên âm cũng Việt, theo thời gian, dưới áp lực của các triều đại phương bắc cấm dân tộc ta không được dạy về nguồn gốc chữ Khoa đẩu và Dịch học; đồng thời chính họ cũng không sử dụng hai từ đó đi liền với nhau nữa, có thể nhằm tránh người Việt tìm ra nguồn gốc của con chữ và dịch học, dần hồi ta quên mất chữ củ của nó đi, từ đó ta không biết Quê là gì. Chữ Hương 鄉 thì ai cũng biết rồi, nhưng chỉ biết với nghĩa đơn giản mà các từ điển Hán Việt cho mà thôi, còn chữ Quê thì dường như chẳng biết nó xuất phát từ đâu, giờ đây ta chỉ tìm thấy nghĩa của hai từ này được giải thích trong tự điển theo cảm tính mà thôi. Theo tôi, hai từ Quê Hương trong chữ Việt cổ là 暌 鄉, âm hiện nay là Khuê Hương.

  1. QUÊ – KHUÊ.

1.1. Ngữ âm Quê.

Trước khi đi vào tìm hiểu nghĩa và sự biểu ý của chữ 暌, xin bàn qua ngữ âm của từ Quý 癸 trong chữ Khuê – Quê 暌, bởi vì âm và nghĩa của chữ Quý này đóng vai trò quan trọng trong chữ Quê – Khuê 暌. Chữ 癸 hiện nay âm chữ Nho là Quý, tuy nhiên, theo tôi, nó còn có âm khác là Quê, tại sao tôi cho là như vậy? Vì căn cứ các chữ có âm liên quan với nó, ta có thể hiểu ra như vậy, cụ thể một số chữ có [y] trong chữ Nho, trong tiếng Việt là âm [ê], như Lý  李  Lê. Quy 歸 Về.

Ta vẫn thường nói “Quê mùa”, trong chữ Nho, Quý  季 nghĩa là mùa, có nghĩa là “Quê mùa” tức là “Quý mùa”, như vậy chữ Quý 季 là chữ Việt với âm Quê vậy. 季 và 癸 đồng âm, Quý 季 vốn có âm Quê thì Quý 癸 cũng có âm Quê. Tất nhiên không phải vì nó đồng âm mà ta có thể khẳng định như vậy, nó còn có lý do khác để ta tin rằng âm quý ấy vốn xưa đọc “quê” như bàn tiếp dưới đây.

Chữ Quý 癸 ngoài cái âm “quê” đã bàn trên, nó còn chứa trong nó cái ý nghĩa mà từ đó hình thành nên nét nghĩa thân thương trong hai tiếng Quê Hương.

Tự điển Thiều Chữu: 癸.

  1. Can “Quý”, can sau chót trong “thiên can” 天干 mười can.
  2. Kinh nguyệt đàn bà gọi là “thiên quý” 天癸 hay “quý thuỷ” 癸水.

Kinh nguyệt của đàn bà ngày xưa người Việt gọi là “máu què”, cũng từ đây mà quần của đàn bà gọi là quần “đáy què”, người ta còn gọi sinh thực nữ là “cái què”. Như vậy “què” ở đây chính là đọc trại từ “Quê” mà ra.

Với những phân tích trên, ta thấy âm “quý 癸- quê” liên quan đến sinh thực nữ hay mẹ để đối lại với Hương 鄉là cha mà tôi sẽ chỉ ra tiếp theo sau.

Ở trên là phân tích về ngữ âm “quý – quê”, ngoài ra chữ quý癸 được tổ tiên ta sáng tác ra căn cứ vào sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, vì họ chính là chủ nhân của cái sơ đồ này nói riêng, dịch học nói chung, vì vậy ta hãy tìm hiểu tiếp.

Thuyết văn giải tự giải thích.

癸.冬時,水土平,可揆度也。象水從四方流入地中之形。癸承壬,象人足。癸,籒文从癶从矢。居誄切.

Quý. Đông thời, thủy thổ bình, khả quỷ độ dã. Tượng thủy tùng tứ phương lưu nhập địa trung chi hình. Quý thừa Nhâm, tượng nhân túc. Quý, trứu văn tùng Bát tùng thỉ. Cư lụy thiết.

Quý. Thời tiết mùa đông. Nước đất ngang nhau. Có thể đo lường được.  Hình ảnh nước bốn phía chảy vào đất. Quý tiếp Nhâm, Tượng chân người. Quý. Trứu văn bộ Bát bộ Thỉ. Cư lụy thiết = Quỵ = quý.

Nội dung giải thích này đã giải thích trên.

Khang Hy tự điển giải thích:

又天癸,天乙所生之癸水。《黃帝素問》女子二七,而天癸至。《方書》男之精,女之血,先天得之以成形,後天得之以有生,故曰天癸.

Hựu thiên quý, thiên ất sở sanh chi quý thủy. (Hoàng Đế tố vấn) nữ tử nhị thất, nhi thiên quý chí. (Phương thư) Nam chi tinh, nữ nhi huyết, tiên thiên đắc chi dĩ thành hình, hậu thiên đắc chi dĩ hữu sanh, cố viết thiên quý.

Lại gọi là thiên quý (kinh nguyệt) thiên ất  (Hoàng Đế tố vấn) con gái 14 tuổi thì có kinh nguyệt. (Phương thư) Nam thì có tinh, nữ thì có huyết, gọi là thiên quý vì nó do khí tiên thiên (dương) mà thành hình và khí hậu thiên (âm) mà sanh ra.

Giải thích này căn cứ vào dịch học, cụ thể là sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, điều này cho thấy hai chữ “quê hương” được sáng tác ra từ sơ đồ này. Trong giải thích này, chi tiết người đọc cần quan tâm là “thiên ất 天乙 – Dương và “quý thủy – 癸水 – Âm”, bởi vì chữ Ất 乙là một chữ chỉ định nghĩa của chữ Hương鄉mà tôi sẽ bàn sau. Chính vì vậy mà người ta mới giải thích tiếp nó được hình thành từ tiên thiên (Hà đồ, thuộc âm) và Hậu thiên (Lạc thư, thuộc dương).

1.2. Nghĩa biểu ý của chữ Quý 癸– Quê.

Vì chữ Quý 癸 liên quan đến chuyện sanh đẻ của phụ nữ, do đó ta hãy tìm hiểu tiếp, chiết tự chữ Quý 癸 Quê ta có bộ Bát 癶 nghĩa là gạt ra, đạp ra. Bộ Bát癶gồm chữ Bát 八, tức là số 8, ở đây là độ số 8 của quái Cấn, nơi mà chữ Hương được thành lập. Như khi có bầu, tháng này đứa bé bắt đầu đạp, chuẩn bị quay đầu chui ra, hay ta có thể nói chuyển từ Hà Đồ sang Lạc Thư hay Vô cực sang Thái cực. Vì vậy chữ Bát癶, tả một gạch – Dương, hữu hai gạch – Âm. Ta có thể quay ngược chữ Bát ấy thì ta sẽ hiểu chữ Qua 瓜 là trái bầu với giải thích “Ngoài nhỏ trong lớn”, nên chữ Qua mang trong nó hai chữ Bát, 8.8 hay 8+8. Dưới hay trong chữ Bát癶là chữ Thiên天, nghĩa là Trời – Dương. Bát癶là Âm, Thiên 天là Dương, Âm Dương tức Thái cực. Người xưa còn gợi hình hơn bằng cách viết chữ Quý 𤼩 với chữ Thỉ 矢 là mũi tên, Thỉ矢thì dễ nhận ra nhưng thường quá, không bằng Thiên 天. Quê hay quý hay mẹ chính là nơi ta ra đời, đó là chân lý, chứ nếu lấy vùng đất, thì người Việt ở sinh ra ở Mỹ, thì chôn Nhau cắt Rốn làm sao. Chân lý là vì ai cũng có mẹ, từ bụng mẹ chui ra cả, cũng vì thế mà nó là nơi mà con người phải nghĩ về, tri ân và báo ân. Ngoài ra, như đã nói trên, trong chữ Quý 癸 có chữ Thiên 天, Thiên là Trời, trong dịch học là quái Càn, ta thấy trong sơ đồ vũ trụ theo Hậu thiên Bát quái, Càn nằm cung Quý, Nhâm Quý thuộc Thủy – Âm.

1.3. Khuê 暌 – Quê.  

Như đã đề nghị trước, theo tôi chữ Quê xưa kia được viết là暌, âm đọc hiện nay là Khuê.

Về mặt ngữ âm ta thấy  âm Khuê gồm: Âm đầu [kh], vần [uê], theo các nhà ngôn ngữ hiện nay, ngôn ngữ tiền Việt Chức không có âm [kh] với quan điểm như vậy ta có Kh – uê hay K-uê thành Kuê hay Quê. Tự điển Tường tế giải thích:

 形声。从日,癸声。本义:日落.

Hình thanh. Tùng nhật, Quý. Bổn nghĩa: Nhật lạc.

Chữ hình thanh. Bộ Nhật, âm Quý. Vốn nghĩa là mặt trời lặn.

Như đã chứng minh trên, chữ Quý 癸 vốn đọc là Quê, trong giải thích này nói thuộc bộ Nhật日, âm Quý癸tức là Quê. Như vậy chữ暌 là chữ Quê, một chữ và âm thuần Việt. 

Về kết cấu khoa đẩu của chữ Quê暌 ta có:

Trái Nhật日, mặt trời – Dương, chỉ phía tả của sơ đồ Lạc thư, phải Quý癸, thuộc Thủy – Âm. Dương Âm tức Càn Khôn – Hà đồ hay bản thể, thuộc Âm.

 Chữ 暌 là một chữ hội ý khoa đẩu, hình thanh. Hội ý khoa đẩu là vì Quý 癸 chỉ phần âm của vũ trụ (Hà đồ), còn chữ Nhật 日là tượng trưng cho phần dương của vũ trụ (Lạc thư), bắt đầu từ can Ất乙và kết thức là can Quý 癸, can cuối cùng của 10 Thiên can, tính từ Ất 乙 tới Quý 癸là một vòng của bản thể làm sao không xa cho được. Như tự điển Tường Tế đã giải thích, Khuê có nghĩa là nhật lạc日落, từ nhật lạc có thể hiểu là hoàng hôn, tuy nhiên trong trường hợp này phải hiểu là mặt trời lặn mất, vì Quý là can cuối cùng, nằm tại cung Hợi 10 giờ đêm, tức là lão âm theo Lạc thư.

Về mặt dịch học thì chữ Quê 暌 tượng trưng cho Vô cực, cụ thể là: Nhật 日 mặt trời = Dương, Quý 癸 = Âm. Dương Âm tức càn Khôn hay Vô cực.

Ta hãy tìm hiểu chữ Hương 鄉.

  1. HƯƠNG 鄉.

2.1. Nghĩa chữ Hương鄉.

Tự điển Thiều Chữu.

鄉. 1. làng 2. thôn quê, nông thôn 3. quê hương.

Thuyết văn giải tự:

(向)    北出牖也。豳風。塞向墐戶。毛曰。向、北出牖也。按士虞 禮。祝啓牖鄉。注云。鄉、牖一名。明堂位達鄉注云。鄉、牖屬。是渾言不別。毛公以在冬日可塞。故定爲北出者。經傳皆假鄉爲之。从宀。从口。口舊作口。按下曰。从口。中有戶牖。是皆从囗象形也。今正。許諒切。十部。詩曰。塞向墐戶。

Hướng. Bắc xuất dữu dã. Bân phong. Tắc hướng cận hộ. Mao viết. Hướng, Bắc xuất dữu dã. Án Sĩ Ngu lễ. Chúc khởi dữu hương. Chú vân. Hương, Dữu nhất danh. Minh đường vị đạt hương chú vân. Hương, dữu thuộc. Thị hồn ngôn bất biệt. Mao Công dĩ tại đông nhật khả tái. Cố định vi bắc xuất giả. Kinh truyện giả hương vi chi. Tùng miên. Tùng khẩu. Khẩu cựu tác vi. Án Hạ viết. Tùng vi. Trung hữu hộ dữu. Thị giai tùng vi tượng hình dã. Kim chánh. Hứa lương thiết. Thập bộ. Thi viết. Tái hướng cận hộ.

Tạm dịch:

Hướng. Cửa hướng về phía Bắc vậy. Bân phong. Trét đất cửa Bắc. Mao nói: Phía Bắc mở ra ô cửa vậy. Xét Sĩ Ngu lễ. Mừng mở cửa hương. Giải thích rằng: Hương, một tên của Dữu. Minh đường vị đạt hương giải thích: Hương, thuộc Dữu(cửa hướng ra phía Bắc) là không khác với lời nói thông thường. Mao Công cho rằng ngày đông có thể che chắn. Cố định về hướng bắc. Kinh truyện dùng Hương thay vậy. Bộ miên, Bộ khẩu Khẩu cữu viết Vi. Xét ra rằng: Bộ Vi, trong có ô cửa.

Với giải thích trên, ta chỉ có hai điều đáng quan tâm, đó là:

– Hương là  chữ Hướng.

– Ô cửa hướng ra phía bắc cần trét đất lại để ngăn cái lạnh mùa đông.

Như vậy chữ Hương鄉với nghĩa là “Cửa hướng về phía Bắc” nên có liên quan với chữ Quê, vì chữ Quê暌thuộc hướng Tây Bắc, đầu mùa Đông. Có nghĩa là Hương luôn hướng về Quê hay Dương luôn hướng Âm. Có lẽ vì vậy mà xưa kia mùa này là mùa cưới hỏi.

  1. Kết cấu biểu ý của chữ Hương.

Chữ Hương với những nghĩa mà tự điển đã cho trên, tuy nhiên những nghĩa ấy vẫn chưa thỏa mãn được khi đi với chữ Quê 暌. Ta hãy tìm hiểu xem người xưa đã hội ý khoa đẩu như thế nào trong chữ Hương 鄉.

Chữ Hương 鄉 gồm:

Chữ Hương 乡 cũng là bộ Ất 乙,

Lang 郎. (chữ Lang gồm良 (thuộc bộ Cấn艮)Lương , Ấp邑).

Xin bàn về biểu ý của con chữ khi người xưa đưa Ất乡, chữ Cấn艮và bộ Ấp 邑vào chữ Hương 鄉.

Căn cứ vào sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, Chữ乡 tức bộ Ất 乙, can thứ 2 trong 10 thiên can, đọc theo Hậu thiên Bát quái thì nằm ở phía cuối hướng bắc, về thời tiết thuộc về Quý đông, theo dịch học là đã đến lúc dương thịnh, tức chổ quái Cấn 艮, độ số 8, xem hình minh họa.

3.1. Chữ Lang 郎 chàng trai – Dương, gồm hai chữ: Chữ Lương良 và Ấp 邑.

3.2. Chữ Lương良 thuộc bộ Cấn 艮 Cấn, theo Hậu thiên Bát quái, 艮nằm ở hướng Đông bắc, tượng là Sơn – Núi. Như đã minh định nhiều lần trong sách này, chữ Sơn được sáng tác ra căn cứ hình ảnh sinh thực nam (chữ của người Việt) nên cha ông ta đã nói “Đem gan Cóc tía đối sơn hà” Cóc ở đây là con Cạc, vì vậy mới nói “cóc tía” chứ trong thiên nhiên ở nước ta làm gì có con cóc màu này.

3.3. Chữ Ấp 邑: Nước hay quốc gia (ngày xưa) thuộc âm (thực chất là con nhái), đối lại với chữ Nhật 日thuộc dương trong chữ Khuê – Quê .

Như vậy chữ Hương 鄉, được sáng tác theo kết cấu tả hữu, đọc theo Khoa đẩu thì Ất乡- Âm[1], Lang – Dương. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương.

  1. Lý tính trong kết cấu hai chữ Quê Hương.

Hai chữ Quê Hương暌鄉được người Lạc Việt cổ sáng tạo ra căn cứ vào Dịch học, cụ thể ở đây là 10 can và lý số của Lạc thư – Hậu thiên bát quái, nó được kết cấu theo phương thức tả hữu, cụ thể là:

Chữ Quê 暌: Trái Nhật日 -Dương, phải Quý癸-Âm, nằm tại can thứ 10 – Quý 癸, quái Càn乾, độ số 6. 日 Dương, Quý癸-Âm, Dương Âm hay Càn Khôn hay Vô cực thuộc Âm. Như vậy chữ Quê暌 thuộc âm.

Chữ Hương鄉: Trái Ất乡 thuộc Âm, phải Lang 郎-Dương, nằm tại vị trí quái Cấn艮, độ số 8. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương.

Cả hai, Quê 暌 -Vô cực – Âm, Hương 鄉-Thái cực – Dương. Âm Dương tức Thái cực, thuộc Dương hay phía nam tức người Lạc Việt.

  1. Quê Hương tượng trưng cho cha mẹ.

Như đã giải thích trên, 癸 là kinh nguyệt của đàn bà, như vậy Quê 暌đích thị tượng trưng cho MẸ.

Chữ Hương鄉, thuộc bộ Ất乙, quái Cấn 艮tượng là núi, núi là biểu tượng của sinh thực nam, có nghĩa là Cấn tượng trưng cho sinh nam, vì vậy các  bà có bầu còn gọi là cấn bầu. Như vậy chữ Hương tượng trưng cho CHA.

Như vậy hai chữ Quê Hương không phải là vùng đất mà mình sinh ra, mà là nơi đầu tiên mà có mặt, đó là cha mẹ và xa hơn nữa chính là tổ tiên, chính vì vậy, tuy ngày nay người Việt không hiểu một cách cụ thể về nguồn gốc của con chữ này, nhưng đối với họ hai từ Quê Hương là vô cùng thân thiết, thân thiết đến nỗi ai không biết quê hương mình ở đâu xem như lạc lỏng trong cuộc đời này. Vì thế mới nói quê hương là nơi chôn Nhau cắt Rốn, Nhau là ở trong bụng mẹ, Rốn là nguồn sống mẹ nuôi con thuở mang bầu, cắt ra thành một cá thể riêng nhưng mình từ đâu mà có!

Hai từ Quê Hương, ta thường nói là từ Hán Việt, vậy mà phương Bắc có từ này không? Có biết điều này không? Có biết nó được hình thành, ngoài yếu tố con người, nó còn thể hiện dịch học không? Không, họ không biết gì cả. Vậy mà họ vẫn còn giải thích, tuy không đầy đủ nhưng cũng chứng minh cho thấy manh mối của chữ Hương với chữ Quê. Như vậy sách vở ấy của ai, chữ ấy của ai, dịch học ấy của ai? Tất nhiên là của người Lạc Việt rồi chứ còn bàn cải gì nữa. Lưu ý rằng chữ khuê đã bị xóa khỏi Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, có lẽ do Đoàn Ngọc Tài, đời Thanh. Tại sao vậy?

  1. Định vị hai chữ Quê Hương trên sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái.

Như đã trình bày trên, trong chữ Quê暌, có chữ Quý癸Can thứ 10 trong thiên can, chữ Thiên天– Trời, trong dịch học chỉ quái Càn. Trong chữ Hương 鄉có chữ Ất乙, can thứ 2 trong thiên can, chữ Cấn艮chỉ quái Cấn. Với các tiêu chí này khi ta định vị vào sơ đồ Hậu thiên Bát quái, Quê thuộc độ số 6. Hương 鄉thuộc độ số 8 như hình minh họa dưới.

que huong 1.jpg

  1. Giải thích lý số 6, 8.

Lý số 6 là độ số của quái Càn, hướng Tây Bắc, thuộc Thủy, can Quý. Lý số 8 là độ số của quái Cấn, hướng Đông Bắc, thuộc Mộc, can Ất. 6 và 8 là hai lý số được người Việt cổ dùng nó như là một quy luật trên nhiều lãnh vực, như thi ca, văn bản, kiến trúc, y học. Tổng của 6+8 là 14, con số này cũng được người xưa thể hiện liên quan đến khái niệm dịch học, cụ thể nó là tổng khái niệm dịch lý 2 nghi+4 tượng+8 quái = 14.

  1. Lý tính của lý số 6, 8.

Với các phân tích trên ta biết 6 thuộc âm, 8 thuộc dương.

  1. Minh họa sự tương thích của hai chữ Quê Hương với Lạc thư – Hậu thiên bát quái.

Như đã phân tích trên, chữ Quê hay Quý có nghĩa là kinh nguyệt, chỉ có đàn bà mới có kinh nguyệt, như vậy chữ Quê tượng trưng cho mẹ. Chữ Hương có chữ Cấn, ở đây là quái Cấn tượng trưng cho núi hay sinh thực nam, như vậy chữ Hương tượng trưng cho cha. Chữ Hương nằm ở can Ất, thuộc dương mộc, ngày xưa người ta gọi sinh thực nam là khổ mộc.

que huong 2.jpg

        Ta thấy trong hình ảnh trên các thành phần kết cấu nên chữ quê và hương tương thích với phương vị của Lạc thư – Hậu thiên bát quái. Cụ thể như sau:

          Chữ Quê:

          Chữ Quê nằm tại can Quý 癸 thuộc Thủy – Âm.

          Chữ Bát癶  nghỉa là đạp ra, ý nói chổ sinh con của đàn bà. – Âm

          Chữ  Thiên 天nằm tại quái Càn – Dương.

          Chữ Nhật日 – Dương , Âm luôn hướng về Dương.

Chữ Hương :

        Chữ Ất乡nằm tại can Ất乙- Dương.

          Chữ Cấn艮nằm tại quái Cấn艮- Dương.

          Chữ Ấp阝thuộc âm. Vì Dương luôn hướng về Âm, như trong giải thích của chữ Hương, còn đọc là Hướng, là cửa sổ hướng về phương bắc – Âm.

que huong 3.jpg

          Hính ảnh ở giữa chính là chữ Hương  kim văn.

Tất nhiên, nói đến quê hương là nói đến con người, tức là Nhân 人, trong hướng sáng tác con chữ Khoa đẩu, chữ Nhân cũng thể hiện điều này. Nhìn vào sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, ta thấy chữ Nhân人có hai chân đạp vào hai quái Càn – độ số 6 – Quê  và Cấn độ số 8 – Hương. Như đã nói trên Quê Hương tượng trưng cho mẹ cha, con thì do cha mẹ sinh ra, do đó ta thấy chữ Nhân人 được bắt đầu từ hai quái Càn Cấn hay nói khác hơn bắt đầu từ mẹ cha hay quê hương.

Chữ人 Nhân là một chữ được sáng tác ra từ sơ đồ dịch học, ta biết điều này khi tìm hiểu chữ Đại 大. Thuyết văn giải tự giải thích như sau:

天大,地大,人亦大。故大象人形。 徒蓋切.

Thiên đại, địa đại, nhân đại, cố đại tượng nhân hình. Đồ cái thiết.

Trời lớn, đất lớn, người lớn. Cho nên chữ đại tượng hình người. đọc là đại

           Giữa chữ Quê và Hương là chữ Tử子- Con. Cha mẹ sinh người con.

Đây là bức tranh dân gian vẽ Phục hy và Nữ Oa của Trung Quốc, hình ảnh này là cách thể hiện chữ Hương kim văn.

que huong 4.jpg

Bên trái là Phục Hy, đầu đội mũ hình tia sáng mặt trời, bên phải là Nữ Oa, tay cầm cái Củ, đầu đội khăn Oa. Giữa là đứa con, Tử子 con, còn có nghĩa là mọi việc bắt đầu từ cung Tý tương hợp với hai chữ quê hương mà tôi đã phân tích trên. Hai người kết nối với nhau bằng hình ảnh đuôi con rắn quấn vào nhau. Điều này được thể hiện trong sao của phương nam: Tỉnh, quỷ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn. Dực là con rắn lữa hay rắn phương nam.

  1. Các bằng chứng cho thấy 6, 8 được thể hiện trong thực tế.

10.1. Khái niệm 6, 8  trong con chữ.

 Hai chữ Quê Hương暌鄉  được sáng tác ra từ sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên bát quái, cụ thể là 6, 8 như đã trình bày trên.

10.2.  Khái niệm 6, 8 trong văn học.

  1. Quy luật viết văn bản.

Ngày xưa ban đầu người ta đẽo gỗ ra 6 hay 8 mặt để viết chữ, trong Thuyết văn giải tự, phần chữ Phan 幡viết như sau:

顔師古曰。觚者學書之牘。或以記事。削木爲之。其形或六面。或八面。皆可書。觚者,棱也。以有棱角。故謂之觚。

Nhan Sư Cổ viết. Cô giả học thư chi độc. Hoặc dĩ kí sự. Sao mộc vi chi. Kỳ hình hoặc lục diện. Hoặc bát diện. Cô giả, lăng giả. Dĩ hữu lăng giác. Cố vị chi cô.

Nhan Sư Cổ nói: “Cô” ấy là thẻ tre làm sách học hoặc ghi chép sự việc. Gọt thanh gỗ thành hình 6 mặt hoặc 8 mặt. Đều để viết. “cô” ấy là cạnh vậy. Phàm có góc cạnh đều gọi là “cô”.

  1. Thơ 6-8, Lục Bát.

Tôi tin rằng thơ lục bát là một hình thức thể hiện dịch học trong văn chương, cụ thể là 6 – 8 là tổng các phạm trù dịch lý đã nêu trên, tất nhiên là do người Lạc Việt làm nên, người Lạc Việt là người Nam, thuộc Dương, trong dịch học là Thái cực, quẻ thể hiện là Âm Dương (Khôn Càn), thể hiện bằng số là 6-8. Thơ lục bát là thể thơ câu đầu 6 chữ – Âm, câu tiếp là 8 chữ – Dương.

Cùng là nước đồng văn, cùng ngôn ngữ đơn âm, đều thừa hưởng văn hóa Dịch, vậy sao Trung quốc, Hàn quốc không có thể thơ Lục bát. Toàn bộ ca dao Việt Nam đều theo thể lục bát, tác phẩm văn học nỗi tiếng nhất của nước Việt, tham gia vào nền văn học thế giới cũng được viết bằng thể thơ này, truyện Kiều. Có thể nói thơ lục bát như tiếng thở dài của người Việt, nó cũng dịu dàng, nhẹ nhàng như tiếng mẹ ru con, nó như chất liệu xoa dịu bao nỗi đau thương mà thăng trầm của lịch sử mang lại, nhất là thể thơ này chỉ riêng có của nước Việt cho nên nhất định nó được tổ tiên ta sáng tác ra với mục đích như là một mật mã. Mật mã ấy là gì? Xin thưa rằng đó là: Người Việt là chủ nhân của Dịch học và chữ Vuông.

10.3. Khái niệm 6, 8, 14 trong truyền thuyết.

Trong truyền thuyết Hồng Bàng Thị, Âu Cơ đem 50 con lên núi, tức hướng nam, trong hình minh họa mặt trống đồng Ngọc Lũ trên, ta thấy 6 con gà ở hướng nam, quái Ly, tượng trưng cho trung nữ (Âu Cơ). Ở hướng bắc có 8 con gà, quái Khảm, tượng trưng cho trung nam, theo Hồng Bàng Thị là Lạc Long Quân đem 50 con xuống biển, vì vậy ở giữa trống là mặt trời 14 tia.

que huong 5.jpg

10.4.  Khái niệm 6, 8 trong kiến trúc.

Tại chùa Nhất trụ, Ninh Bình có cột kinh gồm: Cột có 8 cạnh, gồm 6 bộ phận ghép lại với nhau. 8 cạnh tượng trưng cho cha (Hương), 6 bộ phận tượng trưng cho mẹ (Quê). Toàn bộ cột kinh nằm trên nền vuông, mỗi cạnh 1,4m = 14, chung quanh có 14 cánh hoa sen. Điều này thể hiện tổng các khái niệm dịch lý.

que huong 6.jpg

10.5. Khái niệm 6, 8 trong y học.

Trong đông y, ta biết có hoàn lục vị, tức thuốc bổ thận dành cho phụ nữ – Âm, hoàn bát vị, tức thuốc bổ thận dành cho đàn ông – Dương. Như vậy rõ ràng 6 vị và 8 vị ở đây chính là con số đến từ dịch học.

  1. 6+8=14. Lý số 14 thuộc âm.

Căn cứ vào thực tế ta biết lý số 14 thuộc âm, như vì 7.7 = 49. 49 là lý số của hướng tây theo Hà đồ. Trên mặt trống đồng Ngọc Lũ có mặt trời 14 tia, mặt trời thuộc dương, nhưng tia sáng thuộc âm, vì không thấy. Thơ song thất – Âm, lục bát- Dương. Người chết cúng thất tuần – 49 ngày, vì người Việt tin rằng khi một người mất đi có nghĩa là họ trở về Tây – Âm, do đó khi một người chết người ta để một cây dao – Hành kim (hành của hướng tây), để khăn trắng (màu của hướng tây) con trai đội nón rơm (vì đây là sự nghiệp và văn hóa lúa nước của người Lạc Việt. Cây lúa trồng tháng 2, chết tháng 8 âm lịch), có nghĩa là bảo vệ sự nghiệp cũng như văn hóa của tổ tiên. Ngày thất tịch  7 tháng 7 là ngày Ngưu Lang – Chức Nữ gặp nhau vì do lâu ngày âm dương cách biệt. 7/7 là chuẩn bị tới tháng 8, hướng chánh tây. Vào trong chùa ta thấy chổ thờ tự – Âm, có hai dãi tràng phan, mỗi bên 7 cái. Bia Vũ Vương có 77 chữ, bia thì của người chết – Âm.

  1. Kết.

Với những gì trình bày trên, ta có thể khẳng định rằng hai từ Quê Hương là một từ thuần Việt, nó được sáng tác ra từ các khái niệm dịch lý, cụ thể là sơ đồ Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, đặc biệt hai từ quê hương tượng trưng cho cha mẹ, điều này phù hợp với tinh thần bài ca dao chữ hiếu của dân tộc ta. Cha mẹ  hay tổ tiên sinh ra dân tộc, có dân tộc mới có văn hóa chính vì vậy hai từ Quê Hương còn chỉ cho biết khái niệm 6, 8, khái niệm này được áp dụng trên nhiều mặt của đời sống, tất cả nói cho ta biết rằng Dịch học và chữ Vuông là sản phẩm của dân tộc Lạc Việt, nếu cho rằng của Trung Hoa, vậy sao không có sách vở nào của họ nói đến hai từ quê hương, hay giải thích vì sao chữ Quê 暌–Khuê thuộc bộ Nhật日, chữ Hương鄉 thuộc bộ Ất乙, hay tại sao bổ thận âm phải là 6, dương là 8. Nếu người Việt được phương bắc dạy cho thì làm sao mà người Việt biết và làm được những gì mà phương bắc không hề hay biết, trong khi đó, hàng ngàn năm qua họ cho rằng chữ Nho và Dịch học là của dân tộc họ. Không phải chỉ hai từ quê hương với ý nghĩa là mẹ cha, mà người Việt còn áp dụng tinh thần này trên nhiều lãnh vực khác, tất cả nói lên rằng chỉ có người làm ra những sản phẩm đó mới nhận thức một cách sâu xa cái thông điệp từ những thành quả văn hóa mang lại. Với hai từ quê hương thôi mà ta đã thấy những người làm ra nó có trí tuệ tuyệt với như thế nào, nhất định ngày ấy tổ tiên nước Việt để bao tâm huyết mới sáng tạo ra hai con chữ với những ý nghĩa có tính hệ thống tinh tế đến như vậy. Phân tích hai từ quê hương ta thấy nó là một thành tố trong một hệ thống triết học thống nhất, không phải bổng dưng mà Quê ở độ số 6 và Hương ở độ số 8 của Lạc thư – Hậu thiên Bát quái, tất cả là một hệ thống có tính toán, nó không phải là sự tình cờ. Như vậy ai là chủ nhân cái nền văn hóa ấy nếu không là dân tộc sáng tác ra hai chữ Quê Hương.


Chú thích:

[1]Giáp甲Ất 乙 thuộc Mộc木. Mộc thuộc Dương nhưng Dương âm, Bính Đinh thuộc Hỏa, Hỏa thuộc Dương, nhưng Dương dương.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn