Khi Stalin đối mặt với Hitler- Ai hơn ai?

Chủ Nhật, 26 Tháng Mười Một 20179:00 CH(Xem: 8273)
Khi Stalin đối mặt với Hitler- Ai hơn ai?

_66280264_composite.jpg

 Nguồn: “When Stalin Faced Hitler – Who Fooled Whom?”,

Foreign Affair 19/9/2017

Tác Giả: Stephen Kotkin

Biên Dịch: Nguyễn Hữu Toàn

Cho tới trước năm 40 tuổi, Joseph Stalin đạt rất ít thành tựu. Ông sinh năm 1878 trong một gia đình nghèo ở Gori, Georgia, nơi sau này trở thành một phần của đế chế Nga. Cha ông là một người thợ sửa giày và mẹ là thợ giặt và may vá. Thời thơ ấu của Stalin tính cả những lúc đau ốm và bất hạnh có thể xem là khá yên ấm. Kết quả học tập của ông được nhiều điểm tốt, và ở tuổi thiếu niên, nhiều bài thơ của ông đã được xuất bản trên các tạp chí uy tín ở Georgia. (một độc giả sau này hồi tưởng lại, “cho đến tận bây giờ những vần thơ đẹp đẽ, êm đềm này vẫn còn vang vọng trong tai tôi”.) Nhưng ông đã không tham gia kì thi cuối cấp tại trường dòng Tiflis và không thể tốt nghiệp. Thay vì trở thành mục sư, ông đã tham gia vào lực lượng cách mạng ngầm để chống lại sự áp bức của chế độ Nga Hoàng, sau đó ông trải qua 20 năm tiếp theo tổ chức cách mạng, ẩn nấp, ngồi tù và bị đày sang Siberia.

Cuộc đời của Stalin đã mãi mãi thay đổi khi cuộc tổng nổi dậy bùng nổ vào năm 1914, cuộc nổi dậy đã góp phần lật đổ chế độ Nga Hoàng vào tháng 2 năm 1917, và theo sau đó là một cuộc cách mạng chớp nhoáng từ những người cánh tả cấp tiến dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin. Một cách bất ngờ, người đàn ông 39 tuổi Stalin đã trở thành một thành viên trong ban lãnh đạo của chế độ Bolshevik mới.

Ông đóng vai trò trung tâm trong cuộc nội chiến Nga cũng như sự thành lập của Liên Bang Xô Viết. Năm 1922, Lenin tự bổ nhiệm mình là người đứng đầu Đảng cộng sản. Một tháng sau, Lenin gặp cơn tai biến và không còn khả năng lãnh đạo nữa, và Stalin đã nắm lấy cơ hội này để thiết lập một chế độ độc tài của riêng mình bên trong một Đảng lãnh đạo Bolshevik ngày càng được mở rộng. Bắt đầu từ cuối thập niên 1920, trong nỗ lực xây dựng một nhà nước xã hội chủ nghĩa, Stalin đã cưỡng bách 120 triệu nông dân vào mô hình nông trại tập thể, bắt giam hết vào các nhà tù chính trị (gulag) cũng như tàn sát một số lượng lớn những người trung thành trong quân đội, cảnh sát mật, các tòa đại sứ, mạng lưới gián điệp, các nhà khoa học, nghệ sĩ, và các tổ chức đảng phái khác.

Bóng dáng khổng lồ của một Stalin-bạo chúa được ẩn sâu dưới hình hài của Stalin-con người hết sức hiền hòa. Ông sưu tầm đồng hồ, chơi ném ky gỗ và đánh bi-a. Ông thích làm vườn, tắm hơi, thích các bút màu – xanh dương, đỏ và xanh lá. Ông thường uống nước khoáng và rượu lấy từ quê hương Geogia của mình. Ông hút thuốc lá bằng tẩu, và thường bỏ vào trong tẩu 2 điếu thuốc sau đó mới đánh diêm. Đặc biệt, ông luôn sắp xếp bàn làm việc của mình theo một trật tự ngăn nắp.

Stalin rất mê đọc sách, và ông hay đánh dấu và dùng những kẹp sách để ghi nhớ những đoạn văn hay. Thư viện cá nhân của Stalin có hơn 20.000 đầu sách. Ông không những ghi chú thích những tác phẩm của Karl Marx, Lenin mà còn cả những bản dịch tiếng Nga của Plato và Clausewitz, cũng như những tác phẩm của Alexander Svechin, một cựu sĩ quan của chế độ Nga Hoàng và là người mà Stalin không bao giờ tin cậy nhưng ông sĩ quan đã chứng minh được rằng biến số duy nhất trong chiến tranh chính là sự thiếu vắng những biến số đó. Trong số những nhà văn Nga, người mà Stalin hâm mộ nhất có lẽ là Anto Chekhov, người đã khắc họa những nhân vật phản diện cũng như anh hùng với một sự phức tạp đã cuốn hút Stalin. Dù vẫn thường xuyên đánh giá những tư liệu tham khảo rải rác trong những bài viết và trong những bài diễn văn của mình, nhưng ông cũng giành nhiều thời gian để đọc tiểu thuyết văn học thời kì Xô Viết. Những ngôn từ biểu cảm của ông trong lúc đọc thường rất khiếm nhã như: “Đồ rác rưởi,” “ngu ngốc”, “đồ bỉ ổi,” “bực mình,” “ha-ha!”

Cách cư xử của Stalin rất thô lỗ, và ông không có khiếu hài hước. Nhưng ông đã trau chuốt ngoại hình của mình để ra dáng là một lãnh đạo tài ba. Ông cũng lược bỏ những trò đùa và những từ ngữ không cần thiết khỏi các bài diễn văn của mình trong những buổi họp. Ông có vài tình nhân, nhưng lại không có vợ. Cuộc sống gia đình của Stalin không hạnh phúc cũng không buồn tẻ. Cuộc sống cá nhân của ông hòa quyện với chính trị. 

Stalin nói rất nhỏ nhẹ, thỉnh thoảng khó nghe bởi vì thanh quản của ông bị hư. Ông thích được gọi là Koba, lấy theo tên của một vị anh hùng dân tộc ở Georgia (và là một mạnh thường quân ngoài đời thực đã tài trợ cho nền giáo dục của chế độ Stalin). Nhưng một người bạn thân thời thơ ấu đã gọi ông là Geza, một phương ngữ ở Gori để chỉ dáng đi lạ lùng của Stalin, một di chứng để lại sau khi ông bị một tai nạn lúc còn nhỏ. Ông phải đưa hết cái hông sang một bên để bước đi. Cuộc chiến đấu với căn bệnh đậu mùa lúc nhỏ đã để lại những vết sẹo trên mũi, dưới môi, cằm và hai bên má của ông.

Thật cuốn hút khi tìm thấy những nguồn gốc dị dạng như vậy của một nhà độc tài tàn bạo: sự đau khổ, căm thù, thịnh nộ, hăm dọa, và thích những lời xu nịnh. Những vết sẹo được đưa ra khỏi những tấm hình được công khai, và những bước đi kì dị được giấu khỏi tầm mắt của công chúng. (Những thước phim về dáng đi của ông ta đều bị cấm lưu hành.) Nhưng mọi người khi gặp ông đều thấy những biến dạng trong khuôn mặt và sư kì quặc trong bước đi; họ cũng phát hiện ra rằng ông có phong cách bắt tay mềm yếu và không có vẻ cao ráo như khi xuất hiện trong các bức ảnh. Ông cao khoảng 173 cm, bằng với chiều cao của Napoleon và thấp hơn Adolf Hitler 2,5cm. Tuy nhiên, mặc dù người ta đều cảm thấy sốc khi nhìn ông lần đầu– đây có thể là Stalin thật ư? – Nhưng hầu hết mọi người đều thấy rằng họ không thể rời mắt khỏi ông được, đặc biệt là đôi mắt đầy cảm xúc của ông ấy.

CUNG ĐIỆN TRONG MƠ

Stalin nhìn thấy bản thân và đất nước của ông đang bị đe dọa ở mọi hướng. Sau khi nắm được chính quyền năm 1917, Lenin và những đồng chí của ông bị ám ảnh về “sự bao vây của tư bản” mà cuộc đảo chính của họ đã mang lại: giờ đây, căn bệnh ảo tưởng đã ăn sâu, và càng ăn sâu bởi sự ảo tưởng cá nhân của Stalin. Điều này chính là những nghịch lý mâu thuẫn của chính quyền và Stalin đã lập luận rằng đất nước càng tiến gần hơn với chủ nghĩa xã hội, thì sự đấu tranh giai cấp sẽ trở nên dữ dội hơn; Stalin càng nắm nhiều quyền lực, ông ta càng muốn nhiều quyền lực hơn nữa. Những thành tựu đạt được bị phủ bóng bởi mưu đồ lật đổ đã trở thành động lực của cuộc cách mạng và cuộc đời của ông. Bắt đầu từ năm 1929, khi uy tín của nhà nước Xô Viết và nền chuyên chính độc tài của riêng cá nhân Stalin ngày càng gia tăng thì những mối hiểm họa cũng đồng thời tăng theo. Động lực xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa của ông đã tỏ ra thành công và làm choáng váng tất cả, cũng như củng cố một cách sâu sắc sự hoài nghi thái quá và thiên hướng thù địch của ông.

Chủ nghĩa cộng sản là một ý tưởng, một cung điện trong mơ mà sức hút của nó dường như là sự kết hợp của khoa học và sự ảo tưởng, và Stalin chính là một nhà tư tưởng của nó. Trong quan niệm của chủ nghĩa Mác-xít, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra rất nhiều của cải bằng việc thay thế chế độ phong kiến, nhưng sau đó nó chỉ phục vụ cho những lợi ích của tầng lớp bóc lột bằng cái giá phải trả của những tầng lớp còn lại của nhân loại. Một khi chủ nghĩa tư bản bị đánh bại, những lực lượng sản xuất sẽ được giải phóng chưa từng thấy. Sự bóc lột, thuộc địa hóa, và các cuộc chiến tranh đế quốc sẽ nhường chỗ cho tình đoàn kết, giải phóng, và hòa bình. Chắc chắn rằng, chủ nghĩa xã hội trên thực tế sẽ khó mà tưởng tượng được. Nhưng dù chuyện gì xảy ra, thì đó không thể là chủ nghĩa tư bản được. Về mặt logic, chủ nghĩa xã hội được xây dựng để xóa bỏ tư hữu, thị trường, và chính quyền của “giai cấp tư bản” và thay vào đó bằng sở hữu tập thể, kế hoạch xã hội chủ nghĩa, và chính quyền nhân dân. Tất nhiên, chính Stalin và những người Mác-xít thừa nhận, tầng lớp tư bản sẽ không bao giờ cho phép họ bị kẻ thù tiêu diệt. Thay vào đó, họ sẽ chiến đấu đến cùng để chống lại chủ nghĩa xã hội, dùng đến bất kì phương tiện nào – dối trá, gián điệp, giết người – bởi vì đây là cuộc chiến mà chỉ một giai cấp đứng lên giành lấy chiến thắng mà thôi. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội cũng sẽ sử dụng bạo lực quần chúng và các mánh khóe để chống lại. Những tội ác khủng khiếp nhất đã biến thành những hành động mang tính bắt buộc về mặt đạo đức trên danh nghĩa của việc tạo ra một thiên đường trên trái đất.

Nội dung khoa học của chủ nghĩa Mác-Lenin bề ngoài giải thích tại sao thế giới tồn tại quá nhiều những mâu thuẫn (về giai cấp) và cách để cải tạo (bằng đấu tranh giai cấp), với một vai trò cho tất cả mọi người. Cuộc sống tầm thường của nhân dân mặt khác sẽ được liên kết lại để xây dựng một thế giới hoàn toàn mới. Để thu gom hạt ngũ cốc hay vận hành máy tiện cũng chính là hành động góp phần vào việc thực hiện một cú đánh vào thế giới của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng nó lại không làm tổn thương gì đến những người tham gia chỉđể thu lợi cho cá nhân: chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa cơ hội luôn được gia cố. Những oán giận tích tụ cũng sẽ làm tăng khát vọng để có một cuộc sống ý nghĩa. Vì thế, những người dưới 29 tuổi chiếm gần một nửa dân số của Liên Xô, góp phần đưa đất nước trở thành một trong những quốc gia có dân số trẻ nhất trên thế giới, và giới thanh niên đã tỏ ra đặc biệt cuốn hút vào một tầm nhìn đã đặt họ vào trung tâm của cuộc chiến đấu xây dựng cho ngày mai ngay từ hôm nay.

Stalin đã cá nhân hóa tầm nhìn cao quý đó của chủ nghĩa cộng sản. Một sự sùng bái được dựng lên xung quanh ông, tôn vinh ông như là “vozhd”, một từ Slavic cổ có nghĩa như là “lãnh đạo tối cao” – tương đương với tiếng Nga là “lãnh tụ” hay “führer.” Stalin phản đối sự sùng bái, tự gọi mình “chẳng là gì khi so với Lenin.” Theo lời của một trợ lý thân cận của ông là Anastas Mikoyan, Stalin đã từng khiển trách một viên chức Liên Xô, nói rằng, “tại sao ông chỉ ca ngợi mình tôi, như thể tôi là người quyết định mọi chuyện vậy?”. Cho dù những phản đối như vậy của Stalin phản ánh một sự khiêm tốn giả tạo hay là một cử chỉ xấu hổ thật sự thì đó vẫn còn là điều khó nói, nhưng ông ta dần cho phép những lời ca tụng không ngớt mà ông nhận được từ công chúng. “Thoạt đầu”, Vyacheslav Molotov nhớ lại, một trợ lý quan trọng của Stalin qua nhiều thập niên, “Ông ta phản đối sự sùng bái cá nhân, nhưng sau đó ông ta dần dần thấy thích thú với điều này.”

Stalin là một nhà cai trị không khoan nhượng với những lực lượng đối lập. Ông ta có thể đùng đùng nổi giận; cũng có thể dịu dàng với một nụ cười nhẹ nhàng và sảng khoái. Ông có thể quan tâm và cuốn hút; ông theo đuổi những khuynh hướng trả thù một cách ép buộc. Ông tự hào về sự đam mê đọc sách của mình và khả năng trích dẫn những châm ngôn của Mác và Lenin; ông căm ghét những trí thức giả tạo người mà họ luôn nghĩ mình giỏi hơn tất cả. Ông sở hữu một bộ nhớ phi thường và tầm nhìn rộng lớn; phạm vi hiểu biết của ông bị hạn chế sâu sắc bởi những lý thuyết nguyên sơ về đấu tranh giai cấp và chủ nghĩa đế quốc. Ở ông đã phát triển một cảm giác về những khác vọng của quần chúng nhân dân và tầng lớp tinh hoa đang phôi thai; Stalin hầu như không bao giờ đến thăm những công xưởng hay nông trại, hoặc thậm chí những cơ quan nhà nước, thay vào đó ông đọc những bản báo cáo mật và các bài báo về đất nước mình đang cai trị. Ông hoài nghi về những động cơ hiển nhiên cơ bản của tất cả mọi người; ông ta sống và hít thở bằng những lý tưởng của riêng mình.

Stalin làm những điều mà những nhà lãnh đạo tài giỏi vẫn hay làm: ông ta khởi xướng và hướng đến mục tiêu kiên định, trường hợp của ông là một nhà nước hùng mạnh được hậu thuẫn bởi một xã hội đoàn kết đã đẩy lùi chủ nghĩa tư bản và xây dựng nền công nghiệp xã hội chủ nghĩa. “Đáng sợ” và “xuyên tạc” không phải là từ ngữ để mô tả về ông. Đồng thời với đó, Stalin kích động hàng triệu người vào những công việc này. Bộ máy chính quyền khổng lồ của Stalin được bắt nguồn từ một Đảng duy nhất, những cơ quan quản lý tàn bạo, và hệ tư tưởng Mác-Lenin. Nhưng quyền lực của ông đã bị cường điệu lên nhiều lần bởi những người thường dân, những người đã gửi gắm vào ông những khao khát của họ về công bằng xã hội, hòa bình, thịnh vượng, và một quốc gia vĩ đại. Những nhà độc tài tích lũy được quyền lực to lớn thường có xu hướng lui về với những mưu cầu cá nhân, diễn giải dong dài về những nỗi ám ảnh của họ và làm tê liệt nhà nước. Nhưng nỗi ám ảnh của Stalin là về một chính quyền xã hội chủ nghĩa vĩ đại, và ông đã lao động cả ngày lẫn đêm để xây dựng nó. Stalin là một nhân vật huyền thoại, nhưng ông ta đã chứng tỏ mình xứng đáng với sự so sánh đó.

“MỘT KẺ ĐÁNG SỢ”

Hitler trẻ hơn Stalin 11 tuổi, sinh năm 1889 ở một vùng biên giới giữa hai nước Áo-Hung. Cha ông qua đời khi ông mới 13 tuổi và mẹ ông mất năm lên 18. (Bác sĩ người Do Thái, người đã chăm sóc mẹ ông đã kể lại rằng trong 40 năm hành nghề y của mình, ông ta chưa bao giờ thấy ai đau khổ về cái chết của mẹ mình như là Hitler.) Ở tuổi 20, Hitler trông thấy mình thật thảm hại ở Vienna, di sản và tiền tiết kiệm của ông đã gần cạn kiệt. Ông đã 2 lần bị từ chối vào Học viện mỹ thuật Vienna (“lý do bài vẽ hình theo mẫu không đáp ứng yêu cầu”) và ông đã cư ngụ trong những nhà tạm cho người vô gia cư đằng sau một ga xe lửa. Một người lang thang ở giường bên đã hồi tưởng lại rằng “quần áo của Hitler toàn là chấy rận, bởi vì ông đã lang thang trong nhiều ngày ở ngoài đường và trong tình trạng bẩn thỉu kinh khủng.” Chẳng bao lâu sau, với một khoản vay nhỏ từ một người Dì, Hitler đã tìm được một nhà chung cư giành cho đàn ông. Ông cũng kiếm được những công việc lặt vặt, như là vẽ hình trên những bưu thiếp và phát thảo những biển quảng cáo. Ông cũng thường xuyên vào những thư viện công cộng của thành phố, nơi ông đã đọc nhiều tiểu luận về chính trị, báo chí, về triết gia Arthur Schopenhauer, và tiểu thuyết về Karl May, bộ truyện những ngày đối đầu của người cao bồi và người Da Đỏ ở vùng miền Tây nước Mỹ hay cảnh đẹp ở vùng Cận Đông.

Hitler trốn lệnh nhập ngũ ở Áo. Khi bị chính quyền bắt, họ cho rằng ông không đủ điều kiện sức khỏe và không phù hợp để tòng quân. Ông vượt biên sang Munich, và vào tháng 8 năm 1914, ông tham gia quân đội Đức với cấp bậc là lính binh nhì. Khi thế chiến thứ nhất kết thúc, ông vẫn là lính binh nhì, nhưng những diễn biến thời hậu thế chiến đã thay đổi cuộc đời ông. Ông nằm trong số những người chuyển từ lực lượng chính trị cánh tả sang cánh hữu sau thất bại thảm hại của Đế quốc Đức.

Những thước phim từ năm 1918 chiếu cảnh Hilter đang đi bộ trong đám tang của một người lãnh đạo ở xứ Bavaria, một người Do Thái của Đảng Dân Chủ Xã Hội; ông mang hai băng tay, một cái màu đen (cho việc để tang) và một cái màu đỏ. Vào tháng 4 năm 1919, sau khi Đảng Dân Chủ Xã Hội và những thành phần vô chính phủ thành lập nhà nước Cộng Hòa Xô Viết Bavaria, những lực lượng cộng sản đã nhanh chóng chiếm được chính quyền; Hitler đã suy nghĩ về việc tham gia Đảng Dân Chủ Xã Hội, phục vụ với vai trò là một đại diện cho nhóm lực lượng của Xô Viết (hội đồng Xô Viết). Ông không phải là người trong nghề để làm đại diện nhưng có vẻ ông phải tham gia vào lực lượng tuyên truyền cho lực lượng bên cánh tả. 10 ngày trước sinh nhật lần thứ 30 của Hitler, nhà nước Cộng Hòa Xô Viết Bavaria nhanh chóng bị nghiền nát bởi một lực lượng gọi là Freikorps, thành phần chủ yếu là những cựu quân nhân thời chiến tranh. Hitler vẫn tại ngũ bởi vì một vị lãnh đạo cao cấp của bộ phận “thông tin” trong quân đội Đức đã có ý định gửi ông ta vào một khóa học hướng dẫn chống những người cánh tả và sau đó sử dụng ông để thâm nhập vào những nhóm lực lượng cánh tả này. Viên sĩ quan đó kể lại rằng Hitler “giống như một chú chó mệt mỏi và lạc lối, đang đi tìm một vị lãnh tụ” và “sẵn sàng phó mặc số phận của mình để đến với người nào thể hiện sự chân thành đối với ông ta.” Nhiệm vụ làm người truyền tin đã đưa Hitler tham gia vào một nhóm nhỏ lực lượng cánh hữu là Đảng Công Nhân Đức, được thành lập để lôi kéo công nhân tránh xa chủ nghĩa cộng sản và cũng chính Đảng này mà Hitler, với sự giúp sức của lực lượng bài người tị nạn Do Thái cực đoan từ Đế quốc Nga cũ, đã chuyển đổi thành Đảng Công Nhân Đức Quốc Gia Xã Hội Chủ Nghĩa, hay Đảng Quốc Xã (Nazi Party).

Mặc dù ông đã bắt đầu kiếm được một chút danh tiếng với vai trò là một người kích động những người cánh tả cực đoan, Hitler vẫn còn là một nhân vật không quan trọng lắm. Khi Stalin trở thành Tổng bí thư mới của Đảng cộng sản lãnh đạo một nhà nước lớn nhất thế giới, Hitler bị tù giam sau nỗ lực chiếm chính quyền bất thành vào năm 1923 ở Munich, biến cố mà sau này bị chế nhạo là “cuộc đảo chính ở quán bia”. Ông bị kết án với án tù 5 năm. Dù vậy, ông vẫn cố gắng biến bản án của mình thành thắng lợi cuối cùng. Một trong những thẩm phán đã nhận xét rằng, “thật là một kẻ đáng sợ, tên Hitler này!” Thực vậy, mặc dù Hitler là công dân của Áo, vị thẩm phán chủ tọa vẫn cho phép ông ta ở lại Đức, với lý do là luật quy định trục xuất “không thể áp dụng vào một con người có suy nghĩ và tình cảm giống người Đức như tên Hitler này, kẻ đã tình nguyện phục vụ hơn 4 năm rưỡi trong quân đội Đức ở thời chiến, kẻ đã có được những danh tiếng bởi sự dũng cảm phi thường khi đối mặt với kẻ thù, và đã bị thương.”

Suốt 2 tuần đầu ở trong tù, Hitler đã tuyệt thực, vì tin rằng ông xứng đáng được chết, nhưng những lá thư đã được gửi đến ca tụng ông như là vị anh hùng dân tộc. Con dâu của Richard Wagner là Winifred, đã gửi bút và giấy để động viên Hitler viết một quyển sách. Hitler có một người phụ tá trong tù đó là Rudolf Hess, người đã chép chính tả cho ông và tạo nên một cuốn tự truyện để tưởng nhớ đến 16 chiến sĩ của Đảng Quốc Xã đã hi sinh trong cuộc đảo chính bất thành. Trong cuốn “Mein Kampf” (Con đường tranh đấu của tôi), Hitler mô tả bản thân như là người được số phận lựa chọn và thề sẽ khôi phục lại nước Đức để trở thành một cường quốc cũng như quét sạch người Do Thái ra khỏi đất nước, và ông tự phong mình là “kẻ thù của chủ nghĩa Mác-xít.” Vào tháng 12 năm 1924, sau khi chỉ ngồi tù có 13 tháng, Hitler được thả. Nhưng quyển sách của ông có rất ít người mua, quyển thứ hai cũng thất bại trong việc tìm kiếm nhà xuất bản, và Đảng Quốc Xã của ông đang vật lộn với cuộc bầu cử. Bá tước D’Abernon, đại sứ của Anh ở Berlin thời điểm đó, đã tóm tắt cuộc sống chính trị của Hitler sau khi được cho ra tù sớm như là “đang biến dần vào hư vô.”

Nhưng lịch sử chứa đựng nhiều sự bất ngờ. Rằng nhân vật người Áo này từ thành viên của một phong trào chính trị nhỏ lẻ đã trở thành một nhà độc tài của Đức, và là đối thủ chính của Stalin, điều mà không ai có thể tưởng tượng được vào năm 1924. Nhưng Hitler hóa ra là một nhà hùng biện bậc thầy: thường không kiên định, nhưng người đàn ông này sỡ hữu những ý tưởng cấp tiến và nhận thức được con đường cuối cùng ông sẽ đi cũng như nắm bắt được những cơ hội đưa đến với ông. Stalin cũng là một nhà chiến lược theo chiều hướng như vậy: một người với những ý tưởng cấp tiến có thể nhận thức và nắm bắt những cơ hội mà ông không bao giờ tạo ra nhưng lại biết cách biến chúng thành lợi thế của mình. Những cơ hội quý giá nhất được Stalin và Hitler nắm bắt thường được xem là “những mối đe dọa” khẩn cấp mà họ đã thổi phồng lên hay tự phát minh ra. Lịch sử được dẫn dắt bởi những tác động của địa-chính trị, những thể chế, và những ý tưởng – nhưng phải có những tác nhân của lịch sử để những những yếu tố này có thể vận hành được.

Kinh nghiệm của bản thân Stalin về nước Đức chỉ là một vài tháng ở Berlin vào năm 1907, nơi ông dừng chân khi đang trên đường trở về Nga từ một cuộc họp của Đảng Bolshevik ở London. Ông đã từng học tiếng Đức nhưng không bao giờ thành thạo nó. Nhưng giống như những nhà cầm quyền trước của chế độ Nga Hoàng, Stalin là một người sùng bái nước Đức, ngưỡng mộ hệ thống công nghiệp và khoa học ở đất nước này chỉ với bằng một từ, đó là sự hiện đại của nó. Nhưng trong một thời gian dài, Stalin không hề biết đến sự tồn tại của Hitler.

Sau đó vào năm 1933, Hilter được chọn làm người lãnh đạo bộ máy nhà nước vĩ đại mà Stalin hết sức ngưỡng mộ. Cuộc đời của hai nhà độc tài tồn tại song song với nhau, như nhà sử học Alan Bullock đã từng viết như vậy. Nhưng đó là điểm giao nhau có ý nghĩa quan trọng: Hai người đàn ông đến từ hai phạm trù xã hội khác nhau đều hồi sinh và tái tạo lại đất nước mình một cách tàn bạo, nhưng cả hai đều không nhận thức được (và sau này mới nhận ra) họ đang được kéo lại gần nhau hơn bao giờ hết. Hóa ra không chỉ có người Đức chờ đợi Hitler mà thôi (còn cả Stalin nữa – ND).

ĐỐI MẶT

Vào thứ bảy, ngày 21 tháng 6, năm 1941, Stalin sải bước trong văn phòng của ông ở điện Kremlin, với những bước đi ngắn thường thấy và tay cầm chặt chiếc tẩu thuốc. Bên trong kiến trúc hình tam giác của điện Kremlin, Thượng viện Hoàng gia đã hình thành một pháp đài hình tam giác, và phía bên cánh của Stalin là một pháo đài nằm trong số những pháo đài dày đặc. Thậm chí những cán bộ của chế độ với thẻ ra vào điện Kremlin thông thường cũng phải cần giấy phép đặc biệt để đi vào khu vực của Stalin. Nơi đó được những người bên trong của chế độ biết đến với cái tên “Góc Nhỏ” (Little Corner). Những bức tường trong các văn phòng được lót với những bản gỗ cao ngang vai, có ý kiến rằng hơi từ gỗ giúp tăng cường chất lượng của không khí, và những chiếc thang máy được gắn những ô gỗ Mahogany. Phía sau bàn làm việc của Stalin có treo chân dung của Lenin. Trên một góc bàn, ông trưng bày chiếc mặt nạ của Lenin đeo khi ông ấy qua đời. Một cái bàn nhỏ khác có gắn nhiều chiếc điện thoại. (“Stalin”, ông sẽ trả lời như vậy khi bắt điện thoại lên.) Bên cạnh cái bàn có để một cái bát với nhiều trái cây tươi. Ở phía sau căn phòng có một cánh cửa dẫn đến phòng thư giãn (mặc dù căn phòng này hiếm khi được sử dụng với mục đích như vậy), với những bức bản đồ thế giới to tướng treo trên tường. Ở căn phòng làm việc chính, chính giữa 2 trong 3 cánh cửa sổ lớn dùng để đón ánh nắng mặt trời vào buổi chiều, có để một chiếc ghế da dài màu đen, nơi mà lúc ông có tâm trạng vui vẻ, Stalin thường thưởng thức chút trà chanh ở đó.

Trong suốt nhiều năm, những người được diện kiến với ông thường đồn đoán rằng ông bước đi để kiểm soát tính khí bốc đồng của mình, hay nói cách khác, để làm nản lòng những người làm việc dưới quyền ông. Lúc nào cũng vậy, ông luôn là người duy nhất đứng trong phòng bước qua bước lại, lén tới những người đang nói chuyện. Chỉ một số ít người thân cận mới biết rằng Stalin chịu những cơn đau gần như liên tục ở những khớp chân của ông, triệu chứng có thể do ảnh hưởng của di truyền và việc di chuyển sẽ giúp cơn đau phần nào được giảm bớt. Stalin cũng thường đi bộ quanh điện Stalin, thường là đi một mình, sờ vào những chiếc lá trên cành cây và đuổi những con quạ đen bay đi. (Sau đó, lính canh sẽ đến và giết những con quạ đó.)

Stalin đã loại bỏ tư hữu và tự gánh vác trách nhiệm đưa Xô Viết lên ngang tầm với Washington, phố Wall, và Hollywood, tất cả gộp lại thành một, và chỉ gộp lại thành một người mà thôi. Ông ấy phàn nàn về sự mệt mỏi, đặc biệt lúc về cuối những ngày dài làm việc của ông, và ông cũng bị chứng bệnh mất ngủ, một tình trạng sức khỏe mà công chúng không được biết đến. Chỉ một nhóm nhỏ những người trong nội bộ biết về những căn bệnh nhiễm trùng gây ra những cơn sốt kéo dài của ông. Những lời đồn đại về những vấn đề sức khỏe của ông đã lan truyền ra cả nước ngoài, và việc sử dụng những bác sĩ ngoại quốc từ lâu đã bị đình chỉ. Nhưng chỉ một số ít những bác sĩ ở Nga có được những kiến thức chuyên sâu về bệnh lý cũng như tình trạng biến dạng về cơ thể của ông ấy, bao gồm việc ít khi sử dụng vai phải, tình trạng bạc màu của những cái móng bên bàn chân phải, và những ngón có màng bên bàn chân trái (trong truyền thống dân gian của người Nga, đó làm một điềm báo về sự chi phối của quỷ Satan). Trong một thời gian dài, Stalin không muốn gặp bất kì người bác sĩ nào, và đã ngừng sử dụng thuốc từ nhà thuốc ở điện Kremlin. Những người giúp việc tại nhà đã bị cấm mang bữa ăn cho ông từ căn-tin ở điện Kremlin, thay vào đó họ phải nấu bữa ăn từ nhà của ông và phải thử trước cái đĩa ăn trước sự chứng kiến của ông ấy. Hậu quả là bao tử của Stalin bị đau nặng, do đó ông ta thường xuyên phải hứng chịu những cơn tiêu chảy.

Thượng viện Hoàng gia được xây dựng từ một nữ hoàng gốc Đức của Nga, Catherin Đại Đế vì mục tiêu “mang lại thắng lợi cho Đế quốc Nga.” Vài thập niên sau khi khánh thành, vào đầu mùa thu năm 1812, Napoleon cùng đội quân xâm lược của ông kéo đến đây. Những thành viên trong đội quân chủ lực của Pháp là Grande Armée – bao gồm nhiều người theo đạo Tin Lành và Công giáo đến từ Đức, Ý, và Ba Lan – đã đào thoát từ những nhà thờ của Giáo hội chính thống Kremlin và ra sức phỉ báng vào những biểu tượng tôn giáo. Cuối cùng dưới sự chống cự khôn ngoan của người Nga đã làm cho những lực lượng xâm lăng phải khổ sở vì đói, trước khi rút quân một lực lượng của Napoleon đã ra lệnh nghiền nát điện Kremlin thành từng mảnh. Những cơn mưa xối xả đã hạn chế được thiệt hại, nhưng những chất nổ đã phá hủy một số phần trên những bức tường và những pháo đài. Sau đó Thượng viện Hoàng gia phải chịu một đám cháy lớn.

Những hành lang dài được trải thảm đỏ xung quanh Góc Nhỏ có mặt khắp nởi của đội quân canh lính gác. “Xem thử có bao nhiêu lính canh ở đây?” Stalin hỏi một viên chỉ huy quân đội. “Mỗi lần tôi đi qua hành lang này, tôi đều nghĩ, tên này? Nếu là tên này, hắn ta sẽ bắn tôi từ phía sau, và nếu là một tên khác ở lối rẽ kia, hắn sẽ bắn tôi từ phía trước.” Viên tướng đó đã rất kinh ngạc bởi sự hoang tưởng như vậy: sau tất cả, đã không có bất kì một cuộc ám sát thuần túy nào đối với Stalin. Nhưng “người đàn ông Sắt đá này” – “sâu hơn cả đại dương, cao hơn dãy Himalaya, sáng hơn cả vầng thái dương, người thầy của vũ trụ,” theo lời nhận xét của một nhà thơ từ Kazakh – đang bị theo dõi từ xa.

Vào mùa hè của năm 1941, dường như rõ ràng là Hitler sẽ giành chiến thắng trong thế chiến thứ hai. Ông ta đã sáp nhập quê hương Áo của mình vào Đức và cả những vùng đất của Czech, phần lớn Ba Lan, một dải đất của Lithuania, tất cả tạo nên một nước Đức còn rộng lớn hơn cả nước Đức của Otto von Bismarck vào năm 1871 sau khi ông này tiến hành thận trọng cuộc chiến thống nhất nước Đức (khi cho rằng sự tồn tại của Đế quốc Áo-Hung là cần thiết cho chiến lược cân bằng quyền lực). Những lực lượng của Hitler đã đánh chiếm được vùng Balkans, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Na-uy, và miền bắc nước Pháp; cùng với việc thu phục những lãnh đạo trung thành với “lãnh tụ” cai trị các nước Bulgaria, Croatia, Phần Lan, Hungary, Ý, Romania, và Tây Ban Nha. Hitler đã kiểm soát những nơi trọng yếu của Châu Âu từ eo biển Anh ở phía Tây đến biên giới phía Đông của Liên Xô; chỉ hai nước Thụy Điển và Thụy Sĩ vẫn còn giữ trạng thái trung lập, nhưng cả hai đều đang có hợp tác kinh tế với nước Đức Quốc xã. Thật vậy, chỉ còn có người Anh cứng đầu là vẫn từ chối những điều khoản hợp tác, nhưng London không bao giờ có thể lật đổ được sự thống trị lục địa Châu Âu của Berlin.

Stalin vẫn đang quan sát chặt chẽ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô được ký kết vào tháng 8 năm 1939. Vào thời điểm đó, Hitler đã quyết định xâm chiếm Ba Lan bằng vũ lực để ngăn ngừa việc thành lập một liên minh chống Đức giữa Liên Xô, Pháp và Anh. Stalin đòi được những điều khoản có lợi nhất. Khi đội quân của Hitler tung hoành hầu hết các lãnh thổ của Châu Âu, Stalin đã tránh đụng độ với sức mạnh quân sự của Đức và lợi dụng tình hình đó, Liên Xô xâm chiếm và sớm sáp nhập các nước ở vùng Baltic, đông Ba Lan, và các vùng Đông Âu của Bukovina và Bessarabia. Hơn thế nữa, thông qua việc trao đổi ngũ cốc và dầu, Stalin được nhận về những thiết bị máy móc hiện đại và những vũ khí tối tân từ nước Đức.

Việc thử nghiệm chính sách đối ngoại đầy rủi ro của Stalin đã cho thấy rõ ông là một kẻ ranh mãnh, cũng như cơ hội, tham lam, và cứng rắn. Chiến thuật của ông trước sau như một: chuẩn bị chiến tranh với việc xây dựng lực lượng vũ trang ở quy mô lớn, tuy vậy phải làm tất cả có thể để tránh giao chiến trong khi chờ đợi Anh và Đức triệt tiêu lẫn nhau. Chiến lược này đã có tác dụng cho đến khi Đức – vì được cung cấp nguồn nguyên liệu thô dồi dào từ Liên Xô – đã chiếm được Pháp vào mùa hè 1940, và lúc này Đức đã rãnh tay để hướng lực lượng của mình về phía Liên Xô. Hai đối thủ về địa-chính trị và ý thức hệ, sau kết quả của việc chia sẻ tối đa sự mở rộng lãnh thổ của mình, đã đến lúc phải đối đầu với nhau.

Giờ đây, sau gần nửa năm lan tràn những tin đồn trái ngược về một khả năng xâm lược của nước Đức đối với Liên Xô, lực lượng tình báo đã cảnh báo về một cuộc chiến tranh khổng lồ sắp xảy ra và nó đang đến gần từ mọi hướng. Ở Moscow, các nhân viên trong tòa đại sứ của Đức được lệnh di tản, họ tất bật thu nhặt những bức tranh sơn dầu, các tấm thảm cổ, và bạc. Lực lượng cảnh sát mật của Xô Viết báo cáo lại rằng lãnh sự quán của Ý cũng vậy, họ đã nhận được những chỉ thị để di tản. Sáng sớm nay, một nhân viên Liên Xô ở Bulgaria đã báo cáo rằng một gián điệp của Đức bảo sẽ có “một cuộc đối đầu quân sự được dự tính xảy ra vào ngày 21 hoặc 22 tháng 6.” Lãnh đạo cộng sản của Trung Quốc là Chu Ân Lai cũng tình báo cho những viên chức ở Comintern, một tổ chức cộng sản quốc tế, nói rằng đối thủ chính trị trong nước của ông là Tưởng Giới Thạch, “khẳng định chắc chắn rằng Đức sẽ tấn công Liên Xô, và thậm chí còn đưa ra thời gian cụ thể là: ngày 21 tháng 6, năm 1941!” Điều này đã thúc giục người đứng đầu của Comintern gọi ngay cho Molotov. “Tình hình vẫn chưa rõ ràng,” Molotov bảo ông. “Có một cuộc chiến lớn đang được tiến hành. Và có những chuyện chúng ta không thể tự quyết định được.”

TIN GIẢ

Đó là một ngày nóng bức, ngột ngạt, và viên sĩ quan phụ tá hàng đầu của Stalin, tướng Alexander Poskryobyshev đang đổ mồ hôi nhể nhại, cửa sổ của ông để mở nhưng bên ngoài những chiếc lá trên cành vẫn đứng yên phẳng lặng. Là con trai của một người thợ giày, giống như ngài lãnh tụ mà ông đang phục vụ, văn phòng của Poskryobyshev nằm ngay ở mặt ngoài mà những vị khách nào vào diện kiến Stalin cũng phải đi qua, và lúc nào cũng vậy họ sẽ hỏi ông những câu hỏi như – “Ông biết vì sao ngài lãnh tụ gọi tôi vào không?” “tâm trạng của ông ấy bây giờ như thế nào?” – và ông chỉ trả lời ngắn gọn, “ông sẽ biết thôi.” Ông ta là người không thể thay thế, trả lời mọi cuộc gọi đến và xử lý những đống giấy tờ đúng theo cách mà ngài lãnh tụ mong muốn. Nhưng Stalin đã lệnh cho Lavrenti Beria, người đứng đầu lực lượng cảnh sát mật đáng sợ, bỏ tù người vợ thân yêu của Poskryobyshev vì đi theo chủ nghĩa “Trotskyite” vào năm 1939. (Beria đã gửi một giỏ lớn trái cây cho 2 người con gái của họ; sau đó Stalin đã xử tử mẹ của chúng.)

Poskryobyshev ngồi ở bàn làm việc và cố gắng hạ nhiệt bằng một chai nước khoáng. Theo chỉ thị của Stalin, vào lúc 2:00 chiều ông phải gọi điện tới tướng Ivan Tyulenev, chỉ huy quân đội khu vực Moscow. Không lâu sau, vị tướng nghe được giọng nghẹt nghẹt của Stalin hỏi rằng, “Đồng chí Tyulenev, tình hình hệ thống phòng không của Moscow như thế nào rồi?” Sau một báo cáo ngắn, Stalin nói tiếp, “Nghe này, tình hình có vẻ không ổn lắm vì thế ông nên tăng cường hệ thống phòng không của Moscow lên 75% trạng thái sẵn sàng.”

Poskryobyshev đặt thông tin tình báo mới nhất, được chuyển từ một người đưa tin ngoài trận địa lên bàn làm việc của Stalin. Hầu hết những thông tin này đều là tin đồn, chứ không phải là những tài liệu nào đó được đánh cắp. Những báo cáo có vẻ trái ngược nhau, làm phức tạp thêm tình hình với những thông tinh hoàn toàn sai lệch, và việc này thường đem đến sự nghi ngờ. Ở London, đại sứ của Liên Xô ở Vương Quốc Anh đã viết một bản báo cáo rằng ông xem xét một cuộc tấn công từ người Đức là “không thể xảy ra” cho dù đã nhận được thông tin trái ngược từ sự chặn đứng của người Anh về những liên lạc bí mật của quân đội Đức. Tuy nhiên, viên Đại sứ của Liên Xô ở Đức, sau nhiều tháng do dự, cuối cùng đã quả quyết rằng những hành động của Đức báo hiệu một cuộc xâm lăng sắp xảy ra. Nhưng Stalin đã kết luận một cách rõ ràng rằng viên chức ngoại giao của ông ở Berlin đã bị những thông tin sai lệch đánh lạc hướng và nhận xét rằng ông ta “không phải là một người thông minh.”

Đối với Stalin, câu hỏi đặt ra không phải là liệu cuộc chiến với nước Đức Quốc xã có thể tránh được hay không mà là làm thế nào để tránh cuộc chiến đó xảy ra vào năm nay (năm 1941). Càng lúc càng có nhiều hơn các bằng chứng cảnh báo về cuộc xâm lăng xuất hiện trên bàn làm việc của ông, nhưng 14 ngày cụ thể được lực lượng tình báo xem là ngày Đức sẽ tấn công đã bị loại trừ. Những khả năng còn lại chỉ còn “ngày 22-25 tháng 6” và “21 hoặc 22 tháng 6.” Khoảng thời gian cho một cuộc xâm lăng sẽ sớm đóng lại, bởi vì không bao lâu nữa mùa đông sẽ đến. Và Stalin chắc chắn được yên ổn thêm một năm nữa.

Tất nhiên, những cảnh báo về cuộc chiến sắp tới thậm chí còn tràn ngập ở khắp các mặt báo trên thế giới. Nhưng Stalin biết rõ công dụng của báo chí, và ông ta đã giật những cái tít đầy kinh hãi để gieo vào đó sự khiêu khích cho đối phương. Ông lập luận rằng những người Mỹ và người Anh không muốn gì hơn việc Đức và Liên Xô sẽ bị cuốn vào vòng xoáy của chiến tranh. Tất nhiên là ông đã đúng. Nhưng sau đó, ông đã phớt lờ tất cả những cảnh báo về cuộc tấn công của người Đức. Ông biết rằng nước Đức đang trải qua sự thiếu thốn nghiêm trọng và cho rằng họ vẫn cần nhiều nguồn tiếp tế hơn nữa từ Liên Xô, vì vậy một cuộc xâm lược của người Đức đồng nghĩa với việc tự sát bởi vì họ sẽ không còn được nhận những nguồn cung cấp đó nữa. Stalin còn biết xa hơn đó là nước Đức bại trận ở thế chiến thứ nhất bởi vì họ phải chiến đấu ở cả hai mặt trận Đông-Tây, và vì thế ông cho rằng người Đức hiểu rằng sẽ là tự sát nếu họ tấn công Liên Xô ở phía Đông khi vẫn chưa khuất phục được nước Anh ở phía Tây.

Kiểu suy luận như vậy đã trở thành một cái bẫy cho Stalin, khiến ông ta kết luận rằng việc xây dựng lực lượng quân đội khổng lồ của người Đức ngay trước cửa ngõ của Liên Xô không phải là dấu hiệu cho một cuộc tấn công sắp xảy ra mà là Hitler đang cố gắng hăm dọa Stalin để buộc ông phải nhường lãnh thổ và nhượng bộ mà không cần phải chiến đấu. Thực tế đó là một chiến dịch tung tin giả thông minh của Đức Quốc Xã đã đánh lừa được mạng lưới gián điệp toàn cầu của Liên Xô với những báo cáo không ngớt về việc Đức đòi hỏi rằng sẽ theo đuổi việc xây dựng một lực lượng quân đội khổng lồ ở phía Đông. Vì vậy, thậm chí lực lượng tình báo giỏi nhất của Stalin cũng cho rằng việc chiến tranh đang đến và đó chỉ là đòn hăm dọa. Và nếu điều này là đúng, thì chiến tranh cũng không còn cần thiết nữa.

Vì thế, khi Stalin chỉ trích lực lượng tình báo của ông đã bị đầu độc bởi những thông tin sai lệch, thì ông ta đã đúng. Nhưng vị lãnh đạo độc tài này cũng không biết phần nào là giả và phần nào là tình báo chính xác. Vì thế ông gán cái tên “tin giả” cho bất kì thông tin nào mà ông quyết định không tin vào.

SẴN SÀNG CHƯA, CHÚNG TÔI TỚI ĐÂY

Đại tá Georgy Zakharov, một phi công chiến đấu đã nhận lệnh thực hiện một chuyến do thám nguyên ngày ở vùng biên giới bên phía Đức, và ông đã báo cáo rằng quân đội Đức đã ở tình trạng sẵn sàng tiến quân. NKGB, cơ quan cảnh sát ngầm của Liên Xô, đã phát hiện ra rằng người Đức đã phá hoại một cách trắng trợn ở dọc biên giới và họ đã nhận được chỉ thị rằng “trong trường hợp lực lượng của Đức vượt qua biên giới trước khi họ quay lại Đức, họ phải báo cáo cho bất kì đơn vị Đức nào đang đóng ở lãnh thổ Liên Xô.” Lực lượng chống tình báo của Liên Xô đã lưu ý việc Đức đã tuyển mộ những người bất mãn với chế độ vào quân đội một cách ào ạt ở vùng Baltic, Belarus, và Ukraine, những người này từ lâu đã thành lập những lực lượng ngầm và tham gia vào khủng bố sau sự kiện thủ tiêu được cho là của Stalin đối với lực lượng thứ 5 trong thời kì Đại Thanh Trừng. Hệ thống đường sắt quá tải của Liên Xô cần phải vận chuyển quân dụng về phía Tây đã bị vô hiệu hóa với hàng vạn “phần tử chống Xô Viết” bị trục xuất. Xe tăng, chiến đấu cơ, và những chiếc thuyền phao của Đức đã được điều động vào khu vực biên giới được bảo vệ bởi hàng rào kẽm gai; giờ đây hàng rào đó đã bị dở bỏ. Tiếng ồn từ những chiếc mô-tô của Đức vang dội dọc biên giới của Liên Xô.

Tại trung tâm của “Góc Nhỏ” là một bàn hội nghị, nơi Stalin đã tổ chức vô số buổi họp giành cho việc chuẩn bị chiến tranh. Ông đã ép buộc phải hướng đến việc thành lập 9,000 xí nghiệp trong suốt 3 bản kế hoạch 5-năm, và trong vòng 1 thập kỷ việc chế tạo vũ khí quân sự của Liên Xô thậm chí còn tăng nhanh hơn cả GDP của nước này. Ông giám sát việc thành lập của 125 sư đoàn mới kể từ năm 1939, và giờ đây lực lượng Hồng Quân đã có 5,37 triệu lính và trở thành lực lượng vũ trang lớn nhất thế giới. Họ có 25.000 cỗ xe tăng, và 18.000 chiến đấu cơ, lớn hơn gấp 3-4 lần quy mô của Đức. Stalin hiểu rằng Đức có một sự đánh giá thấp vượt qua cả sự định kiến và ngu ngốc về lực lượng quân sự khổng lồ của ông, vì thế ông đã sắp xếp những chuyến thăm của người Đức đến khu chế tạo máy bay của và xe tăng của Liên Xô, và thậm chí còn cho phép máy bay của Đức thực hiện những chuyến do thám về những khu tập trung quân sự, sân bay, căn cứ hải quân, các kho nhiên liệu và quân dụng của Liên Xô mà không gặp bất kì sự cản trở nào. Stalin cũng chỉ thị những gián điệp của ông rải những tin đồn rằng, nếu bị tấn công thì chiến đấu cơ của Liên Xô sẽ tấn công Berlin bằng những chất độc hóa học và sinh học. Nếu ông là Hitler, Stalin sẽ chùn bước.

Tất nhiên, nếu đất nước của ông thật sự được trang bị vũ khí tốt như vậy thì tại sao lại không để kẻ thù tiếp tục khinh suất một cách ngu ngốc như vậy? Bởi vì cái gọi là “Cuộc chiến mùa đông” giữa Liên Xô và Phần Lan diễn ra vào 1939-40, đã phơi bày những điểm yếu của quân đội Liên Xô không chỉ với Hitler mà còn cả Stalin nữa. (Quân đội Xô Viết đã giành chiến thắng cuối cùng, nhưng họ đã bị cản trở trong suốt mấy tháng trời bởi sự chống cự quả cảm của người Phần Lan.) Hồng quân Liên Xô vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu lại tổ chức và nâng cấp công nghệ mở rộng sau cuộc chiến với Phần Lan. Hồng quân chỉ sở hữu khoảng 1.800 xe tăng hạng nặng hiện đại; Lực lượng xe tăng còn lại thì quá nhẹ so với xe tăng của Đức. Tương tự, những chiến đấu cơ hiện đại nhất của Liên Xô chiếm khoảng 1 phần 4 lực lượng không quân. Việc chuẩn bị chiến tranh của Stalin cũng mang dấu vết của những cuộc hành hình hàng ngàn sĩ quan trung thành, đặc biệt là những viên chỉ huy cao cấp như Vasily Blyukher, đôi mắt của ông đã được đặt lên tay trước khi ông bị tra tấn đến chết vào năm 1938. Và viên chỉ huy tài năng Mikhail Tukhachevsky, máu của ông đã bắn lên tung tóe khi ông “thú nhận” là gián điệp của Đức – xảy ra trước đó không lâu khi Stalin ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau giữa Đức và Liên Xô.

Hiện tại, 85% sĩ quan các sư đoàn có độ tuổi khoảng 35 hoặc trẻ hơn; những người từ 45 tuổi trở lên chiếm khoảng 1%. Tổng số 1.013 các tướng tá của Liên Xô đều dưới 55 tuổi, và chỉ có 63 người lớn hơn 55. Nhiều người có trình độ chuyên môn chỉ được khoảng thời gian mới đây. Trong số 659.000 sĩ quan của Liên Xô, chỉ khoảng một nửa số đó đã tốt nghiệp từ các trường quân đội, trong khi khoảng 1/4 chỉ trải qua vài khóa học quân sự, và 1/8 chưa từng tiếp xúc với giáo dục quân sự hay những thứ đại loại như vậy.

THỜI ĐIỂM LÀ ĐÊM NAY

Stalin nhận thức cao độ về những thực tế này, nhưng sau đó tính khí bất thường của nhà lãnh đạo này đã lấn áp tất cả. “Stalin cảm thấy bị khiêu khích và tức giận bởi những báo cáo không ngớt (bằng miệng và văn bản) về sự xuống cấp trầm trọng trong mối quan hệ với nước Đức,” sĩ quan hải quân Nikolai Kuznetsov của Liên Xô hồi tưởng về giai đoạn này. “Ông ấy cảm thấy rằng mối nguy hiểm đang cận kề,” Nikita Khrushchev nhớ lại, thời điểm đó ông là bí thư thứ nhất của Đảng cộng sản ở Ukraine và đã ở Moscow trong suốt tháng 6 định mệnh đó. “Đất nước chúng ta có thể xử lý chuyện này không? Đội quân của ta có thể chiến thắng không?”

Ngày 21 tháng 6 năm đó là ngày Hạ Chí, một ngày dài nhất trong năm – và dường như nó kéo dài vô tận. Vào lúc 5:00 chiều, Stalin ra lệnh cho tất cả các bí thư của Đảng ở các quận của Moscow phải ở nguyên vị trí của họ. Vào lúc 6:27 chiều, Molotov bước vào “Góc Nhỏ” – là người đến đầu tiên, như thường lệ. Lúc 7:05 chiều, lần lượt Beria, Kuznetsov, Geogry Malenko (một ủy viên cấp cao của Đảng cộng sản, đứng đầu ban tổ chức Đảng), Grigory Safonov (một phó tổng kiếm sát trưởng trẻ đảm trách những tòa án quân sự), Semyon Timoshenko (một viên chỉ huy quân đội cấp cao), Kliment Voroshilov (phó lãnh đạo chính phủ), và Nikolai Voznesensky (trưởng ban kế hoạch nhà nước) bước vào văn phòng của Stalin. Cuộc thảo luận chủ yếu xoay quanh những mức độ tiến triển gần đây của cuộc chiến sắp tới và sự khiếp sợ của Stalin về các hành động khiêu khích của Đức có lẽ đã cho thấy điều tội tệ sắp xảy ra.

Tình báo quân đội của Stalin ước tính rằng chỉ khoảng 120 đến 122 trong số 285 sư đoàn của Đức được điều đi để đánh Liên Xô, so với khoảng 122 đến 126 sư đoàn dùng để đánh nước Anh (37 đến 43 sư đoàn còn lại được cho là quân dự phòng). Thực tế là có khoảng 200 sư đoàn được dàn ra để chống lại quân Liên Xô – với tổng số quân ít nhất là 3 triệu lính Đức (Wehrmacht) và 500 ngàn quân từ các đồng minh phe Trục của Đức, và 3.600 cỗ xe tăng, 2.700 máy bay, 700.000 súng trường và các pháo binh khác, 600.000 phương tiện mô-tô, và 650.000 chiến mã. Lực lượng Hồng quân tập hợp được khoảng 170 sư đoàn (khoảng 2.7 triệu người) ở phía Tây, cùng với 10.400 xe tăng và 9.500 chiến đấu cơ. Hai đội quân lớn nhất trong lịch sử nhân loại đã đối đầu nhau trên một trục biên giới dài hơn 2.000 dặm.

Một điều đáng chú ý là lực lượng của Đức đã chiếm được những vị trí thuận lợi, còn Hồng quân của Liên Xô thì không. Quả thật như vậy, Stalin thừa nhận đã che đậy chiến lược tái bố trí lực lượng ở bên trong vùng biên giới phía Tây. Nhưng ông ta không cho phép lập ra những giả định về các vị trí cho trận chiến, vì ông ta sợ rằng việc này sẽ có lợi cho đội quân hiếu chiến đang rất nôn nóng ra trận của Đức và đang thúc giục Hitler ra lệnh. Những phi cơ của Liên Xô không được phép bay qua vùng biên giới quá 6 dặm. Timoshenko và Georgy Zhukov, và một viên chỉ huy quân đội cấp cao phải đảm bảo rằng các sĩ quan ngoài chiến trường không được có những hành động gây hấn với đối phương. Beria nhận nhiệm vụ của một tay sát nhân bằng việc tổ chức “một lực lượng chiến đấu dày dạn trận mạc để chống lại bất kì cuộc đụng độ biên giới nào có thể được sử dụng như cái cớ để phát động chiến tranh.” Những viên chỉ huy của Liên Xô có thể bị xử tử bởi chính phe của họ nếu lực lượng của họ không chống lại được hỏa lực của phe Đức.

Tình báo của Xô Viết báo cáo rằng không chỉ Đức mà còn cả những nước đồng minh phía đông của họ như Phần Lan, Hungary, Romania, và Slovakia cũng đã sẵn sàng cho cuộc tổng tấn công. Nhưng Stalin vì trước đó đã không tin vào chuyện này, giờ đây đã hoàn toàn bị sốc. Cứ mỗi hành động của Stalin đều được Hitler sử dụng như một cái cớ để phát động chiến tranh.

Vào lúc 7:00 tối, Gerhard Kegel, một gián điệp của Liên Xô tại lãnh sự quán Đức ở Moscow đã đánh liều mạng sống của mình, ông lén ra ngoài để báo cho một quan chức Liên Xô là những nhân viên của Đức sống bên ngoài lãnh sự đã được lệnh phải vào trong đại sứ quán ngay lập tức và “tất cả đều nghĩ rằng đêm nay cuộc chiến sẽ xảy ra.” Lúc 8:00 tối, một người đưa thư đến để đưa cho Stalin, Molotove, và Timoshenko thông tin tình báo này được niêm phong cẩn thận trong phong bì. Trong “Góc Nhỏ”, Kuznetsov, Safonov, Timoshenko, Voroshilov, và Voznesensky rời căn phòng lúc 8:15, Malenkov cũng rời khỏi sau đó 5 phút. Không có điều gì quan trọng được quyết định.

Zhukov gọi điện vào văn phòng thông báo rằng một tên lính Đức nữa đã bị phát hiện là đang vượt qua biên giới và cảnh báo là cuộc xâm lược sẽ diễn ra trong vài tiếng nữa. Đây chính xác là loại “khiêu khích” mà Stalin sợ nhất. Ông đã ra triệu Zhukov vào điện Kremlin, cùng với Timoshenko vừa mới ra khỏi đó. Họ bước vào phòng của Stalin lúc 8:50. Trong khi Molotov và Beria lặp lại những lời phản bác của Stalin là Hitler chuẩn bị tấn công, hai viên chỉ huy từng là nông dân này có thể thấy rằng Đức có vẻ chuẩn bị tấn công. Dù vậy, khi Stalin vẫn từ chối không tin, họ nghĩ là có lẽ ông ấy biết được những thông tin tối mật nào đấy. Trong bất kì trường hợp nào, họ hiểu cái giá của việc làm mất đi lòng tin của ông ấy. “Mọi người đều ghi nhớ những sự kiện xảy ra trong những năm gần đây,” Zhukov sau đó nhớ lại. “Và tôi muốn nói rõ ràng rằng Stalin đã sai, đó là lỗi của ông ấy, nói một cách thẳng thắng là vậy, có nghĩa là nếu không rời khỏi cung điện đó, bạn sẽ đi uống cà phê với Beria.” (ám chỉ là nếu ông nói trái ý Stalin thì sẽ bị xử tử cùng với với Beria – ND)

Tuy nhiên, cả hai người này rõ ràng đã dùng những lời cảnh báo của những kẻ đào ngủ để thúc dục một cuộc tổng động viên – tương đương với chiến tranh trong tâm trí của Stalin. “Không phải là những tướng tá của Đức đã cho những kẻ đào ngủ đó vượt qua biên giới để xúi giục một cuộc xung đột sao? Stalin hỏi. “Không phải”, Timoshenko trả lời. “Chúng tôi nghĩ những tên đào ngũ đó đang nói thật.” Stalin: “Giờ chúng ta phải làm gì?” Timoshenko im lặng một lúc. Cuối cùng, ông đề xuất, “Đặt báo động cao cho lực lượng ở biên giới phía tây.” Ông và Zhukov đã đi đến việc chuẩn bị một bản thảo chỉ thị.

Stalin đã thử liên lạc với Hitler, thậm chí ông còn mong chờ những đòi hỏi từ Hitler sẽ gửi đến cho ông. “Molotov đã xin phép được bay đến Berlin, nhưng đã bị từ chối.” Joseph Goebbels, trưởng bộ máy tuyên truyền Quốc xã đã viết trong cuốn nhật ký của mình vào ngày 18 tháng 6. “Một lời đề nghị ngây thơ.”

Stalin, thay vì tiếp tục chờ đợi một tối hậu thư từ Hitler, đã có thể tiến hành trước. Đây chính là lựa chọn cuối cùng của ông ấy, và đó là một cơ hội có sức mạnh tiềm tàng. Hitler sợ rằng nhà lãnh đạo xảo quyệt của Liên Xô sẽ bằng cách nào đó biết được âm mưu tấn công và đơn phương đề xuất những nhượng bộ không có tiền lệ cho Đức. Stalin có vẻ đã thảo luận về những nhượng bộ có thể cho phép với Molotov, nhưng nếu điều đó xảy ra, thì lại không có tài liệu nào nói về việc này. Rõ ràng là Stalin đã mong đợi Đức sẽ đòi hỏi những mỏ dầu ở Caucasian, vùng Ukraine, và mượn đường cho quân Đức được đi qua lãnh thổ Xô Viết mà không bị cản trở để chiến đấu với người Anh ở vùng Cận Đông và Ấn Độ. Stalin đã có thể công khai khẳng định thiện chí của mình để tham gia vào lực lượng chống nước Anh, cố gắng trả thù chống lại cường quốc mà ông căm thù nhất, và quan trọng hơn, phủ nhận lý lẽ của Hitler về việc người Anh đang chống lại nước Đức với sự tham gia hỗ trợ từ Liên Xô. Thay vào đó, hoặc song song với điều này, Stalin đã có thể bắt đầu rút hoàn toàn các lực lượng của Xô Viết từ vùng biên giới về sâu trong lãnh thổ, điều này sẽ phản bác lại luận điệu chiến tranh mà các lãnh đạo của Đức Quốc xã tuyên truyền cho công chúng nước này: một “cuộc tấn công ngăn chặn” chống lại “việc tăng cường vũ trang của Xô Viết.”

Thay vì thực hiện một phản ứng khéo léo, Stalin vẫn giữ vững niềm tin rằng Đức không thể tấn công Nga khi vẫn chưa đánh bại được nước Anh, mặc dù người Anh không có lực lượng đóng trên lục địa và cũng không định bảo vệ lãnh thổ nào ở đây cũng như trong trạng thái chuẩn bị tấn công nơi này. Ông giả định rằng trong trường hợp Hitler cuối cùng đưa ra đòi hỏi của mình, Stalin sẽ có thể câu thêm thời gian thông qua đàm phán: có thể sẽ nhân nhượng, nếu những đòi hỏi có thể nhượng bộ được, và do đó có thể ngăn chặn được chiến tranh xảy ra, hoặc nhiều khả năng là sẽ kéo dài những cuộc đối thoại ra xa ngày mà Hitler đã dự định phát động cuộc xâm lược. Như vậy Stalin sẽ có thêm một năm quan trọng nữa, trong khoảng thời gian này công nghệ quân sự của Hồng quân sẽ được cải tiến hiện đại hơn nữa. Nếu điều này thất bại, Stalin đi sâu hơn nữa đó là thậm chí nếu xung đột xảy ra, người Đức sẽ cần thêm ít nhất 2 tuần nữa để huy động toàn bộ lực lượng xâm lược tinh nhuệ nhất của họ, điều này giúp cho ông cũng có thêm thời gian để huy động lực lượng. Khi những gián điệp của ông ở Berlin và những nơi khác báo cáo rằng quân đội Đức đã “hoàn tất mọi công tác chuẩn bị chiến tranh,” ông không hiểu rằng điều này có nghĩa là người Đức sẽ mang toàn bộ lực lượng tinh nhuệ của mình vào cuộc chiến ngay từ ngày đầu tiên.

CHIẾN DỊCH BARBAROSSA BẮT ĐẦU

Trong văn phòng của Stalin, trong khi cuộc thảo luận giữa Stalin với Timoshenko và Zhukov đang khá nóng bỏng, Molotov đã bước ra khỏi phòng. Stalin đã nhờ ông triệu tập đại sứ Đức là Friedrich Werner von der Schulenburg đến Thượng viện Hoàng gia cho một cuộc gặp vào lúc 9:30 tối. Friedrich đến rất sớm, ông trực tiếp giám sát việc đốt hết các tài liệu mật ở đại sứ quán. Các phái viên ngoại giao rất thất vọng về việc hiệp ước của Hitler-Stalin, hiệp ước mà ông là một cầu nối quan trọng trong việc hình thành nó, đã trở thành một công cụ không phải cho việc đàm phán về vấn đề chia cắt Ba Lan để tránh chiến tranh mà lại là một sự khởi đầu cho một cuộc chiến tranh thế giới nữa. Giờ đây ông lo sợ về cuộc chiến Xô-Đức đang được đồn thổi rất nhiều sẽ xảy ra, và mới đây ông đã đích thân bay về Berlin để gặp Hitler và cố gắng thuyết phục ông này về những biểu hiện hòa hiếu của Stalin nhưng bất thành. Trong cơn tuyệt vọng, Schulenburg đã gửi cố vấn lãnh sự của ông về Berlin để thử thêm một lần nữa, nhưng mọi chuyện vẫn không khá hơn.

Molotov yêu cầu được biết tại sao Đức lại tiến hành sơ tán các nhân viên của mình, do đó đã thổi bùng lên những đồn đoán về chiến tranh sẽ xảy ra. Ông trao tận tay Schulenburg một lá thư phản đối về chi tiết của những vi phạm có hệ thống của Đức đối với không phận của Liên Xô và đã thẳng thắng nói rằng “chính phủ Xô Viết không thể hiểu được nguyên nhân về sự bất mãn của Đức trong quan hệ với Liên Xô, nếu như có một sự bất mãn như thế tồn tại.” Ông ta cũng phàn nàn rằng “không có bất kì lý do gì khiến cho chính phủ Đức phải bất mãn với Nga cả.” Schulenburg đáp lại “tôi đang cố gắng làm rõ những vấn đề này,” nhưng ông đã nhún vai và nói rằng ông “không thể trả lời những thắc mắc này, bởi vì Berlin đã thông tin rất ít cho tôi về việc này.”

Trong cuộc viếng thăm cấp nhà nước đến Đức vào tháng 11 năm 1940, Molotov đã cùng sánh vai với Hitler trong văn phòng thủ tướng mới xây vô cùng đồ sộ, và họ cùng tranh luận về sự bất đồng trên các vùng ảnh hưởng ở Đông Âu. “Tôi chưa từng chứng kiến có vị khách ngoại quốc nào từng nói chuyện với Hitler kiểu như vậy,” người thông dịch cho Hitler sau này viết lại. Nhưng bây giờ Molotov chỉ có thể thể hiện, rất nhiều lần, sự hối tiếc rằng Schulenburg đã “không thể trả lời những câu hỏi được nêu ra.”

Molotov vào lại văn phòng của Stalin. Bất thình lình, khoảng 10:00 tối, trong cái sức nóng đầy ngột ngạt ấy, những cơn gió đột nhiên thổi mạnh vào phòng làm tung những chiếc rèm trên những cửa sổ đang mở toang. Sau đó là những tiếng sấm chớp liên hoàn và Moscow bắt đầu chịu những cơn mưa xối xả.

Cuối cùng, Stalin cũng xuống nước trước phản đối của những cấp dưới của ông ấy và chấp thuận bản thảo chỉ thị của họ. Timoshenko và Zhukov chạy vội ra khỏi văn phòng của Stalin lúc 10:20 tối, cuối cùng một chỉ thị về việc tổng động viên cho chiến tranh đã được ban hành, đó là Chỉ thị số 1. “Một cuộc tấn công bất ngờ của quân Đức có thể sẽ xảy ra vào ngày 22-23 tháng 6 năm 1941,” chỉ thị khẳng định. “Nhiệm vụ của quân đội chúng ta là hạn chế bất kì những hành động khiêu khích nào có thể gây ra làm phức tạp thêm tình hình.” Bản Chỉ thị yêu cầu rằng “trong suốt đêm của ngày 22 tháng 6 năm 1941, tất cả những vị trí thuận lợi của những khu vực trọng yếu trong vùng biên giới phải được chiếm cứ một cách bí mật,” và “trước rạng sáng ngày 22 tháng 6, 1941, tất cả các chiến đấu cơ trong các lực lượng không quân phải được phân tán và ngụy trang khéo léo,” và “tất cả các đơn vị phải ở trong trạng thái chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu,” và “không được thực hiện bất kì hành động nào khác khi chưa có những chỉ dẫn cụ thể.” Bản chỉ thị có kèm theo chữ ký của Timoshenko và Zhukov. Những viên chỉ huy đã cố gắng xóa bỏ phần thêm vào của Stalin đó là nếu quân Đức tấn công, các chỉ huy của Xô Viết phải cố gắng gặp họ và dàn xếp những xung đột. Tuy nhiên, bản chỉ thị nêu rõ ràng là các lực lượng quân đội phải sẵn sàng cho cuộc chiến đồng thời làm mọi thứ có thể để tránh chiến tranh xảy ra.

Những sĩ quan cao cấp lẫn hạ cấp ở gần biên giới đang chuẩn bị những buổi biểu diễn, như họ vẫn hay làm vào các đêm thứ bảy. Ở thành phố Minsk, cách vùng biên giới 150 dặm về phía đông, những viên sĩ quan đang xem vở “Đám cưới ở Malinovka”, một vở hài kịch về một ngôi làng ở vùng thảo nguyên Ukraine trong thời kì nội chiến. Tất cả đã được chuẩn bị sẵn sàng. Những người tham dự bao gồm vị chỉ huy cấp cao của lược lượng quân đội khu vực phía Tây, Dmitry Pavlov; vị tham mưu trưởng và những cấp phó của ông. Đã có 6 phi cơ lượn qua khu vực biên giới nơi trú đóng của Pavlov vào một buổi tối gần đây. “Đừng bận tâm. Hãy kiềm chế. Tôi biết rồi, chuyện này đã được báo cáo! Hãy kiềm chế!” Pavlov tình cờ nghe được một cuộc nói chuyện trên điện thoại về các báo cáo về những hành động của Đức. Khi Pavlov vừa đặt ống nghe điện thoại xuống và chuẩn bị ra đón một vị khác thì chuông điện thoại lại reo lên. “Tôi rõ rồi, nó đã được báo cáo,” Pavlov được nghe rằng. “Tôi biết. Những chỉ huy cấp trên biết rõ tình hình hơn chúng ta. Chỉ có vậy thôi.” Ông cúp điện thoại. Trong suốt vở kịch, Pavlov bị cắt ngang bằng một báo cáo mới về hoạt động bất thường của quân Đức: Họ đã tháo rào chắn ở khu biên giới của họ, và thậm chí có thể nghe âm thanh của những chiếc mô-tô ngày một to hơn ở một khoảng cách xa. Một hàng dài không dứt của những đoàn quân Đức đang di chuyển về phía biên giới và Pavlov vẫn còn đang xem kịch.

Khoảng nửa đêm, chỉ huy quân sự khu vực Kiev đã gọi dân quân tự vệ báo cáo về một cuộc vượt biên nữa của quân Đức, khẳng định rằng các binh lính Đức đã chiếm lấy những vị trí khai hỏa của họ bằng xe tăng. Khoảng 12 giờ đồng hồ trước, lúc 1:00 chiều, một chỉ huy cấp cao của Đức đã truyền một mật lệnh cho chiến tranh, “Dortmund.” Chiều hôm đó, Hitler đã thảo một bức thư giải thích quyết định tấn công Xô Viết của ông đến các lãnh đạo của các nước đồng minh của Đức Quốc xã. Nicolaus von Below, một sĩ quan của Hitler đã chú ý về việc “lãnh tụ” của ông đang “cực kì lo lắng và suốt ruột. Hitler nói rất nhiều, đi tới đi lui; ông ấy không được kiên nhẫn lắm và có vẻ đang chờ đợi một điều gì đó.” Khi ông còn ở trong văn phòng Thủ tướng cũ, Hitler đã thức trắng 2 đêm liên tiếp. Ông dùng bữa tại phòng ăn và nghe “Les Preludes”, một bài thơ của Franz Liszt. Ông cho gọi Goebbels, người cũng vừa xem xong bộ phim “Cuốn theo chiều gió”. Cả hai cùng đi qua đi lại trong phòng vẽ của Hitler trong một lúc khá lâu, họ đang cố gắng hoàn tất nội dung và thời điểm của bản tuyên bố chiến tranh của Hitler vào ngày hôm sau. Bản tuyên bố này sẽ tập trung vào việc “bảo vệ Châu Âu” và tiêu diệt những lực lượng nguy hiểm không thể chờ được nữa. Goebbels rời khỏi đó lúc 2:30 sáng, và trở lại bộ tuyên truyền nơi mà những nhân viên của ông đang đợi. “Tất cả mọi người đều hết sức ngạc nhiên,” ông viết trong cuốn nhật ký, “thậm chí đối với những người đã biết được một nửa kế hoạch hoặc cả những người biết tường tận kế hoạch đó.” Người Đức đã đặt tên cho cuộc xâm lược là “Chiến dịch Barbarossa”. Và bây giờ nó đã bắt đầu. 

Hầu hết những lực lượng tiền tuyến của Liên Xô đã không nhận được Chỉ thị số 1. Những đơn vị chủ lực của Đức, nhiều trong số đó ngụy trang bằng cách mặc lên người đồng phục của Hồng quân, đã vượt qua biên giới và sau đó phá hủy hệ thống liên lạc của Liên Xô. “Bắt đầu một cuộc chiến tranh cũng giống như lúc mở cửa vào một căn phòng tối vậy,” Hitler nói với thư ký riêng của ông. “Chúng ta sẽ không biết điều gì ẩn sâu trong màn đêm đen tối đó.”

ẢO TƯỞNG SỨC MẠNH

Chế độ của Stalin sao chép lại một khuôn mẫu đã được in sâu xuyên suốt trong lịch sử của nước Nga: Giới cầm quyền ở Nga thường phát động những công cuộc hiện đại hóa ép buộc để vượt qua hoặc ít nhất giải quyết được tình trạng chậm phát triển của một đất nước tự xem mình là cường quốc với một sứ mệnh đặc biệt nhưng thực chất đang bị tụt hậu quá xa so với các cường quốc khác. Thêm một chiến dịch cần phải làm ngay vì một nhà nước vững mạnh, một lần nữa, lại lên tới đỉnh điểm của sự thống trị cá nhân. Chế độ của Stalin đã định nghĩa lại khái niệm về tư tưởng của công chúng và bản sắc cá nhân, và chính Stalin cũng đã cá nhân hóa những cuồng nhiệt và ước mơ về một xã hội chủ nghĩa hiện đại cũng như một nhà nước Xô Viết hùng mạnh. Chỉ với những bức điện và những cuộc gọi ngắn gọn, ông ta có thể thúc đẩy được bộ máy cồng kềnh của Đảng-nhà nước Xô Viết vào các chương trình hành động bằng những thông điệp mang tính kỉ luật và đe dọa, cũng như làm kích động những công chức trẻ tuổi có cảm tình gần gũi với ông hay hàng triệu người khác chưa từng gặp mặt ông phải vào guồng.

Chế độ của Stalin không chỉ cam kết xây dựng một nhà nước hiện đại mà còn làm cho xã hội ưu việt hơn cả hệ thống thị trường và tư hữu của các lực lượng chống đối và thế lực ngoại bang – một hình thái xã hội mới của giai cấp tư sản, cũng như đấu tranh cho công bằng xã hội trên quy mô toàn cầu. Trong thế giới quan cũng như từ thực tiễn cho thấy, có một âm mưu được cho là có mặt khắp mọi nơi liên tục chống lại chính quyền Xô Viết. Trong việc quản lý, chính phủ đã thiết lập một cuộc vận động cho việc lập kế hoạch và kiểm soát để kết thúc việc gia tăng của những hoạt động phạm pháp, động cơ sai trái, và một hệ thống trong đó việc tuyên truyền và những huyền thoại về “bộ máy” là phần được tập trung nhiều nhất. Giữa đỉnh điểm của sự mơ hồ và sai lầm hiển nhiên đó, thậm chí những quan chức cao cấp nhất đã biến chất trong nghiên cứu về điện Kremlin. Sự cuồng tín về việc siêu tập trung hóa thường dẫn đến con đường tự sát, nhưng sự sùng bái về Đảng và đặc biệt về việc không bao giờ sai lầm của Stalin tỏ ra là lỗ hổng nguy hiểm nhất trong phương pháp cai trị sai lầm của Stalin.

Xu hướng của Stalin là một nhà dân tộc Nga theo hướng đế quốc, và chủ nghĩa chống lại phương Tây là động lực cốt lõi của nền văn hóa chính trị lâu dài mang bản sắc Á Đông của người Nga. Ban đầu, chiến dịch đầy tham vọng của Xô Viết nhằm cân bằng sức mạnh với phương Tây trên thực tế đã gia tăng sự phụ thuộc của đất nước này vào công nghệ và bí quyết của phương Tây. Nhưng sau khi thu thập những công nghệ từ nhiều nền kinh tế phát triển ở phương Tây, chế độ của Stalin đã tiến hành phát triển ngành công nghiệp quân sự và những ngành công nghiệp liên quan khác của riêng mình trên một quy mô chưa từng có tiền lệ thậm chí đối với một quốc gia quân sự hàng đầu. Tuy nhiên, về mặt địa-chính trị, trong khi chế độ Nga Hoàng khi trước đã gia nhập các liên minh nước ngoài để đảm bảo an ninh cho đất nước, thì Liên Xô chủ yếu tìm kiếm, hoặc chỉ thiết lập những hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau mà thôi. Hình thức liên minh chính thức duy nhất của Liên Xô được lập ra với nước Pháp, nhưng lại thiếu yếu tố liên minh về quân sự. Vì thế, tình trạng tự cô lập của đất nước này trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết.

Stalin luôn gọi chủ nghĩa Phát-xít là “lũ phản động,” một phương pháp được cho là để giữ gìn trật tự thế giới cũ của tầng lớp tư sản. Nhưng Hitler dần trở thành một người không phải là Mác cũng như không phải là Lenin mà Stalin đã dự đoán. Là một người sùng bái Đức lâu năm, Stalin có vẻ đã bị quyến rũ bởi danh tiếng và sự dũng cảm của chế độ độc tài toàn trị tương đương của Đức. Trong một thời gian, ông ta đã phục hồi trạng thái cân bằng về mặt cá nhân và chính trị trong hiệp ước phi thường của ông với Hitler, hiệp ước đã làm chệch hướng bộ máy chiến tranh của Đức, trao cho Đức món quà là những thiết bị công nghiệp, cho phép ông chinh phục và Xô Viết hóa những vùng biên giới cũ của chế độ Nga Hoàng, và đặt Liên Xô trở lại vai trò điều tiết những vấn đề của thế giới. Hitler đã bị kích động, và miễn cưỡng ngả theo lòng tham của Stalin. Nhưng sớm hơn nhiều so với dự kiến của nhà độc tài này, khả năng bòn rút lợi ích của Stalin từ một người cực kì nguy hiểm như Hitler đã đẩy châu Âu và thế giới đến tận cùng của sức chịu dựng. Điều này đã tạo ra tình trạng căng thẳng không thể xoa dịu được trong cuộc đời và sự cai trị của Stalin, tuy nhiên ông vẫn vẫn kiên quyết phớt lờ việc nắm bắt những tình hình mới, và không thể cưỡng lại sự ham muốn về những công nghệ của Đức. Mặc dù sở hữu những khả năng am tường về tâm lý con người, sự khôn ngoan phi thường, và trí tuệ sắc bén, Stalin đã bị mù quáng bởi ý thức hệ và những ý tưởng cứng nhắc. Thủ tướng của Anh là Winston Churchill không hề kiểm soát bất kì một lãnh thổ nào trong phần biên giới của Liên Xô, nhưng Stalin vẫn hoàn toàn bị ám ảnh bởi chủ nghĩa đế quốc của Anh, thậm chí liên tục chửi bới hiệp ước Versailles khi Hitler đã xé bỏ nó được một thời gian khá lâu rồi, cũng như không ngừng nghĩ rằng Hitler đang câu kết với người Anh ngay sau lưng mình.

LỰA CHỌN CỦA HITLER

Đối với Hitler, bản hiệp ước năm 1939 là một sự khó chịu cần thiết, mà với may mắn, sẽ không tồn tại được lâu. Sự am hiểu về chủ nghĩa chủng tộc, xã hội của Darwin và vấn đề một mất một còn trong địa chính trị của ông có nghĩa là việc hai nước Liên Xô và Anh Quốc bị tiêu diệt sẽ là bằng chứng cho thấy rằng nước Đức mang trong mình số mệnh của một chủng tộc siêu việt. Chắc chắn là trong trung hạn, suy nghĩ của Hitler về vấn đề thống trị lục địa châu Âu sẽ đòi hỏi một “không gian sinh tồn” (Lebensraum—living space) ở phía Đông. Nhưng trong dài hạn, ông ta biết trước việc thống trị thế giới (Weltmacht) của mình sẽ cần đến một hạm đội Biển Xanh với những căn cứ ở rìa Đại Tây Dương, và một đế chế thuộc địa ở những vùng nhiệt đới cho việc cung cấp nhiên liệu thô. Điều này sẽ xung đột với sự phát triển liên tục của đế chế Anh Quốc, ít nhất là về thực lực của đế quốc Anh trong thời điểm đó. Vì thế Hitler buộc phải đặt mình trước một sự lựa chọn khó khăn của việc hoặc là đi sâu hơn vào những thỏa thuận trong bản hiệp ước năm 1939 với Stalin và thách thức toàn bộ đế chế Anh, điều này có nghĩa là thừa nhận phần ảnh hưởng của Liên Xô ít nhất là ở khu vực Balkans và Biển Đen – cộng thêm khu vực của Liên Xô ở Baltics – hoặc một lựa chọn khác là giải phóng ông khỏi sự phụ thuộc đáng ghét vào Moscow và sau đó mới thách đấu với nước Anh. Và cuối cùng, những thực tế về quân sự đã giúp định hình nên chuỗi sự kiện sau đó: Hitler không sở hữu những khả năng không quân và hải quân vượt trội hay chiều sâu về những nguồn lực để áp đảo về mặt quân sự với nước Anh; ông chỉ có những lực lượng bộ binh đủ mạnh để nghiền nát Liên Xô mà thôi.

Một cam kết cho sự giao tranh uy thế kéo dài với người Anh, đất nước mà Hitler đoán là sẽ được nhận ngày càng nhiều nguồn hỗ trợ to lớn từ Hoa Kỳ, đã đẩy nhanh quyết định kết liễu Liên Xô như là một màn dạo đầu cần thiết. Hơn nữa, tuy Hitler và những viên chỉ huy cấp cao của Đức hiểu rằng Liên Xô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc tấn công, cuộc xâm lược hay chiến tranh ngăn chặn cũng đều giống nhau theo logic của ông mà thôi, bởi vì Liên Xô chỉ có thể trở nên mạnh mẽ hơn và là chính họ khi tấn công vào thời điểm họ nghĩ rằng mình có nhiều lợi thế hơn. Và vì thế vào năm 1940, trong khi hối thúc Nhật Bản tấn công những vị trí của nước Anh ở Đông Á, Hitler đã đề nghị chính phủ Anh một kiểu hiệp ước mà ông đã làm với Stalin và dường như đã bị chết lặng khi chính phủ Anh không chấp thuận đề nghị này. Lãnh đạo Đức Quốc xã đã nắm bắt được nếp suy nghĩ của đế quốc Anh, và ông đã thật lòng khi hứa rằng, để đổi lấy sự tự do hành động trên lục địa Châu Âu, ông sẽ giữ nguyên trạng nước Anh một thời gian. Ông tiếp tục hi vọng rằng nước Anh với sự yếu kém rõ ràng về lực lượng quân sự trên đất liền sẽ không thể đánh bại được ông, và sẽ sớm đi đến những thỏa thuận với ông. Nhưng Hitler đã thất bại để thấu hiểu sở thích lâu đời của người Anh về một sự cân bằng quyền lực trên lục địa châu Âu (chiến lược mà an ninh của cả đế chế phần nào phụ thuộc vào đó). Và ông đã nhận định quá xa về những lợi ích chung giữa London và Moscow hơn là họ nghĩ về chúng.

Trong suốt quá trình chuẩn bị cho cuộc chiến tranh chớp nhoáng với Liên Xô, Hitler vẫn tiếp tục giành nhiều nguồn lực để chuẩn bị cho một cuộc chiến dài hơi trên biển và trên không với nước Anh và nước Mỹ. Vào tháng 5 và tháng 6 của năm 1941 vẫn chưa phải là giai đoạn đen tối nhất đối với nước Anh: Đức đánh chìm những tàu chiến và tiến hành thả bom vào những thành phố của Anh, và nước Anh đã để mất vị trí của họ ở vùng Balkans. Sau khi lực lượng lính nhảy dù của Đức chiếm được Crete vào cuối tháng 5 năm 1941, vị trí của người Anh dường như lâm vào thế cực kì nguy hiểm. 11 ngày trước cuộc phát động xâm lược Liên Xô, Hitler đã ban hành bản thảo của Chỉ Thị số 32, “Những bước chuẩn bị cho thời gian sau chiến dịch Barbarossa.” Chỉ thị này đã phát thảo quá trình chia nhỏ và khai thác những lãnh thổ của Liên Xô, cũng như cuộc tiến công gọng kìm vào kênh đào Suez và những vị trí của nước Anh ở vùng Trung Đông; chiến dịch Gibraltar ở vùng Tây-Bắc Phi, và những hòn đảo của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở Đại Tây Dương, nhằm mục đích loại bỏ người Anh ra khỏi khu vực Địa Trung Hải; và xây dựng những căn cứ vùng duyên hải ở vùng Tây và có thể là vùng Đông Phi. Cuối cùng, sẽ cần đến một căn cứ của Đức ở Afghanistan để chiếm nốt Ấn Độ của nước Anh.

Nếu Hitler dồn hết tất cả sức mạnh của mình vào “chiến lược vùng ngoại vi” (peripheral strategy) này thay vì xâm chiếm Liên Xô, thì có lẽ nước Anh sẽ không có cơ hội sống sót. Cuộc chiến với Liên Xô sẽ được tiến hành vào một lúc nào đó trong tương lai, nhưng lúc này với việc nước Anh đã bị đá văng ra khỏi chiến trường. Khi đó có lẽ sẽ không còn một nước Anh cứng đầu kiến tạo cho một lực lượng Đồng minh do Mỹ dẫn đầu đổ bộ vào Tây Âu nữa.

SỰ SÁNG SUỐT CỦA BISMARCK

Không thể nắm bắt được con người của Hitler nếu chỉ tìm hiểu qua nguồn gốc, cuộc đời hay những ảnh hưởng của ông, một điểm mà ông không kém gì Stalin. Yếu tố chính trong việc hình thành bản sắc của Stalin đó là việc xây dựng và điều hành thể chế độc tài, thông qua nó ông đảm nhận trách nhiệm của chính quyền Xô Viết đối với thế giới. Trên danh nghĩa của chủ nghĩa xã hội, Stalin rảo bước trong văn phòng của ông, và dần hình thành thói quen luân chuyển hàng triệu nông dân, công nhân, thậm chí toàn bộ cả nước – chiếm 1/6 dân số thế giới, vào những ý tưởng của ông ấy mà không hỏi ý kiến ai cả. Nhưng thế giới của ông đã trở nên cực kì hẹp hòi, và Hitler đã bẫy nhà độc tài Liên Xô vào chính “Góc Nhỏ” của ông ta.

Kế hoạch đối phó Hitler của Stalin khác xa chính sách xoa dịu của người Anh đó là Stalin vừa cố gắng ngăn chặn cũng vừa cố gắng thích nghi. Nhưng chính sách của Stalin cũng có phần tương đồng với sự xoa dịu của người Anh trong việc ông đã bị thúc đẩy bởi ao ước mù quán để tránh chiến tranh bằng mọi giá. Ông đã thể hiện được những năng lực về sức mạnh nhưng lại thiếu quyết tâm. Không phải sự kiên quyết đáng sợ cũng như sự khôn khéo được biểu hiện vào năm 1941, điều đã giúp ông đánh bại được những kẻ thù của mình và nghiền nát những lực lượng chống đối bên trong chính quyền của ông. Ông đã rút khỏi việc cố gắng ngăn chặn Hitler về mặt quân sự cho đến thất bại trong việc thay đổi ý định của ông ta trên phương diện ngoại giao.

Tuy nhiên về cuối cùng, câu hỏi ai là người đã tính toán sai không phải là điều dễ trả lời. “Trong số những người có thể tuyên bố ai là người đã đặt nền móng cho đệ Tam Quốc Xã”, Hitler thích nói như vậy, “là một nhân vật vĩ đại đứng riêng lẻ nhưng đầy cảm hứng: Bismarck.” Nhưng Bismarck đã tạo nên bản sắc cho nhiệm kì thủ tướng của riêng ông bằng việc tránh xung đột với nước Nga. Khi bức tượng bán thân của Bismarck được chuyển từ Văn phòng Thủ tướng cũ (Reich Chancellery) sang Văn phòng Thủ tướng mới, nó đã bị bể ở phần dưới cổ. Một bản sao khác đã được làm vội vã và bị thoái hóa nhân tạo khi nó bị ngâm trong trà lạnh. Không ai khác có thể chia sẻ điềm báo này với Hitler cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn