Những người Manicheans trong số chúng ta, những người thích chia thế giới thành “thiện” và ác “, kể từ khi Nga xâm lược Ukraine đã nhân đôi ý tưởng rằng Nga và Trung Quốc là đối tác trong một” trục chuyên quyền “xấu xa, phải bằng mọi giá được củng cố bởi một liên minh các nền dân chủ.
Câu chuyện đã được củng cố bằng tuyên bố chung vào tháng 2 của Tổng thống Nga Vladimir Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình rằng mối quan hệ giữa các quốc gia của họ “không có giới hạn” và “không có lĩnh vực hợp tác nào bị cấm.”
Việc Bắc Kinh từ chối lên án cuộc xâm lược của Nga – Trung Quốc là một trong 35 quốc gia bỏ phiếu trắng trong cuộc bỏ phiếu của Liên Hiệp Quốc – và việc họ sẵn sàng mở cửa thị trường cho dầu, khí đốt và than đá của Nga, đã khiến nhiều người mua vào câu chuyện này, mặc dù nó là phần lớn là nhầm lẫn.
Như Kadri Liik tại Hội đồng Đối ngoại Châu Âu đã nói trong một bản tóm tắt chính sách năm 2021, Nga và Trung Quốc không phải là “hai phần của một vấn đề.”
Trung Quốc nói ‘không có giới hạn’ trong hợp tác với Nga
Thực tế là mặc dù có mối quan hệ cá nhân bền chặt giữa Putin và Tập – hai người đã gặp nhau khoảng 40 lần kể từ năm 2012 – Trung Quốc và Nga vẫn ngờ vực lẫn nhau sâu sắc mà có từ “các hiệp ước bất bình đẳng” vào giữa thế kỷ 19, và có rất ít tương lai chung và khác nhau.
“Cuộc hôn nhân bất tiện” của họ xoay quanh mối nghi ngờ chung về một số cường quốc phương Tây và các yếu tố địa lý, bao gồm đường biên giới dài 4.300 km (2.800 dặm), một trong những đường biên giới dài nhất thế giới.
Sự ghen tị của Nga với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Trung Á và vùng Viễn Đông của Nga đòi hỏi sự quản lý tinh tế liên tục. Năm 2000, nhập khẩu của Trung Quốc từ Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan ít hơn một phần tư nhập khẩu của Nga. Đến năm 2020, chúng đã nhiều hơn gấp đôi lượng nhập khẩu của Nga.
Dù mối quan hệ Nga-Trung hiện tại ra sao, mối quan hệ trong 180 năm qua thường xuyên ở trong tình trạng đóng băng sâu sắc.
Nga là một trong số các cường quốc phương Tây áp đặt “các hiệp ước bất bình đẳng” đối với Trung Quốc. Theo Hiệp ước Aigun năm 1858, Trung Quốc phải nhượng 600.000 km vuông (232.000 dặm vuông) đất cho Nga, và theo Hiệp ước Bắc Kinh năm 1860, Trung Quốc đã mất một phần lớn lãnh thổ đông bắc của mình cho Moscow.
Nhiều người ở Trung Quốc có những ký ức nghiệt ngã về chuyến thăm Moscow năm 1949 của Mao Trạch Đông, chỉ hai tháng sau khi lên nắm quyền. Phải mất hai tháng thương lượng khó khăn nhục nhã với Stalin để có được hiệp ước hữu nghị mà ông rất cần.
Việc Nga coi Trung Quốc như một người em nghèo và phụ thuộc đã tạo ra căng thẳng và phẫn nộ ngày càng sâu sắc khi Trung Quốc trở nên giàu có hơn.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đã tạo ra một trong những nguồn căng thẳng nghiêm trọng nhất giữa hai nước. Năm 1990, khi Liên Xô tan rã, tổng sản phẩm quốc nội của Nga gần như ngang bằng với Trung Quốc – khoảng 1 nghìn tỷ đô la Mỹ (tính theo đô la Mỹ năm 2015 không đổi).
Vào cuối năm ngoái, GDP của Trung Quốc đã tăng gấp 15 lần, trong khi Nga chỉ tăng 28%. Thậm chí, đáng kể hơn, chi tiêu quân sự của Trung Quốc là 239 tỷ đô la Mỹ, gần gấp 4 lần so với 65,9 tỷ đô la Mỹ của Nga, trong khi nghiên cứu và phát triển là 465,2 tỷ đô la Mỹ (trên cơ sở sức mua tương đương năm 2018), hơn 10 lần so với 41,5 tỷ đô la Mỹ của Nga.
Khi Trung Quốc phát triển, sự phụ thuộc vào “người anh cả” đã giảm dần. Trong tổng số 550 tỷ USD thương mại của Nga vào năm 2021, 18% là với Trung Quốc. Nhưng Nga chỉ chiếm 2% trong thương mại trị giá 4,2 nghìn tỷ đô la Mỹ của Trung Quốc. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Nga đều liên quan đến nhiên liệu hóa thạch, nhu cầu sẽ giảm khi Bắc Kinh hướng tới một nền kinh tế không có carbon vào năm 2060.
Điều này đã dẫn đến sự khác biệt rõ rệt về thái độ đối với các mối quan hệ quốc tế. Về mặt ngoại giao, Nga có mâu thuẫn với phương Tây, phần lớn bị ngắt kết nối với nền kinh tế toàn cầu, và hầu như không để mất gì do xung đột. Tuy nhiên, Trung Quốc là trung tâm của thương mại quốc tế, được kết nối bởi các chuỗi cung ứng phức tạp trên toàn nền kinh tế toàn cầu, với rất nhiều thứ để mất trong trường hợp xung đột.
Nga sẵn sàng hành động mạnh mẽ trong những gì họ cho là lợi ích quốc gia của mình – ở Chechnya năm 1999, Gruzia năm 2008, Crimea và phần lớn là Ukraine kể từ năm 2014, và trong cuộc nội chiến Syria từ năm 2015 – trái ngược với tư thế miễn cưỡng hơn của Trung Quốc về hành động quân sự.
Nếu chỉ có hai bài học để Trung Quốc rút ra khi nhìn Nga phải trả giá cho cuộc xâm lược Ukraine của họ, đó là một cuộc xâm lược quân sự vào Đài Loan sẽ cực kỳ tốn kém và đầy thách thức để giành chiến thắng, và tác hại đối với nền kinh tế và vị thế của Trung Quốc trong thương mại toàn cầu sẽ cao một cách thảm khốc.
Bất chấp mối quan hệ thực dụng của họ, Nga và Trung Quốc đã miễn cưỡng ủng hộ hoặc chỉ trích các lập luận quốc tế gây tranh cãi của nhau. Cũng giống như việc Trung Quốc bỏ phiếu trắng lên án Nga về Ukraine và giữ thái độ trung lập về việc sáp nhập Crimea năm 2014, vì vậy Nga đã không chỉ trích Trung Quốc về các yêu sách lãnh thổ của Tây Tạng, Tân Cương và Bắc Kinh ở Biển Đông.
Trong khi việc Trung Quốc miễn cưỡng cung cấp hỗ trợ chính thức thường khiến Nga khó chịu, Liik tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại châu Âu lưu ý rằng sự nhẫn nhịn của Moscow xuất hiện bởi vì Trung Quốc, là một cường quốc đang phát triển, phải được chấp nhận như là “một thực tế địa chính trị của cuộc sống, dù muốn hay không” và bởi vì “Trung Quốc không phạm tội nói cho người khác cách sống.” Vì vậy, ý tưởng về một mối quan hệ “không có giới hạn” giữa Nga và Trung Quốc không có nhiều thực tế.
Trên thực tế, lợi ích của Trung Quốc được thiết lập để khác xa hơn với Nga và hội tụ chặt chẽ hơn với lợi ích của nhiều quốc gia ngày nay đối xử với Trung Quốc với sự nghi ngờ sâu sắc. Điều đó chắc chắn sẽ tạo ra một loạt thách thức riêng, nhưng chúng sẽ chẳng liên quan gì đến Nga hoặc bất kỳ “trục chuyên quyền” nào